Đang đọc lại “Mảnh vỡ của mảnh vỡ”, cho lần tái bản tới. Tiểu thuyết này viết từ điểm nhìn “thế hệ mất mát” (chữ nhà văn Hemingway). Họ, thanh niên trí thức đô thị miền Nam, sống sót qua cuộc chiến, rồi nhặt nhạnh “mảnh vỡ” thanh xuân, chập chững trên những nẻo đường gập ghềnh, phác thảo chân dung bản thân trong vận nước thời bình. Khi đọc, tôi thấy mình đã dừng lâu bất thường ở những “nhân vật thoáng qua” của tiểu thuyết, những con người âm thầm luân lạc bên lề lịch sử. Và, tôi muốn chia sẻ những “mảnh vụn” ấy.
****
[ Đường phố một sớm mai ]
“Chiếc jeep quân đội Mỹ với hình sao trắng
trên mui chạy chầm chậm qua những đường phố chính trong nắng mai nhạt chưa đủ
sưởi ấm khí lạnh đêm qua còn vướng vất trên mặt đất. Kính xe còn nguyên vết đạn
lỗ chỗ như bản vẽ chòm sao mới phát hiện nhưng người ngược xuôi trên đường
không bận tâm câu hỏi ngày thường là liệu có ai bị thương bị chết vì loạt đạn
đó không. Chết không còn là chuyện ghê gớm. Trên gương mặt người đầy chật cảm
xúc. Với người này là giấc mơ hào hùng bừng hiện, với người kia là thảm họa đổ ập
xuống đầu, đè lên ngực chỉ sau một đêm. Hai nhóm này phân lập hai cực của số phận,
trong khi hàng chục triệu người khác lừng khừng đâu đó ở giữa, không chắc chắn
chi ngày mai. (tr. 9)
****
[Đêm trước hòa bình]
“Cuối tháng ba năm bảy lăm, bệnh viện
quân y của tôi phục vụ quá tải. Suốt ngày đêm chúng tôi tiếp nhận thương binh
chuyển về từ các mặt trận vùng ven. Gần một phần ba đã chết trên đường di chuyển.
Nhà xác bệnh viện không đủ cho tất cả, “ai” đến sau phải xếp trên hành lang. Chẳng
mấy chốc mọi người không còn thấy buồn nôn hay khó thở bởi máu rỉ từ xác chết,
đọng thành vũng tanh tưởi.
Ngày trước ngày thành phố thất thủ, giám
đốc bệnh viện ra thông báo kêu gọi thân nhân tử sĩ đến nhận xác đưa về chôn cất,
việc chưa từng có. Ông biết xe tăng Bắc Việt có thể xuất hiện bất cứ lúc nào ở
cửa ngõ thành phố, không còn thời gian cho thủ tục hành chính hay nghi thức
truyền thống.
Những người vợ, những bà mẹ lính nghe được
thông báo trên sóng phát thanh, truyền hình hoặc tin đồn liền đổ đến. Người tìm
thấy xác chồng xác con, khóc than ký nhận đưa về. Người không tìm thấy xác,
khóc trong hy vọng mong manh. Lính bị thương nhìn cảnh tượng chung quanh, khóc
theo. Hỗn loạn và tang tóc. Mải đến chín giờ tối, bệnh viện mới trở lại yên ắng.
Đêm đó tôi trực nhà xác, từ mười giờ đến
hai giờ sáng. Rốc-két rít ngang đầu. Tiếng nổ giòn dễ nhận của tiểu liên AK-47
cũng đã văng vẳng. Vậy mà tôi không mở mắt nổi, cứ chực ngủ gật. Gần một tuần
liên tục phẫu thuật tôi hoàn toàn kiệt sức, không nhớ mình đã ăn lúc nào, ngủ
lúc nào.
