Alexandre Émile Jean Yersin (1863-1943)
Vào
thế kỷ thứ 19, người Việt ở Nha Trang gọi Bác sĩ Alexandre Émile Jean
Yersin (1863-1943) là “Ông Năm”. Theo cấp bậc nhà binh, ông là Đại tá
Quân y trong lực lượng viễn chinh của quân đội Pháp tại Đông Dương với
lon mang 5 vạch, tức “quan năm”.
Ông Năm lại còn được người bản xứ gọi thân mật là “Ông Tư” vì
theo cách gọi của người Miền Nam, ông là người con út thứ ba trong gia
đình của một giáo sư người Pháp và sinh sống tại Thụy Sĩ. Yersin mồ côi
cha khi mới ra đời được ba tuần tuổi do bố ông bị xuất huyết não.
Yersin
nhận văn bằng Tiến sĩ Y khoa khi mới 25 tuổi, sau đó ông qua Berlin
(Đức) để kịp ghi danh theo học lớp vi trùng học do Bác sĩ Heinrich
Hermann Robert Koch (1843-1910) giảng dạy. Giáo sư Koch là một bác sĩ và
nhà sinh học nổi tiếng với việc tìm ra trực khuẩn bệnh than (1877),
trực khuẩn lao (1882) và vi khuẩn bệnh tả (1883).
Tuy
nhiên, nhà khoa học trẻ đầy triển vọng này không chịu hài lòng với môi
trường học thuật “đỉnh cao” ở Paris. Năm 1890, Yersin quyết định rời
nước Pháp để đến Đông Dương. Đó cũng là lần đầu trong đời ông thấy biển.
Trải
nghiệm này khơi nguồn khát vọng được đi và khám phá, sẵn lòng từ bỏ
tương lai xán lạn trong nghiên cứu khoa học ở Paris như là một môn đệ
của Louis Pasteur (1822-1895). Trong một bức thư gửi mẹ, Yersin viết từ
Đông Dương:
“Con
sẽ không buồn nếu phải rời Paris vì con thấy chán ngấy kịch nghệ, đám
thượng lưu làm con kinh tởm, và đời mà không đi khám phá thì còn gì là
đời!”.
Chính
Pasteur viết thư đề cử Yersin làm bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho hành
khách và thủy thủ của hãng tàu Messageries Maritimes. Ông phục vụ trên
tàu Volga, một con tàu cũ kỹ chạy bằng buồm và hơi nước trên tuyến hàng
hải Sài Gòn – Manila, chuyên chở 67 hành khách cùng vài tấn hàng hóa.
Trong
thời gian qua lại giữa hai thành phố Sài Gòn và Manila, Yersin tổ chức
những chuyến thám hiểm ở Philippines và Nam Kỳ. Từ đó, ông tích lũy kiến
thức cùng kinh nghiệm cho ước mơ khám phá những vùng đất mới tại xứ An
Nam.
Cũng
trong thời gian này, Bác sĩ Albert Calmette (1863-1933), một môn đệ
khác của Pasteur, đến Sài Gòn tìm gặp Yersin. Calmette đề nghị hợp tác
trong việc thành lập chi nhánh Viện Pasteur ở Sài Gòn năm 1891, đây là
Viện Pasteur đầu tiên ngoài nước Pháp của Viện Pasteur Paris.
Cả chuyến đi cũng như chuyến về, tàu Volga đều dừng lại ở Nha
Trang, một vịnh nước yên tĩnh, đầy nắng ấm và cát trắng. Yersin đã bị
mê hoặc bởi vùng đất hoang dã với mảng thực vật trên đất liền đẹp rực
rỡ, bên trên là những đỉnh núi mây mù chưa từng ai đặt chân đến và cũng
chưa hề được vẽ bản đồ.
