Sunday, November 30, 2025

Ca Mổ Khứ Hồi - Nguyễn Thế Hưng

 

Mấy ngày nay hắn cảm thấy bụng mình không ổn tí nào, cứ như có cái dằm gì bên trong mà thỉnh thoảng trở mình đau nhói. Từ lúc mổ ruột thừa đến nay cả tháng rồi mà chưa thể đi làm được.

Nhà có hai anh em mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nương tựa vào nhau làm thuê đủ thứ việc kiếm sống từ: cắt lúa, cuốc đất, nhặt ve chai, dò phế liệu...không nề hà việc gì mà cũng bữa đói, bữa no. Nhìn mái nhà xiêu vẹo, gió thăm quanh năm, chiếc giường tre ọp ẹp, hắn rơm rớm nước mắt kèm theo cơn đau bụng khiến hắn rên ư ử. Mấy hôm nay, em hắn lên hỏi bác sĩ về bệnh của hắn sao mà đau hoài không dứt.

Thông thường, nghe nói mổ ruột thừa một tuần là bình phục. Chỉ nghe bác sĩ giải thích: mổ thì phải đau chứ, tùy cơ địa mỗi người...Em hắn yên tâm về động viên anh chờ thêm vài ngày sẽ hết. Hôm nay, hắn đau nhiều hơn, không ăn uống gì được. Thấy thằng em đi dò phế liệu về khoe bán được mấy chục ngàn, hắn cười buồn.

Thằng em để cái máy dò phế liệu cũ mềm xuống dưới gầm giường , chỗ anh nó nằm rồi tất tả đi nấu cơm chiều. Chiếc máy kêu liên hồi : bip, bip...Hắn gọi em lên xem chiếc máy bị sao mà phát tiếng kêu làm hắn khó chịu. Thằng em chạy lên, bảo quên tắt công tắc máy, rồi anh em nhìn nhau. Thằng em nói:

- Hay lúc sống, ba mẹ có chôn vàng bạc dưới nền nhà để làm của mà không kịp trăn trối không anh?

Hắn nhìn em mình với ánh mắt ngờ vực nhưng cũng le lói hy vọng. Hắn bảo em dìu qua bàn ngồi và em nó lấy máy rà quanh giường nhưng không nghe thấy gì. Dìu anh trở lại giường thì chiếc máy kêu đều đều. Em hắn nhìn từ đầu đến chân anh nói: chắc người anh có mang nhẫn hay dây chuyền... nhưng lấy gì có mà mang. Em hắn đưa máy rà gần bụng hắn, tiếng kêu lớn dần và thảng thốt kêu lên:

Thôi chết, trong bụng anh có sắt thép gì rồi. Như sực nhớ ra, nó đưa thẳng anh đến bệnh viện cấp cứu .

Sau khi chỉ định siêu âm bụng bệnh nhân, bệnh viện họp khẩn vì hình chiếc kéo hiện rõ mồn một trên màn hình. Cuộc họp căng thẳng qui trách nhiệm ca mổ trước đây hơn một tháng mà trong sổ ghi chép là thành công tốt đẹp, bệnh nhân ổn.

Cuộc tranh luận nổ ra giữa bác sĩ và y tá phụ mổ, không ai biết chiếc kéo để quên hay đi phượt vào ổ ruột bệnh nhân bằng cách nào. Còn cô y tá trong kíp mổ phàn nàn vì bên kiểm vật tư báo mất chiếc kéo mà bị bệnh viện trừ điểm và cắt chiến sĩ thi đua của cô sáu tháng đầu năm vừa rồi.

Rồi hắn cũng được xuất viện, người nhẹ nhàng, hắn thấy yêu đời biết bao. Được y sĩ, bác sĩ thăm hỏi ân cần như từ mẫu và không quên hỏi hắn chỗ bán máy dò phế liệu ở đâu. Nghe đâu phòng phẩu thuật đề xuất mua một cái để kiểm tra nhanh bệnh nhân sau mổ.

Bác sĩ nói vui là hắn còn may mắn đó, bị quên kéo chứ gạc, băng hay hộp quẹt thì sao mà phát hiện được. Có trường hợp đau chân thôi mà còn bị cắt bỏ lộn mất chân giữa nữa là...Kể cả mổ nhầm bệnh nhân cũng không phải là hiếm gặp trong thời buổi xã hội đầy biến động này. Bên nước Jordan, bác sĩ còn quên cả điện thoại di động trong bụng làm bệnh nhân bị sôi ruột cả tuần vì liên tục nhận cuộc gọi đến. Thôi thì xui rủi mà, phát hiện được là mừng rồi.

Anh em hắn về mà lòng tràn đầy hạnh phúc với ít tiền, quà dưỡng bệnh của các mạnh thường quân gửi cho. Nếu không có gì bất thường thì tuần sau hắn được đi làm lại. Hắn huýt sáo liên hồi, hai bên đường hương lúa thơm ngào ngạt...

 

Nguyễn Thế Hưng 

Posted by: lpk 116

Chim Hót Lưng Trời - Đỗ Công Luận

Chuyện Kể Lại: Tinh Khôn Ở Đâu? - Trần Đỗ Cung


Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp Ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.

     Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng  Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.

     Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?

     Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc  mà còn mất cả cá tính nữa.

     Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi. Bà nói, “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác. 

     Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông   thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng, “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản. Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song  đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.
     

        Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trính diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.

      Rồi xẩy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói, “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?

     Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.


     Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.

     Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính. Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.

     Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo. Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.

     Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.

     Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.
         
        Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.

     Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.


     Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa. Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.

     Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.

     “Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”. Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc. 

     Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”. Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.


     Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận đưôc một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.

     Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.

     Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống. “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.


     Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán. “May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!