Thế rồi tôi bị kéo khỏi cơn ngủ gật bởi một
tiếng thở dài. Hình như nó phát ra từ góc xa của nhà xác. Tôi cố mở to hai mắt
nặng như chì nhìn về hướng đó, nhưng chỉ thấy những xác chết chưa được thân
nhân nhận về nằm dưới khăn liệm ố vàng. Đến lượt tôi thở dài, như vừa nuốt trôi
cục nghẹn trong cổ.
Sau đó cơn buồn ngủ mất hẳn, tôi nhặt tờ
báo ai bỏ lại trên bàn trực, đọc vu vơ tin này tin khác chỉ để giết thời gian.
Tin chiến sự vừa lên báo đã lạc hậu so với diễn biến thực tế. Nhưng tôi vẫn đọc,
kiên nhẫn chờ ngày mới đang đến gần. Đêm thật dài nếu phải ngồi canh những xác
chết còn rỉ máu. Tôi tự hỏi tại sao mình chờ ngày mai khi mọi chuyện đã quá rõ.
Có lẽ tôi tin điều tệ hại nhất chưa xảy ra.
Tiếng thở dài lại vẳng vào tai tôi, lần
này rõ hơn, và không thể là nghe nhầm. Tôi rời mắt khỏi tờ báo, nhìn về góc xa
của nhà xác, nơi phát ra âm thanh.
Một xác chết đội khăn liệm đang từ từ ngồi
dậy.
Tôi dụi mắt, hy vọng thứ quỷ quái đó chỉ
là ảo ảnh, là hậu quả của những đêm thức trắng bên bàn mổ. Nhưng không có gì phủ
nhận được sự thực là trước mắt tôi xác chết đã đứng lên. Vẫn trùm khăn liệm, hắn
cất những bước chậm, nặng nhọc và liêu xiêu đi về phía tôi.
Tôi đứng lên, bước lùi ra phía cửa, tay đặt
lên súng ngắn đeo bên hông. Lúc ấy tôi nhận ra mình không còn đủ khí lực để rút
súng khỏi bao. Hai chân tôi bắt đầu run, hầu như không đỡ nổi sức nặng của tôi
nữa. Nỗi khiếp sợ đã hoàn toàn đánh sập ý chí của tôi.
“Quỷ nhập tràng! Quỷ nhập tràng!”
Tôi bất ngờ bật lên được tiếng kêu báo động.
Sự kết nối thành công với thế giới người sống giúp tôi hồi phục phần nào sinh lực.
Tôi quay người lao ra cửa, chạy vào sân lớn của bệnh viện. Hắn lập tức đuổi
theo, cho đến khi tôi trượt té nằm chỏng gọng trên sân thì hắn dừng lại.
“Cứu! Cứu tôi với!”
Tiếng kêu đánh thức cả bệnh viện. Đèn
ngoài sân, trong phòng liên tiếp bật sáng và có vài người chạy về phía tôi.
“Ôi trời đất! Quỷ nhập tràng!”
Ai đó kêu lên khi trông thấy hắn khiến những
người khác dừng lại. Thay vì đến cứu tôi, cả bọn vội tháo lui.
“Quỷ nhập tràng!”
“Quỷ nhập tràng tấn công!”
Tất tật, từ bác sĩ đến thương
binh, người trông thấy quỷ cũng như người chẳng thấy gì chạy tán loạn, thậm chí
người bị cưa chân cũng lết tìm chỗ trốn.
Tiếng người la hét cuống cuồng, tiếng sập
cửa phòng rầm rầm bỗng như một đòn giáng mạnh vào đầu tôi, kéo tôi khỏi trạng
thái khiếp nhược. Cuối cùng tôi cũng rút được súng khỏi bao, lần đầu tiên trong
đời, giương thẳng vào đầu con quỷ cách tôi vài bước chân. Trước khoảnh khắc tôi
quyết định bóp cò, một cơn gió mồ côi cuốn tấm khăn liệm bốc lên, phơi lộ một
thiếu phụ trẻ đứng ngơ ngác trên mặt đất với mái tóc rối bù. Tôi nhận ra đó là
vợ của một người lính tử trận.