Với
tâm nguyện phục vụ dân nghèo bên cạnh việc nghiên cứu khoa học, Ông Năm
đã quyết định chọn Nha Trang làm quê hương thứ hai. Đầu tiên, ông dựng
tại Xóm Cồn một căn nhà gỗ đơn sơ để chữa bệnh cho dân nghèo. Yersin
khám bệnh miễn phí, ông viết cho mẹ:
“Mẹ
hỏi con có thích ngành y không. Có và không. Con rất vui được chữa trị
cho những người đến nhờ con khám, nhưng con không muốn biến y học thành
một cái nghề, nghĩa là con sẽ không bao giờ có thể đòi một người bệnh
trả tiền vì đã chữa bệnh cho người đó. Con coi y học là thiên chức, là
mục vụ. Đòi tiền để chữa trị cho bệnh nhân thì chẳng khác nào nói với
người đó rằng: tiền hay mạng sống.”
Yersin
nói tiếng Việt một cách “lõm bõm”. Thứ tiếng Việt “trọ trẹ”, chẳng hạn
từ ngữ “người ta” ông dùng để chỉ cả người lẫn vật, số ít cũng như số
nhiều. Ông Năm yêu trẻ, ông thường chiếu phim cho trẻ em Xóm Cồn xem.
Một hôm, chúng đánh vỡ chậu hoa, ông bảo người giúp việc: “Đừng rầy đánh, người ta sợ.”
Thời
bấy giờ, ngư dân tránh được tai họa do bão cũng là nhờ Ông Năm quan sát
thiên văn để báo trước cho họ. Ngư dân lại có thói quen hay uống rượu
say, cãi lộn, gây gổ, chửi nhau, thậm chí ẩu đả. Ông lặng lẽ lấy máy
quay phim, ghi lại những chuyện không hay ấy.
Sau
đó, mời dân Xóm Cồn đến xem phim. Ông hỏi họ như vậy có hay không, đẹp
không? Ai nấy đều xấu hổ. Nhờ đó mà Xóm Cồn thời ấy gần như hết nạn say
rượu, đánh chửi nhau.
Nhà riêng của Yersin tại Nha Trang (nay là Nhà nghỉ Bộ
Công An)
Cuộc
đời của Ông Năm không chỉ gắn bó với dân chài Xóm Cồn, Nha Trang. Tháng
6/1893, được sự ủy thác của Toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de
Lanessan, Yersin tổ chức một đoàn thám hiểm theo đường bộ từ Đồng Nai
lên Di Linh. Cuối cùng, ông khám phá Cao nguyên Lâm Viên.
Trong nhật ký, Yersin ghi nhận có vài làng của người sắc tộc D’Lat nằm rải rác trong vùng. Ông viết:
“Từ
trong rừng thông bước ra, tôi sững sờ khi đối diện một bình nguyên
hoang vu, giống như mặt biển, tràn đầy những làn sóng màu xanh lá cây.
Sự hùng vĩ của rặng Langbiang hòa lẫn vào đường chân trời tây bắc tạo
nên bối cảnh tráng lệ, gia tăng vẻ đẹp của vùng đất này.”
Đến
năm 1899, tại vùng đất được Yersin khám phá, Toàn quyền Paul Doumer cho
thiết lập một khu nghỉ dưỡng dành cho người Âu châu, sau này đó chính
là thành phố nghỉ mát Đà Lạt.
Cuối
năm đó, với một lực lượng hùng hậu – ngoài 54 người tùy tùng còn có một
toán lính tập mang súng theo hộ tống – Yersin khởi hành cũng từ Đồng
Nai, lên Đà Lạt, rồi đi tiếp đến cao nguyên Đắc Lắc, vào Attopeu ở nam
Lào, rồi lại theo hướng đông ra biển, để đến Đà Nẵng vào ngày 17/5/1894.
Cuộc
khảo sát lần này thăm dò một vùng đất rộng lớn trải rộng từ vĩ tuyến 11
ở phía nam đến vĩ tuyến 16 ở phía bắc. Ông ghi lại trong nhật ký:
“Đường
đi thật là khủng khiếp. Trong 4 ngày liên tiếp, chúng tôi phải vượt qua
một vùng núi hiểm trở, trèo xuống, leo lên, cứ đơn điệu như thế làm cho
chúng tôi rất mệt mỏi… Cây cối chen chúc. Không có đường mòn. Chúng tôi
phải khòm lưng chui qua các bụi tre. Vì trời mưa nên rừng có nhiều vắt
không thể tả được. Những người Việt Nam đi cùng với chúng tôi bị sốt
rét, mặc dầu đã uống thuốc ngừa…”
Lộ trình các chuyến thám hiểm của Yersin
Trong
khi Yersin đang chuẩn bị cho cuộc thám hiểm kế tiếp thì bệnh dịch hạch
đã bộc phát ở miền nam Trung Hoa và lan truyền xuống Đông Dương, gây tử
vong cao, và trở thành mối đe dọa cho tất cả cảng biển có giao dịch
thương mại với Trung Hoa. Nhà cầm quyền thuộc địa Pháp bèn cử Yersin đến
Hồng Kông để nghiên cứu bệnh dịch hạch.