     “Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.   

 
     Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.

     Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá. “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.
       
       Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai. “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.
     Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc. Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.    


     Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ. “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?

     “Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”, thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”. Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”! “Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.

     Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam. “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?


     Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa? “Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đậc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!

     Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.

         

           Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gập một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy  đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn. Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.

     Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ  tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”: “Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.
  
Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học,  chỉ lặp lại những danh từ Sô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.

     Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm chất xám như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và chất xám trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?
 

Trần Đỗ Cung

Đông Đã Đến Rồi - Nguyễn Duy Phước

Saturday, November 29, 2025

21 Cấu Trúc Đá Kỳ Lạ Nhất Thế Giới - Những Kỳ Quan Thiên Nhiên Khiến Giới Khoa Học Kinh Ngạc!

Một Bằng Hữu Hỏi Về Dầu Ăn - Huỳnh Chiếu Đẳng

 

From: van nguyen <van_ng73@

Date: 10/25/25 4:37 PM (GMT-08:00)

Subject: Re: [quanvenduong] Thưa Thầy 

Thưa Thầy

Trước hết cảm ơn các bài vở trong quanvenduong của thầy rất hửu ích,

Em có câu hỏi: Theo thầy thì Dầu Thực Vật hiện nay bán khắp nơi trong siêu thị nổi tiếng, Costco... gọi chung là Vegetable oil như dầu bông hướng dương, dầu đâu nành.... dùng trong náu nướng ăn có an toàn không thưa thầy? (Olive oil thì an toàn hơn).

Mong được thầy giải thích. Cảm ơn thầy

Kính chúc thầy luôn Vui khỏe

em Kim Vân

HCD :

Cảm ơn Cô đã gửi câu hỏi mà nhiều người cũng muốn biếtnó cũng được nhiều chuyên gia dinh dưỡng quốc tế quan tâm. Tôi xin trình bày theo y học – dinh dưỡng hiện tại (theo các nghiên cứu quốc tế). Lưu ý, các hàng chữ xanh gạch dưới là nguồn tham khảo, click vào đọc chi tiết. Email MTC đã có nhiều lần nói ve6322 chuyện nầy.

1. “Vegetable oil” là gì?

Ở siêu thị Mỹ, “vegetable oil” thường là tên gọi chung cho các loại dầu thực vật tinh luyện, chẳng hạn như:

  • dầu đậu nành (soybean oil)
  • dầu ngô (corn oil)
  • dầu hướng dương (sunflower oil)
  • dầu bông (cottonseed oil)
  • dầu cải (canola oil)
    Những loại dầu này thường đã qua tinh luyện công nghiệp (refined) để loại bỏ mùi, giữ màu, làm ổn định khi lưu kho và chiên nấu.


2. Những điểm tốt

  • Nhiều nghiên cứu cho thấy thay thế chất béo bão hoà (saturated fat) như bơ, mỡ động vật bằng dầu thực vật chứa chất béo không bão hoà (polyunsaturated fat – hoặc monounsaturated) có thể giúp giảm nguy cơ bệnh tim mạch và tử vong do các nguyên nhân tim mạch. Ví dụ: một nghiên cứu cho thấy thay bơ và margarine bằng dầu cải (canola), dầu ngô (corn oil) hoặc dầu ô liu (olive oil) có liên quan tới nguy cơ tử vong thấp hơn. (BioMed Central)
  • Các chuyên gia tại Johns Hopkins Bloomberg School of Public Health cũng cho rằng: “Có rất nhiều bằng chứng cho thấy dầu từ hạt (seed oils) không phải xấu như một số lời đồn; nếu dùng một cách điều độ thì có lợi cho sức khỏe tim mạch và chuyển hóa.” (Johns Hopkins Public Health) (ghi chú: kỷ nghệ mỡ động và bơ sửa tung tin bôi xấu)

Như vậy, nếu Cô dùng dầu thực vật thay cho các chất béo bão hoà như mỡ động vật, bơ, thì theo bằng chứng hiện nay là có lợi hơn.

3. Những lưu ý và hạn chế khi dùng dầu thực vật tinh luyện

Tuy nhiên, “an toàn” không có nghĩa là “không có rủi ro” — có một số điểm quan trọng cần lưu ý:

  • Trong khi tinh luyện dầu thực vật thường dùng nhiệt cao, dùng hóa chất, có thể làm mất đi nhiều chất chống oxy hóa và tạo ra các sản phẩm oxy hóa không tốt cho sức khỏe. (Wiley Online Library)
  • Khi dầu thực vật tinh luyện bị nấu quá độ, chiên đi chiên lại, có thể sinh ra các hợp chất có hại như aldehyde, gốc tự do – tăng nguy cơ viêm mãn tính và tổn thương mạch máu. (Harvard Health) (ghi chú: Trong các tiệm ăn người ta thường dùng dầu xấu (cho rẻ) và chiên đi chiên lại với lửa cao, nguy hiểm lắm)
  • Một số loại dầu “generic vegetable oil” (không rõ nguồn gốc, hỗn hợp nhiều loại) có thể chứa nhiều acid béo omega-6 (linoleic acid) mà nếu dùng quá nhiều so với omega-3 thì có thể thúc đẩy tình trạng viêm. Tuy nhiên, bằng chứng về việc “dầu hạt là độc” không được xác thực rõ. (Harvard Chan School of Public Health)

Như vậy: dầu thực vật vẫn dùng được, nhưng Cô nên chọn và dùng có kiểm soát, không lạm dụng, không dùng quá nhiều chiên rán ở nhiệt rất cao nhiều lần.