Về sau, tôi có thêm thông tin về người
đàn bà bất hạnh. Trước khi có thông báo của bệnh viện, nhà chị đã thành tro
trong một trận pháo kích. Điều duy nhất
chị có thể làm là trốn dưới khăn liệm để được ôm ấp chồng đêm cuối trên dương
thế…” (tr. 216-219)
Căn cứ Khe Sanh
[Cam và Quýt, của mẹ cả]
“Làng quê tôi nằm trong vùng chuyên canh cam
và quýt. Dân làng có cái ăn cái mặc, con cái được học hành đều trông vào hai loại
cây này. Từ chỗ dân làng biết ơn cây, bọn trẻ chúng tôi nhiều đứa trùng tên,
Cam-Cam, Quýt-Quýt. Nhà tôi hai con trai, tôi là Cam, em tôi là Quýt.
Từ năm sáu lăm máy bay Mỹ bắt đầu rải chất độc
khai quang vùng quê tôi, những vườn cây mất mùa liên tiếp, cả làng lâm cảnh
nghèo đói. Hơn nửa trẻ con phải nghỉ học. Phần tôi gặp may. Chú ruột tôi, một
trung sĩ quân đội Sài Gòn, đưa tôi vào Huế nuôi ăn học.
Hai năm sau, chú chết trận Mậu Thân. Lúc đó
làng tôi đã thuộc quyền kiểm soát của "Mặt trận", còn tôi học năm cuối
trung học. Tôi không muốn quay về nhà trước khi thi tú tài, nhưng ở lại Huế thì
biết nương tựa vào ai.
Trong rủi có may, một sĩ quan chỉ huy của
chú tôi trước đó giúp tôi bằng cách thuê làm gia sư. Nhờ vậy, tôi có thể tiếp tục
việc học và thi đỗ. Gần như ngay sau đó tôi bị động viên, đeo lon chuẩn úy, rồi
được điều đến một tiểu đoàn đóng ở nam Quảng Trị.
Thời gian đó quân đội Sài Gòn đã chiếm lại
khu vực có làng tôi, nhưng chỉ kiểm soát được vào ban ngày. Dầu sao, tôi đã có
thể về nhà vào ngày giỗ cha. Những lần như thế, tôi thường đưa vài chiến hữu
cùng về, trên một chiếc jeep súng ống sẵn sàng.
Lần nào cũng vậy, mẹ tôi chia con gà cúng
làm đôi, một nửa dọn riêng cho bàn bọn tôi. Gà cúng là con được chọn kỹ, thơm
ngon nhất trong số gà phục vụ đám giỗ. Vì vậy, có lần mấy người bạn sau khi nếm
thử gà "loại hai" nói muốn ăn nốt nửa con gà cúng mẹ tôi để dành trên
bàn thờ. Tôi nhìn đồng hồ nói muộn rồi, bọn mình phải về đơn vị trước khi Việt
Cộng xuất hiện, tới chợ Đông Hà muốn nhậu gà ngon mấy con tôi cũng ô-kê.
Thật ra tôi không thể nói toạc rằng nửa con
gà cúng kia là phần của em tôi, thằng Quýt, chỉ huy du kích xã, và tôi luôn tôn
trọng luật không thành văn của mẹ. Đó là một bí mật, nó có thể hủy hoại tương
lai tôi. Trong hồ sơ cá nhân, tôi khai Quýt chết hồi mười ba tuổi bởi bệnh đậu
mùa.
Mẹ tôi ngày nào cũng thắp hương bàn thờ cha
tôi, lâm râm khấn cầu ông phù hộ cho thằng Cam được bình an vô sự, xong, cầu
ông phù hộ cho thằng Quýt cũng bình an vô sự. Một lần tôi đùa "mẹ ơi, đừng
đặt cha tụi con vô thế khó xử".