Yersin
là người đầu tiên chứng minh rằng trực khuẩn dịch hạch hiện diện ở
chuột bệnh và người bệnh chỉ là một, nhờ đó ông đã giải thích được
phương thức truyền bệnh. Cũng trong năm ấy, khám phá này được cộng tác
viên Émile Duclaux gửi đến Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, trong một bài báo
nhan đề “La Peste Bubonique de Hong-Kong” (Bệnh dịch hạch ở Hồng Kông).
Năm
1895 ông trở lại Viện Pasteur ở Paris và cùng với Émile Roux, Albert
Calmette và Armand Borrel đã điều chế ra huyết thanh chống bệnh dịch
hạch đầu tiên. Cùng năm đó, ông trở về Đông Dương và lập một phòng thí
nghiệm nhỏ tại Nha Trang để sản xuất huyết thanh. Năm 1896, ông thành
lập trại chăn nuôi Suối Dầu, nuôi ngựa để sản xuất huyết thanh.
Cũng
vào năm 1896, Yersin đến Quảng Châu, ông được phép công khai tiêm huyết
thanh điều chế tại Nha Trang cho một bệnh nhân tại đây, và nghiễm nhiên
trở thành người thầy thuốc đầu tiên cứu sống một bệnh nhân dịch hạch.
Yersin và lán tre,
nơi ông tìm ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch Hồng Kông năm 1894
Năm
1898, Ông Năm trở lại Nha Trang và với sự hỗ trợ từ Toàn quyền Doumer,
ông xây dựng Viện Pasteur Nha Trang. Ông mua một khu đất rộng 500 héc-ta
ở Suối Giao (nay là Suối Dầu) để làm nơi nghiên cứu nông nghiệp và chăn
nuôi.
Ông
cho trồng cây cà phê Liberia, các loại cây thuốc, cây coca để sản xuất
cô-ca-in sử dụng trong ngành dược, tuyển chọn nhiều loại thực vật và
động vật từ khắp nơi trên thế giới để nuôi trồng tại đây, biến nó thành
một cộng đồng nông nghiệp và khoa học.
Là
người đầu tiên nhập giống cây cao su về trồng tại Việt Nam, Yersin trở
thành chủ một đồn điền cao su, lúc đầu rộng khoảng 100 hec-ta, kiếm tiền
đủ để trang trải chi phí điều hành Viện Pasteur Nha Trang.
Trong thời gian này, sản xuất huyết thanh chống dịch cho bò
đã trở thành nguồn thu nhập chính của Yersin, giúp ông có sức mở rộng
việc nghiên cứu. Trung tâm thí nghiệm này về sau trở thành Viện thú y
đầu tiên ở Đông Dương.
Y
ersin còn ra công nghiên cứu thêm về các loại chim, nghề làm
vườn và sưu tầm các loại hoa. Ông cũng mở một chiến dịch trồng rừng,
đồng thời khuyên dân làng bỏ tập tục “chặt đốt cây rừng”. Ông còn trồng
thử nghiệm cây “canh-ki-na” để sản xuất thuốc ký ninh chữa bệnh sốt rét
tại Dran và Di Linh.
Yersin
là một con người “đa năng, đa hiệu”. Ông là chuyên gia về nông học
nhiệt đới, nhà vi trùng học, nhà dân tộc học, nhiếp ảnh gia, kể cả việc
nghiên cứu khí tượng. Ông làm một con diều thật lớn, thả lên độ cao một
ngàn mét, để quan sát khí quyển và dự đoán giông bão.