4. Về dầu ô liu (olive oil)

  • Rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng dùng dầu ô liu (đặc biệt loại extra-virgin olive oil) có lợi cho tim mạch: giảm huyết áp, cải thiện mỡ máu, giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim, đột quỵ. (PMC)
  • Ví dụ: Nghiên cứu lớn cho thấy mỗi 10 g/ngày tăng dầu ô liu có thể giảm ~10% nguy cơ bệnh tim mạch. (BioMed Central)
  • Bài viết của Harvard T.H. Chan School of Public Health cũng cho biết: dù không có bằng chứng definitively cho thấy EVOO “nhiều hơn” tinh dầu thường thiết yếu, nhưng nó vẫn có thêm các hợp chất phenol chống oxy hóa mà các loại đã tinh luyện mất đi. (Harvard Health)

→ Như vậy: nếu có điều kiện, Cô nên ưu tiên dầu ô liu nguyên chất (extra-virgin) để dùng trộn salad, xào nhẹ, hoặc dùng thay một phần chất béo trong chế độ ăn.


5. Lời khuyên thực tế
Khi mua “vegetable oil” tại siêu thị, Cô nên đọc nhãn: nguồn từ gì (soybean, sunflower, canola…), đã “refined” hay “cold-pressed/virgin”.

  • Dùng dầu thực vật thay mỡ động vật là tốt, nhưng không nên tưởng rằng càng dùng càng tốt — lượng và cách dùng rất quan trọng.
  • Tránh dùng dầu đã chiên đi chiên lại nhiều lần, hoặc dùng quá nhiều cho chiên ngập dầu ở nhiệt cao thường xuyên.
  • Ưu tiên dầu ô liu nguyên chất khi có thể (trộn, xào nhẹ, chế biến nhiệt vừa phải).
  • Kết hợp đa dạng các nguồn mỡ tốt: dầu cá, hạt, quả hạch, quả bơ… để cân bằng omega-3 với omega-6.
  • Nhớ rằng dầu vẫn là chất béo — năng lượng cao, nên dù tốt cũng dùng với mức độ hợp lý.
  •  

6. Kết luận

Câu trả lời ngắn gọn là: , dầu thực vật (“vegetable oil”) hiện nay bán rộng rãi vẫn an toàn sử dụng, và thậm chí có lợi nếu dùng thay cho mỡ bão hoà và dùng đúng cách. Nhưng đồng thời không nên dùng một cách vô tội vạ, đặc biệt là nếu dầu quá tinh luyện, chiên tái, hoặc dùng quá nhiều. Nếu có điều kiện, nên ưu tiên dầu ô liu nguyên chất — vì các nghiên cứu rất tốt về lợi ích tim mạch của nó.

và “nên dùng hạn chế hơn hoặc dùng với lưu ý” —

Bảng tổng hợp các loại dầu

Loại dầu Ưu tiên nên dùng

Thành phần chính / Nhiệt độ nấu khuyên dùng

Gợi ý sử dụng

Lưu ý / Hạn chế

Dầu ô liu nguyên chất (Extra-Virgin Olive Oil)

Nhiều acid béo đơn không bão hòa (MUFA), nhiều chất chống oxy hóa

Trộn salad, xào nhẹ, nấu ở nhiệt vừa phải

Tránh chiên ở nhiệt cực cao quá lâu vì chất chống oxy hóa có thể mất

Dầu quả bơ (Avocado oil)

MUFA cao, điểm khói tương đối cao

Xào, nướng ở nhiệt cao hơn dầu ô liu

Giá hơi cao; vẫn nên dùng với lượng vừa phải

Dầu cải (Canola oil) nguyên chất / ép lạnh (cold-pressed)

PUFA & MUFA tương đối tốt, ít bão hòa

Chiên nhẹ, xào, nấu thông thường

Chọn loại ép lạnh, không chiên đi chiên lại nhiều lần

Dầu từ hạt như: dầu gạo (Rice bran oil), dầu hướng dương loại high-oleic (High-oleic sunflower oil)

Có hỗn hợp MUFA/PUFA tốt, điểm khói cao hơn các loại hạt thông thường

Xào, nấu, chiên vừa phải

Các loại thông thường (non high-oleic) có lượng PUFA rất cao → cần lưu ý chiên ở nhiệt rất cao

Loại dầu Dùng với lưu ý/hạn chế

 

Dầu hạt “generic vegetable oil” (hỗn hợp dầu từ đậu nành, ngô, bông, hướng dương thường)

Nhiều PUFA (đặc biệt omega-6), tinh luyện công nghiệp

Dùng thay cho mỡ động vật là tốt

Tránh chiên ngập dầu nhiều lần, tránh nhiệt quá cao, chọn loại có thông tin rõ nguồn gốc

Dầu dừa (Coconut oil) & dầu cọ (Palm oil)

Nhiều chất béo bão hòa (SFA)

Dùng rất hạn chế, hoặc dùng cho món đặc biệt

Dùng nhiều dễ tăng LDL cholesterol, tăng nguy cơ bệnh tim mạch

Dầu đã bị chiên lại hoặc tái sử dụng nhiều lần

PUFA bị oxy hóa, tạo các sản phẩm oxy hóa có hại

Cố tránh

Khi dầu bị khói mạnh, màu thay đổi → nên bỏ

 

Ghi chú:

MUFA = Monounsaturated Fatty Acids → Axit béo không bão hòa đơn

  • “Mono” = một, nghĩa là trong chuỗi carbon của acid béo có một liên kết đôi (C=C).
  • Ví dụ thực phẩm giàu MUFA: dầu ô liu, dầu hạt cải (canola oil), quả bơ, hạnh nhân, hạt điều, đậu phộng.
  • Lợi ích: giúp giảm cholesterol “xấu” (LDL), tăng cholesterol “tốt” (HDL), tốt cho tim mạch.