Rồi một năm tôi về làng giỗ cha, vẫn với chiến
hữu tháp tùng yểm trợ. Mẹ tôi dọn cho bọn tôi nguyên con gà cúng. Tôi bật khóc,
biết em mình bị giết. Nhưng tôi phải lu loa trước mọi người là tự nhiên nhớ ông
già. Sau đó tôi gặp riêng mẹ.
“Lúc nào?”
“Đêm qua.”
“Xác đâu?”
Mẹ tôi đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Tôi nhìn
theo. Vườn nhà tôi vẫn còn là bãi tha ma của loài cây cam-quýt chết trắng,
nhưng lúc đó tôi bất ngờ bắt gặp một cây quýt non chưa kịp bén đất mới, cành lá
rũ mềm.
Mẹ tôi thì thầm: “Mẹ lén chôn em con trong
vườn, không dám đắp mộ. Nó là thằng Quýt, thì trồng cây quýt lên chỗ nó nằm làm
dấu.”
Sau cái chép miệng, mẹ tôi tiếp: “Đang lo
không biết sau chừng đó năm thuốc khai quang có còn làm chết cây không nữa…”
Rồi mẹ tôi im lặng, mắt không rời cây quýt.
Tôi đau đớn nhìn vai mẹ rung nhẹ. Đó là lần
đầu tiên tôi hiểu thế nào là khóc trong lòng.
Mẹ tôi không bao giờ biết Quýt rồi sẽ được
truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang và hài cốt của nó được quy tập
vào nghĩa trang liệt sĩ của xã sau năm bảy lăm, bà đã mất trước đó.
Khi bốc hài cốt em tôi ở vườn nhà, dân quân
xã đào bật gốc quýt. Sau năm năm ở trại học tập dành cho sĩ quan chế độ cũ, tôi
về thấy gốc quýt dẫu nằm nghiêng sát mặt đất vẫn sống như một phép mầu. Nghĩ đó
là một phần máu thịt của đứa em, tôi đưa về đây, tạo dáng bon-sai để được gần
gũi, chăm sóc. Hai mươi năm rồi đó…” (tr. 210-215)
****
[Giọng Bắc giọng Nam]
“Mình trở về Quảng Trị giữa mùa khô. Nó làm
mình nhớ mùa khô năm bảy hai, thời điểm quân đội Sài Gòn bị đánh bật khỏi thành
cổ Quảng Trị. Hôm ngồi trên xe đoàn MIA chạy qua cầu Mỹ Chánh đi Khe Sanh, mình
bồi hồi nghĩ về ba, một thượng sĩ già liều mạng dưới hai làn đạn chạy về nhà gần
cầu, đưa vợ con tản cư vào Huế, nơi mình đang theo học đại học, rồi quày quả trở
lại cùng đơn vị. Thật khó tả tâm trạng khi đi trên cây cầu tuổi thơ mà nhiều
năm rồi mình không dám tin sẽ có ngày trở lại.
Khi còn sống ba mình thường bảo đã làm người
thì phải cố quên đi một vài góc tối trong ký ức để tiếp tục sống. Mình đã làm
như vậy, nhưng rồi nghiệm ra con người không thể kiểm soát được ký ức, còn quá
khứ thì không hoàn toàn mất đi mà có thể hồi sinh vào lúc bất ngờ nhất. Ký ức
chiến tranh cũng vậy. Những người sống sót qua cuộc chiến thường trào nước mắt
mỗi khi nhớ nghĩ về quá khứ. Lần đầu nhìn thấy cầu Mỹ Chánh sau chừng ấy năm và
sau bao vần xoay con tạo nước mắt mình đã chảy.
Đó là nước mắt thật sự. Nói vậy vì mình đã hỏng
mắt trái trong một tai nạn giao thông bên Mỹ, từ đó, mỗi sáng tối nước mắt mình
lại chảy khi mang vào tháo ra con mắt giả. Nhưng mình không gọi đó là nước mắt,
bởi nó không chảy ra từ hạnh phúc hay khổ đau. Còn lúc gặp lại cây cầu gần mái
nhà xưa, dù nay không còn dấu vết, thì nước mắt mình là một hỗn hợp cảm xúc của
niềm vui lẫn cay đắng. Như mạch mồi mùa khô hạn, nước mắt mình ráo nhanh đến mức
khó tin là nó đã chảy ra.
Hôm sau, khi kết thúc phiên trực, mình đi bộ từ điểm khai quật tìm hài cốt ra
Đường Chín, nơi có thể đón xe xuống Đông Hà uống bia lạnh và vui vẻ với mấy em.
Trước chuyến đi mình không thể hình dung có gái mại dâm hoạt động gần như công
khai trong một thị xã bé nhỏ tại một đất nước xã hội chủ nghĩa như nước mình.
Đứng chờ đến lúc mặt trời sắp lặn vẫn không đón được xe, mình đành bước vào cái
quán lụp xụp bên kia đường.
Khi vào, mình thấy ba người đàn bà đang ngồi dưới mái hiên. Mình đoán người lớn
tuổi nhất, khoảng năm mươi, là chủ quán vì chị này đặc sệt giọng Quảng Trị
mình. Hai người còn lại, chừng ngoài ba mươi, trông còn duyên lắm, và ra vẻ thị
dân. Mình đoán hẳn họ là khách qua đường. Rồi nghe họ nói, mình biết một người
từ ngoài Bắc vào, còn người kia trong Nam ra. Nhưng mình không thể nghĩ được điều
gì đã đưa họ đến nơi heo hút này, ngồi nói cười bên nhau.
Trong khi đó ba người đàn bà không giấu được ngạc nhiên khi mình xuất hiện, như
thể cái quán không dành cho loại khách như mình. Tuy nhiên, mình đã được phục vụ
theo một cách không nhà hàng nào trên thế giới có được: cả ba chị đàn bà xúm lại,
người quạt lò, người nướng khô mực, người lấy bia bỏ đá lạnh cho khách.
Xong việc, họ lại ngồi bên nhau trên chỏng tre phía trong, nhường cái bàn duy
nhất dưới mái hiên cho mình. Quay lưng về họ, mình ngắm phong cảnh bên ngoài và
thưởng thức bia. Dẫu không cố tình dõi theo, chuyện của họ cứ lọt vào tai, nhập
vào mình, và mình dần dần biết được đôi phần về họ.
Mười năm trước, hai người đàn bà mà mình đoán là khách vãng lai, một từ thị xã
Thái Bình một từ thành phố Cần Thơ, tình cờ gặp nhau ở Ga Quảng Trị. Cả hai đều
trên đường tìm kiếm hài cốt thất lạc của chồng, hai người lính tử trận tại chiến
trường Quảng Trị năm bảy hai. Một người là bộ đội miền Bắc và một người là lính
miền Nam, cả hai nằm lại đâu đó trên Đường Chín. Sau những lần tình cờ gặp
nhau, hai góa phụ thành hai người bạn, họ có chung nỗi đau quá khứ cũng như
chung mục đích khi đến chiến trường xưa Quảng Trị. Họ rủ nhau trọ ở quán này
vào mỗi mùa khô, mùa họ dành cho việc tìm hài cốt chồng.
Mình bỗng giật mình bởi tình huống mới trong câu chuyện.
Người đàn bà giọng Bắc buồn bã nói từ năm sau cô không thể tiếp tục vào Quảng
Trị. Kinh tế gia đình mỗi năm mỗi sa sút, cô phải chắt chiu từng đồng cho con
vào đại học. Hơn nữa, sau chừng ấy năm tìm kiếm cô gần như mất hết hy vọng.
Chính quyền địa phương đã giúp đỡ nhưng không kết quả.
Tình cảnh người đàn bà giọng Nam phức tạp hơn. Trên đất nước này chẳng có tổ chức
nào lưu giữ thông tin tử sĩ của quân đội Sài Gòn, như trường hợp chồng cô. Và
người chồng sắp cưới đang sống bên Mỹ vừa hoàn tất thủ tục định cư cho cô, nên
không biết khi nào cô mới có thể quay về đây tiếp tục tìm kiếm hài cốt người
xưa.