PUFA = Polyunsaturated Fatty Acids → Axit béo không bão hòa đa

  • “Poly” = nhiều, tức là có từ hai liên kết đôi trở lên trong chuỗi carbon.
  • Có hai nhóm chính:
    • Omega-3 (như trong cá hồi, cá thu, hạt lanh, óc chó)
    • Omega-6 (như trong dầu hướng dương, dầu ngô, dầu đậu nành)
  • Lợi ích: cần thiết cho não, tim, và chức năng tế bào; nhưng nếu Omega-6 quá nhiều so với Omega-3 có thể gây viêm.

Huỳnh Chiếu Đẳng (Quán ven đường)

Tạ Ơn Nỗi Nhớ Đi Về Có Nhau - Trầm Vân

Tuệ Ngữ


1. Nếu bạn nhìn cuộc đời bằng đôi mắt phán xét, thế giới này sẽ chỉ toàn những người có khiếm khuyết.

- Nhìn bằng đôi mắt kiêu ngạo, thế giới này sẽ chỉ toàn những người thấp hèn và ngu ngốc.

- Nhìn bằng đôi mắt trí tuệ, bạn sẽ phát hiện ra rằng mỗi người bạn gặp phải, đều có những điểm đáng để bạn học hỏi và tôn trọng.

2. Thuốc tốt trên đời này, mỗi một loại thuốc chỉ có thể chữa một loại bệnh; còn thuốc tốt của tâm linh, trí tuệ và từ bi thì có thể chữa trị tất cả mọi khổ đau.

3. Con người vẫn hay than phiền không thể tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn, nhưng kỳ thực, trước giờ nó vẫn ở sâu trong lòng, bạn không cần phải tìm kiếm. Chỉ cần bạn có thể giữ tâm bất động, không “vì dục vọng mà cực khổ, bận rộn suốt cả ngày” thì tự nhiên sẽ cảm nhận được sự hiện hữu của nó.

4. Khi trong lòng bạn ngập tràn sự yên vui, thì đi đến đâu cũng đều là hoan hỷ tự tại; khi trong tâm tràn đầy trí huệ thì một cành hoa, cọng cỏ cũng khiến bạn nhìn ra được chân lý.

5. Thế giới mà bạn đang nhìn thấy, chỉ là phản ứng của nội tâm. Trong lúc tâm trạng cởi mở, nhìn thấy ai cũng là bạn bè thân thiết; còn khi đang buồn bực, đi đâu cũng chỉ thấy những khuôn mặt đáng ghét.

6. Tâm là nguồn gốc của sự an vui và cũng là nguồn gốc của sự đau khổ. Thân – khẩu – ý do một cái tâm chứa đầy hận thù và tham vọng gây ra thì chỉ mang đến đau khổ; ngược lại, những hành động, suy nghĩ, lời nói mà xuất phát từ một cái tâm thiện lành thì điều mang lại chính là phúc lạc.


Vô Vi 

Cười Ra Nước Mắt: Cải Cách Ngôn Ngữ Việt - Bùi Hiền - HD - Youtube LK

Chuyện Bi Hài Mùa Ly Loạn - Hạo Nhiên Trần Thế Ngữ


Chuyện buồn cười không ai có thể ngờ được xảy ra trong chiến trận mùa hè đỏ lửa mà tác giả là nhân chứng sống .

“Vào mùa Hè đỏ lửa năm 1972 chiến trường quận Đức Hoà tỉnh Hậu Nghĩa* thật vô cùng sôi động, vùng Trãng Lớn xảy ra cuộc hành quân liên đoàn tôi phụ trách!

Tin tình báo cho biết có giặc Cộng pháo kích xâm nhập và đơn vị tôi phải hành quân lùng diệt địch! Cuộc hành quân xuất hành từ sáng sớm và có bị chạm địch cho nên đến khoảng 3 giờ chiều mới càn quét gần hết lộ trình vùng Trãng Lớn chạm gần sát vùng dân cư. Đặc biệt vùng này ruộng đất nước quanh năm lầy lội và xen lẫn nhiều bụi lau sậy và chiến binh phải lội sình lầy!

Đột nhiên trung đội tiền phong báo cáo có chạm địch lần nữa mất khoảng 30 phút địch rút chạy vào ấp chém vè! Tôi ra lệnh tiến tới và cẩn thận coi chừng mấy lùm bụi lau sậy ! Toán tiểu đội tiền phong hồi hộp súng bồng cao nhắm vào các bụi lau sậy sẵn sàng bắn! Nhưng không hề thấy động tĩnh và 5-6 chiến sĩ đã tiến sát và lùa súng vào các bụi để lục soát, bất ngờ có một lính chiến lùa súng vào bụi lại rút súng ra không được! Theo phản ứng tự nhiên người chiến binh này dùng hết sức kéo súng ra và súng M16 được kéo ra quá bất ngờ làm anh lính chiến bị ngã ngửa trên ruộng, súng vẫn cầm tay, nước bùn bắn tung toé! Cùng lúc trong các bụi lùm đều có VC đứng lên giơ tay đầu hàng và đặc biệt mấy chàng lính ta và bọn VC đều há miệng cười không ra tiếng! Tất cả quên hết cảnh giác và VC quên cả hồi hộp lẫn sợ hãi!? Tôi ngạc nhiên nhìn cũng hồi hộp và buồn cười theo!

Thế là vừa dứt buồn cười quá phê, phe ta vội lấy dây cột tay VC khoảng 7-8 tên không võ khí vì chúng đã buông vũ khí xuống lùm bụi bùn nước! Đặc biệt chúng mặc quần xà lỏn áo bà ba đen giả nông dân.