Người đàn bà giọng Nam đột ngột cắt đứt câu
chuyện vào hồi bế tắc, nói với người đàn bà giọng Bắc:
“Chị ơi, lấy chồng đi.”
“Ôi dào, quá lứa làm chuyện đó rồi.”
“Để xem... Ôi, săng dầy vầy thiếu gì đàn ông
mê!”
“Nhột, bỏ tay ra nào!”
Người đàn bà giọng Bắc cười nắc nẻ.
Bà chủ quán cười theo nhưng nhắc:
“Hai đứa bây, có đàn ông đàn ang trước mặt tề,
dị òm!”
Ba người đàn bà ôm nhau cười rúc rích sau
lưng mình. Tiếng cười phá vỡ tĩnh lặng hoàng hôn Đường Chín, nhưng nghe ra
không hẳn là vui.
“Tao đi nấu cơm.”
Chủ quán bảo. Mình nghe tiếng bước chân bà
đi xuống bếp, chỉ lát sau đã tất tả quay lên.
“Coi nè, hai đứa bây!
Mình bất giác quay lại. Trên
tay chủ quán là mẩu báo cũ dùng gói hàng, nhưng giọng bà phấn khích lạ:
“Đọc đi, có tin cho hai đứa bây đó!”
Người đàn bà giọng Bắc đón mẩu báo và đọc
lên, những người còn lại lắng nghe, cả người ngoài cuộc là mình.
Bản tin viết về một nhà ngoại cảm ở Quảng
Nam có khả năng tìm được hài cốt thất lạc dưới mặt đất, và đã thành công với một
số trường hợp liệt sĩ cũng như nạn nhân chiến tranh.
Mọi người lặng đi chốc lát.
Mình xúc động kỳ lạ bởi bản tin đang nhen lại
hy vọng cho hai góa phụ. Trong khoảnh khắc ấy mình hoàn toàn quên mất mình là một
kỹ thuật viên đoàn MIA đang tìm hài cốt lính Mỹ bằng thiết bị điện tử hiện đại.
Chủ quán gợi ý:
“Hay hai đứa bây thử một phen cuối?”
Im lặng kéo dài trong quán nhỏ.
Mình cũng nín thở chờ câu trả lời.
Rồi người đàn bà giọng Bắc
lên tiếng trước, câu trả lời kèm nấc nghẹn gần như không nghe được, nhưng ai
cũng hiểu.
“Dạ có…”
Người đàn bà giọng Nam tiếp lời:
“Em cũng vậy.”
Hai góa phụ ôm lấy nhau, nương vào nhau mà
khóc.
Mình không phân biệt được đâu là giọng Bắc,
đâu là giọng Nam trong tiếng khóc của họ.
Bà chủ an ủi và giục:
“Hai đứa đừng khóc nữa, đi thắp hương rồi về
ăn cơm.”
Hai người ngoan ngoãn nghe lời. Khi đi lướt
qua chỗ mình ngồi, họ để vương mùi thơm của hương trầm và của đàn bà.
Chủ quán chia sẻ với mình:
“Chưa biết hài cốt chồng nằm đâu, hai đứa cứ
thắp hương dọc Đường Chín, là nơi nghe tin chồng lần cuối. Tội nghiệp…”
Điều hiếm hoi xảy ra với mình lúc đó. Nước mắt
mình ứa lần thứ hai trong ngày. Và mình có thể nói chắc, rằng mình chảy nước mắt
không vì khói hương…” (tr.226-232)
VĨNH QUYỀN



Còn bao nhiêu trăm ngàn những hoàn cảnh "chảy nước mắt" như vậy ? Không có cuộc chiến nào ngu xuẩn hơn cuộc chiến dài 20 năm vừa qua, cuộc chiến đã làm cho "Cam" và "Quít" phải tàn sát nhau và ... mẹ Việt Nam ở giữa đau khổ.
ReplyDelete