Tôi lại nhìn một dãy tù binh VC ngồi trên bờ ruộng và thoáng thấy lính phe ta châm thuốc lá cho vài tên VC hút!

Tôi lại hỏi chàng lính trẻ ban nãy rằng tại sao bị ngã ngửa trên ruộng quần áo ướt sũng bùn lầy?

Chàng lính trẻ mỉm cười trả lời:

Thưa ông thầy, em cầm súng lùa vào bụi, ai ngờ thấy lùa vào rút ra không được, thì ra tên VC nó sợ bị bắn nên đã dùng tay ôm súng rất chặt, mũi súng hướng ra một bên để nếu súng nổ hắn không chết!

Sau đó như thường lệ tôi quay qua bảo anh lính truyền tin PRC25 gọi báo cáo liên đoàn trưởng: 

- Đại bàng- Sói rừng báo cáo bên ta vô sự, bắt sống được 7 tên VC và súng đạn đầy đủ 6 AK một B40, xin nhận lệnh!

- Đại bàng nghe đây, giải giao chúng về tiểu khu nghe rõ trả lời…

- Sói rừng nghe rõ, tuân lệnh.

Tôi lại đi đến chỗ tù binh chợt hỏi: 

- Anh quê ở đâu? 

Trả lời tiếng Bắc kỳ đặc sệt: 

- Cháu quê ở Nam Định!

Bố mẹ tên gì? 

- Bố mẹ tên...

Nghe tên lạ hoắc tôi yên tâm không phải bà con dòng họ mình nên không hỏi tiếp. Bởi vì di cư vào Nam 1954 còn bị sót lại cả 7-8 gia đình sợ rằng em cháu mình là tù binh hôm nay.

Thế là sau cuộc hành quân... Tôi sai lính giao nộp tù binh về tiểu khu rồi giao ty an ninh. Từ đây câu chuyện buồn cười đó được truyền tải kể tiếp...


Hạo Nhiên TTNg 1972 VN War

LittleSaigon California USA

*Tỉnh Hậu Nghĩa vì nhu cầu bảo vệ Saigon nên VNCH lập tỉnh mới sau 1963 gồm: lấy quận Trãng Bàng của Tỉnh Tây Ninh, lấy quận Củ Chi của tỉnh Bình Dương, lấy Đức Hoà Đức Huệ của tỉnh Long An sáp nhập thành Hậu Nghĩa! Vì địa danh này luôn bị VC pháo kích và xâm nhập! Vì nó gần các mật khu Hố Bò, Lý Văn Mạnh, Dương Mình Châu... Mặt trận gay go khốc liệt!

Friday, November 28, 2025

Mùa Lễ Tạ Ơn - Đỗ Công Luận

Đêm Hỏa Châu - Lê Phùng Xuân


Xã Phước Lợi, thuộc quận Đất Đỏ, là một giồng đất gò cát nằm thoi loi. Chung quanh là đồng ruộng. Chỉ có một chút xíu về hướng Đông là giáp với khu rừng chồi có nhiều thú nhỏ như nhím, sóc, thỏ… và trái cây rừng như trái gùi, trái mây…

Tháng năm năm 1966.Nắng nổ đom đóm. Đại đội về đây khoảng một tuần. Đây là xã xôi đậu. Ban ngày, dọc theo đường lộ, lính của Xuân rong cùng khắp đầu trên ngõ dưới. Ban đêm,  VC mò về xóm trong. Thằng Đực và con Sa là hai đứa học trò ngoài chợ, hay lân la đến chơi, cho Xuân những trái gùi chín, ăn chua lè; những trái mây rừng nhỏ bằng ngón tay út, ăn chát ngắc.Tụi nó cũng cho Xuân những trái gùi muối chua. Món nầy chấm mắm ruốc của bà giáo Thảo thì ngon. Rồi từ đó, Xuân lâu lâu cũng dò biết được một vài gia đình trong xóm. Ai thân VC và ai thân Quốc Gia…

Trời nắng chang chang. Chàng sĩ quan Úc và Xuân cùng ngồi tựa lưng vào bờ đất, uống từng ngụm nước đá lạnh. Chàng thanh niên người Úc nầy có giọng nói khó nghe, âm hưởng của tiếng Anh xa dần mẫu quốc.

- Viết cho tôi đi.Tôi hông nghe được giọng Úc của ông.

À!  .Cấp Chà, cũng là dân nhà binh chuyên nghiệp như mình đây. Có vậy mà Xuân chỉ thoáng nghe left-tenant. Rồi hai ba bữa sau, họ cũng bắt đầu thân thiện nhau, đía nhau tía lia.( đía :dire tiếng Pháp)

Trung đội Peter có khoảng 30, 40 người, ngày ngày cùng Trung đội Xuân đóng cọc sắt từ phía cuối Quận Đất Đỏ băng qua đồng ruộng đến tận xã Phước Lợi.

- Trung đội của anh ít, chỉ có 14 người thôi. Vậy hôm nay, anh lấy phần đất gần đây. Còn đằng xa kia để cho tôi.

- Sao vậy?Cứ làm như cũ.Tôi đi xa có sao đâu?

- Vì anh ít người. Mang cọc sắt và kẽm gai đi xa nặng lắm. Công việc sẽ chậm lại.Chúng ta cần làm xong phần việc nội trong tuần nầy.

- Cám ơn anh.

 Xuân ra lịnh cho người mình dừng lại và chỉ cho họ phần hôm nay mình phải làm.

- Hông phải đi xa nữa. Ráng cùng họ làm rút đọan cuối cho đến xã Phước Lợi.

Nhưng một tiếng bùm vang lên cùng một cụm khói ở phần đất trung đội Xuân làm ngày hôm qua. Khỏi nói, tất cả mọi người cùng thốt lên: Có mìn !

- Đứng yên tại chỗ. Đừng chạy nhốn nháo. Ông Hom. Cho anh em lần bước ra theo đường cũ.

Khổ thay cho trung đội của Peter. Một trái mìn nh ảy.Ít nhứt phải có hai, ba người chết và bị thương khoảng mươi người. Nếu người của Xuân làm đúng chỗ ngày hôm qua là trung đội bị xóa sổ.

Chỉ hông đầy năm phút. Hai chiếc trực thăng cứu thương đã đáp xuống. Xuân đứng nhìn bạn và đồng đội đang chật vật, hối hả đưa người bị thương lên. Họ hông tỏ vẻ hoảng loạn, tuần tự làm việc. Xuân im lặng đứng nhìn bạn, thương bạn mà hông làm gì được. Bạn từ đất nước xa xôi ở miền Nam Bán cầu đến nơi nầy để đổ xương máu cho lý tưởng mà bạn yêu mến. Vợ của đồng đội bạn mất chồng, gia đình mất người thân. Những giọt nước mắt làm sao cho vơi hết nỗi buồn. Xin chia buồn cùng bạn, người bạn trẻ xa xôi. 

Cuối cùng, rồi tất cả lên trực thăng. Peter quay lại.Hai cánh tay cùng đưa lên. Vĩnh biệt.Chúng ta chắc chắn sẽ hông bao giờ gặp lại. Có thể bạn với tôi, bọn mình sẽ thua cuộc trong trận chiến nầy. Và rồi, Phùng Xuân đứng nhìn dòng chữ CBS mờ nhạt trên thân một trực thăng bay về Vũng Tàu…

Lại một sự may mắn đến với Xuân. Nó đến từ đâu? Hông hiểu được. May mắn của người nầy là xui xẻo cho người kia. Các người lính Úc chết thay cho binh sĩ của Xuân. Sao đến thời điểm đó Peter lại đổi ý. Có một nguyên nhân nào, một động lực nào tác động vào ý định của Peter ?

Ai mà biết Thượng Đế?Ai mà hiểu được Thượng Đế? Thượng Đế là đấng Tối Thượng, Toàn Năng… Hông hiểu được Ngài, nên con người giải thích mỗi người mỗi khác. Có người tin vào quyền lực của thiên nhiên, của đạo Chúa, của đạo Phật, của đạo Hồi, của mệnh trời. Có đúng là Chúa Jésus, Thái Tử Shidarta, Thiên sứ Mohammed, Khổng Tử… cũng hông hiểu gì về Thượng Đế nên lý giải mỗi người mỗi khác?Và thế hệ sau bám vào đó, đặt ra nhiều qui luật, vẽ ra những con đường tìm lấy thanh bình ở cõi đời sau?Chỉ có Cọng Sản là hông cần hiểu Thượng Đế và hông cần giải thích. Họ muốn biến đổi thế giới nầy bằng bạo lực để tìm lấy Thiên Đàng Cọng Sản. Và, rốt cuộc, cũng hông chắc tìm ra được, chỉ thấy máu đổ thịt rơi, thù hận chồng chất.

Nhưng có một điều chắc chắn là VC đã dò la biết được nơi Xuân và Peter đóng cọc sắt. Chỉ cần một vài ly rượu đế ở độ nhậu là các chú lính bật mí hết…

 

                                       ***

Đồn Mỹ Hội, quận Đất Đỏ, do một Trung Đội của Đại Đội 612 Điạ Phương Quân trấn giữ. Đây là ngõ thông từ Mật Khu Mây Tào, Xuyên Mộc đi về Mật Khu Minh Đạm.Từ đó, VC có thể dễ dàng qua Long Hải, cù lao Long Sơn, Rừng Sát và xâm nhập vào SàiGòn.

Xuân vừa chợp giấc được một chút. Lúc đầu có nhiều tiếng nổ lớn, sau đó là súng AK 47 nổ dòn.Rồi liền đó vang rền đều đủ các loại. Don Porter, Xuân và ông Hom đứng dưới rặng dừa nhìn về phía đồn Mỹ Hội.

- Chết rồi. Nó đánh đồn Mỹ Hội. Súng của VC nổ nhiều hơn. Chắc một Tiểu Đoàn?Trong đồn bắn trả ra ít quá.

- Sao Thiếu Úy biết?

- D 445 VC hoạt đông thường xuyên ở Mật Khu Minh Đạm mà.Thì chắc thằng Tiểu Đoàn nầy đánh chớ ai. Nó nhổ cái gai chận họng nó qua lại Xuyên Mộc về Sài gòn.Tui nghĩ chắc có thêm hai đại đội C 25 và C41(Châu Đức) ở cù lao Long Sơn. Trong đồn chỉ có một trung đội à, ông Hom.Còn Đại Đội trừ đóng gần mình đây, ở Bờ Đập.

- À, mà nầy, còn mấy bà vợ lính nữa. Đụng trận mấy bả cũng cầm súng bắn như ai. Còn mấy thằng nhóc, con lính trong đồn. Tụi nó tiếp đạn. Đường cùn thì phải liều chết để mà sống chớ, Thiếu Úy !

- Chắc ông nói đúng đó.Tui nghe bây giờ súng trong đồn bắn ra nhiều hơn lúc nảy.

Chàng Trung Úy Don Porter cao lớn, đẹp trai, có bộ ria cá chốt giống như Clark Gable. Don ít nói, chỉ lặng lẽ đi theo Xuân hơn tuần nay. Thỉnh thoảng, Xuân có hỏi gì thì Don mới trả lời? Ban đêm, Xuân ngủ chỗ nào là Don và người Trung sĩ mang máy C-25 nằm ngủ kế cận. Vì Don ít nói, nên thường ngày câu chuyện qua lại chỉ là gia đình, con cái và quê hương của Don ở tận nước Mỹ xa xôi. Hông hiểu sao, cách đây mấy hôm, Don đem tặng Xuân nhiều cuốn sách của Clausewitz và Ludendorff. Don biết Xuân là lính nhà nghề hay là muốn Xuân biết về chiến thuật của Tây Phương? Phùng Xuân đã chán ngấy khi nghe Nguyễn Thanh Liêm nói về vấn đề nầy rồi mà? Don có hiểu gì về chiến tranh du kích ở Việt Nam chưa ?

Pháo binh của Tiểu Khu rót xuống thưa thớt, hông đủ sức chận sự tấn công dồn dập của VC. Đồn có lẽ sắp bứt. Trái sáng soi rọi chập chờn. Trong đồn bắn ra càng quyết liệt hơn. Toàn là Garant, Carbine, Trung liên Bar, chắc hông cự lại được với AK 47, B40…

- Rồi! rồi! Hoả Long lên kia rồi!

Những hỏa châu từ chiếc C- 47 bung ra, bay lững lơ như những lồng đèn giấy to trong các ngày Vía của đạo Cao Đài ở Tây Ninh. Bầu trời rực sáng như ban ngày.

- Thiếu Úy, nó khạc đạn như vậy còn gì người và cây cỏ ở dưới.

- Chà ! Nó gầm như bò rống. Ục... Ục... Ông Hom có nghe hôn?

- Tia lửa đạn khạc có vồng giống như mình nhậu say mữa ụa ụa, té ra có vòi.

- Đâu có. Giống như rồng phun lửa.

Chiếc C-47 bay rề rề vòng vòng  quanh đồn, bắn xuống liên tục. Từng vòi rồng lửa hiện ra. Hỏa lực quá mạnh. Chắc cây cỏ dưới đất hông còn gì ?

Don Porter ngồi bệt dưới gốc dừa. Tiếng máy truyền tin C-25 chạy rè rè, lâu lâu vang lên một tiếng Roger. Xuân và ông Hom đứng trên đường làng. Bóng họ đung đưa ngã dài theo những trái sáng trên bầu trời. Những người dân làng tuôn ra đứng trước sân nhà xem chiến trận xảy ra như màn kịch. Tâm trạng mỗi người mỗi khác. Phe thân VC tỏ ra bồi hồi lo lắng. Làm gì họ hông có người thân trong đó. Phe Quốc Gia thì mong cho người trong đồn bình yên, hông bị VC tràn ngập.

Ôi! Cuộc chiến ngộ nghĩnh, giống như tuồng cải lương. Don Porter dửng dưng nhìn đám con nít chạy lăng quăng trên những đồng ruộng khô, la lối om sòm, tranh nhau lượm dù trái sáng. Chắc nó mơ màng nghĩ đến pháo bông ở nơi quê hương thanh bình của nó. Ôi! Cuộc chiến lạ lùng. Hai bên bắn nhau, người người xúm coi!

Khoảng nửa giờ sau, tiếng súng của VC giảm thấy rõ. Súng trong đồn bắn ra cũng thưa dần.

- Hòa! Tiểu Đoàn có gọi gì hôn ?

- Dạ hông. Họ cũng im lặng như mình.

Đúng rồi! Tất cả mọi người đều nín thinh xem hai bên đánh nhau! Súng đạn cổ lỗ sĩ đệ nhị thế chiến của phe tư bản chọi lại với vũ khí tối tân phe cộng sản. Than ôi! Đau khổ cho dân tộc tôi, đem những cái bị thịt làm trò thí nghiệm, giống như những giác đấu thời La Mã, giống như những con thú động đực điên cuồng cấu xé nhau. Xuân biết mình sẽ bị cuốn trôi theo mệnh nước. Mình có thể cố gắng lội ngược dòng để bảo vệ tổ quốc yêu dấu nầy hôn ?

Những chiếc C- 47 thay phiên nhau bao vùng cho đến khi tiếng súng hai bên ngưng hẳn. Dân làng biết trận chiến đã chấm dứt nên đã vào nhà từ lúc nào. Xuân dựa lưng vào gốc dừa, thiu thiu ngủ.


Sáng hôm sau, Tiểu Đoàn 3/43 của Đại Úy Lã Huy Bật chỉ huy lục soát và giữ an ninh cho hồi kết cuộc. Lễ gắn lon và huy chương các binh sỹ trong đồn. Các bà vợ lính, các chú nhóc con họ, được tưởng thưởng.

Khoảng trăm người nằm chết la liệt quanh đồn. Một bị thương còn sống sót, tính quăng lựu đạn vào các ông Sỹ Quan Tiểu Khu, đi quan sát trận địa, nhưng hông còn sức. Ai nấy chết điếng người. Hú hồn…. Nó mà liệng thì…              

                                            ***

- Thiếu Úy. Ông Ba Tia, ở gần cuối bờ ruộng rià làng, mời Thiếu Úy ngày mai tới nhà ổng.

- Chuyện gì vậy ông Hom? Mà ông tủm tỉm cười.

- Ông mời Thiếu Úy đến làm chủ hôn để ổng gả con gái ổng cho thằng Ơ.

- Ủa! Sao lạ vậy. Tui đâu biết gì ?

- Thì ổng nói. Thiếu Úy là cấp chỉ huy trực tiếp nó, lớn nhứt ở đây. Coi như Ba Má nó thì Thiếu Úy làm chủ hôn được rồi.

- Trời đất! Tui đâu biết gì ?

Mà Phùng Xuân hông biết thiệt. Nhưng đám lính trong đại đội biết. Đêm đánh đồn Mỹ Hội, binh nhì Ơ, cái thằng lù khù ôm cái lu mà chạy, rù rù được cô thôn nữ Tím ra cánh đồng. Nhờ ánh hỏa châu soi sáng, hạ sĩ Độ nhìn thấy hai đứa xà nẹo, nhảy từng tưng ở bờ đê cho đến gần sáng. Mấy hôm nay, đám lính đồn rùm lên. Ông Ba Tía nghe được. Ổng biết là hủ mắm của ông đã bị khui- hay là nói như thằng Mừng, chậu cá lia thia của ổng bị thằn lằn đút đuôi vô quậy rồi- nên ổng mau mau làm đám cưới cho xong. Mà thằng Ơ cũng giỏi lắm. Đóng quân ở nhà ông Ba Tia nó làm đủ việc: quay giếng lấy nước, quét sân mỗi buổi sáng… Lính Sư Đoàn có vậy mà ổng hổng gả sao được!

- Ông Hom. Ông dò hỏi coi nó có vợ con gì chưa? Để đến khi làm đám cưới xong rồi, cô vợ lớn hay được đến đánh ghen là hư đường hư bột hết. Tui với ông cũng có lỗi. Mà sao hổng nhắn hai ông bà già nó lên. Tui còn non chẹt mà đúng ra sui gia với ai.

- Nó nói ông bà già nó ở xa lắm. Dân miệt vườn, quê mùa dốt nát, hông biết đường đi.

Xuân biết nhiều ông lính cũng trời ơi đất hỡi lắm. Đi tới đâu cũng hô chưa vợ. Rút cuộc tùm lum, hai ba bà xúm đánh ghen. Chàng thầm nghĩ, mĩm cười trong bụng: chắc thằng nầy nó cũng giống mình lúc ở cánh đồng Mỹ Nhiên? Đụng trận là bốc hốt liền!

    Bảng vu qui treo sơ sài ngoài ngõ, chung quanh những chùm bông vạn thọ đỏ, vàng. Căn nhà cũng đâu có gì, trống hoác từ trước ra sau. Đám cưới chắc tổ chức vội vàng nên chỉ kiếm đâu được hai cái bàn tròn, hơn chục cái ghế đẩu. Bàn thờ ông bà có một cái lư hương. Hai cây đèn cầy lớn màu đỏ để hai bên. Khi Xuân và ba người trung đội trưởng đến đã có hơn bốn năm ông lớn tuổi đang ngồi quanh những tách nước trà nói chuyện huyên thiên. Họ cùng đứng lên chào bọn chàng, kéo ghế mời ngồi. Được hơn nửa chén trà, một ông già trọng tuổi đứng lên nói vài lời về buổi lễ cưới hôm nay và nhờ Phùng Xuân đứng đại diện đàng trai. Chàng sĩ quan mới ra trường, mặt còn búng ra sữa, cảm thấy mình quan trọng cũng làm gan đứng lên nói vài lời. Sau đó, chàng tiến về bàn thờ cùng ông Ba Tia lên đèn cầy bàn thờ ông bà. Cô dâu còn trẻ, chắc chừng16, 17 tuổi cùng binh nhì Ơ chào mọi người…

- Cái kiểu nầy đóng quân ở đây lâu, nếu rút quân, chắc cả làng sẽ đưa đám lính của mình đi quá! Có bao nhiêu thằng sẽ là rể của làng nầy hả?

Ly rượu nhứt của nhà chú Mười Đỏ kháp gạo lứt ở đầu làng, cay thắt họng, tuôn tới đâu là muốn xé đứt ruột gan tới đó.Mỗi người mời một ly làm Xuân choáng váng. Một vài điếu thuốc rê nữa sắp sửa đốn ngã chàng. Xuân có bao giờ biết uống rượu và hút thuốc đâu. Xuân xoay mòng mòng.Lần đầu tiên chàng tiếp xúc với dân làng trong vai một sĩ quan quân đội…

Và cứ thế, sau đám cưới đó, nếu có đám giỗ, đám quảy nhà nhà trong làng cứ tiếp tục mời.Từ một ly, hai ly, đến bây giờ Xuân thành hủ hèm. Nhứt là từ khi có Thọ- Trưởng ban Xây Dựng Nông Thôn- về đóng ở làng, họ bày đặt ra rượu mật nhím. Uống vào đăng đắng, ngòn ngọt, cọng thêm gỏi cá biển, làm ngất ngư con tàu đi luôn.Từ đó, chàng sĩ quan trẻ trở nên hư đốn. Chàng biết thêm: uống rượu và hút thuốc lá.


Lê phùng Xuân

(Trích trong Trăng Suông)

 

Viết thêm:

1-Những năm đầu thế kỷ XXI, tôi có đến thăm The VietNam Traveling Memorial Vall (20Jan 1969) ở gần nhà. Sẵn dịp, tìm coi Don Porter như thế nào?Người hướng dẫn tìm một hồi lâu thì có tên Donald Porter, Panel 23W, Line 46.Nhưng tôi nhìn kỷ: chỉ có bộ râu là giống, còn gương mặt hơi khác năm xưa, hông giống như người Nam Âu, lai với người Á Rập của đoàn quân tướng Hannibal?Có phải Don Porter đã chết rồi, phải hôn? Có điều hơi khó hiểu:Hồi xưa trên cổ áo của Don Porter là một gạch trắng, bây giờ ở đây ghi là Sergent?Nhưng dù gì, cũng cúi đầu chào người bạn lính năm xưa. Bây giờ bạn ở đâu??.