Ông
giúp những người dân chài thường khi bị mất tích trên biển mỗi lúc có
lốc xoáy vụt đến. Yersin thuyết phục Fichot, một kỹ sư thủy văn phục vụ
trong hải quân và rất say mê thiên văn học, đến sống với ông trong ngôi
nhà lớn ở Xóm Cồn với kính thiên văn được lắp đặt trên sân thượng, để
cùng nhau nghiên cứu khí tượng.
Trong
những ngày cuối đời, Yersin lại gắn bó với niềm đam mê mới: văn chương.
Ở tuổi tám mươi, ông lại học tiếng Latin, tiếng Hy Lạp, và biên dịch
những tác phẩm kinh điển của Phèdre, Virgile, Horace, Salluste, Cicéron,
Platon, và Démosthène.
Tượng Yersin tại Nha Trang
Năm
1902, Toàn quyền Paul Doumer, trước khi rời Đông Dương, mời Yersin từ
Nha Trang ra Hà Nội để mở một trường đào tạo y khoa, một bệnh viện và
một trung tâm vệ sinh. Theo Yersin, Trường y Đông Dương “ước tính việc xây dựng sẽ tốn một triệu rưỡi franc!”.Đây là một số tiền lớn, nhưng ông cho rằng vẫn rẻ hơn nhiều, lại hữu ích hơn nếu so với cái nhà hát ở Sài Gòn.
Yersin
được bổ nhiệm làm hiệu trưởng đầu tiên của Trường Y Đông Dương, tiền
thân của Đại học Y Hà Nội. Ông thiết lập giáo trình theo hình mẫu đại
học Pháp – sáng khám bệnh ở bệnh viện, chiều dành cho lý thuyết – đích
thân ông giảng dạy trong các giờ vật lý, hóa học, và phẫu thuật.
Đại học Y Hà Nội (năm 1930)
Ngày 1/3/1943, Ông Nam từ trần tại nhà riêng ở Nha Trang, thọ 80 tuổi. Ông để lại di chúc với những lời lẽ như sau:
“Tôi
muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại
Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin
tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm. Đám
táng sẽ làm giản dị, không huy hoàng, không điếu văn.”
Dù
vậy, rất đông người tìm đến để đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng.
Nhiều người dân Xóm Cồn và Nha Trang than khóc và để tang cho ông. Đoàn
người đưa tang dài đến hơn ba cây số. Dân chúng coi ông là “công dân Nha Trang” vì ông đã sống ở đây tròn 50 năm.
Di
sản của Yersin quá lớn! Toàn dân Việt Nam, hơn mọi dân tộc khác, phải
ghi ơn ông mãi mãi. Vua Bảo Đại đã truy tặng ông Bội tinh Kim khánh. Dân
nghèo nhớ ông vì lòng nhân hậu. Bệnh nhân không quên công trình y khoa
của ông.
Năm 2014 Việt Nam truy tặng ông là “công dân danh dự” và cho ra mắt bộ sưu tập tem bưu chính mang hình ảnh ông.
Tem phát hành chung Việt Nam – Pháp:
Kỷ niệm 150 năm sinh Yersin (1863-1943)
Người
Việt đã quá quen thuộc với những cái tên như Pasteur, Calmette và
Yersin vì họ đã từng sinh sống và làm việc tại xứ An Nam, tên gọi của
Việt Nam hồi thế kỷ thứ 19. Tên của những bác sĩ này, cho đến ngày nay,
đã trở thành những tên đường, tên trường học và tên viện nghiên cứu tại
nhiều thành phố trên khắp Việt Nam.
Lycée
Yersin (nay là Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt) là một ngôi trường được
khởi công xây dựng năm 1927 và khai giảng năm 1935 là một kiến trúc đẹp
và độc đáo của Đà Lạt. Tại thành phố này, cũng mang tên ông còn có Công
viên Yersin và một ngôi trường thành lập năm 2004, Đại học Yersin.
Đó là sự tri ân “không biên giới” của
người Việt đối với những người nước ngoài đã cống hiến cả đời cho đất
nước Việt Nam. Dù họ không mang quốc tịch Việt Nam nhưng người Việt vẫn
coi như… đồng bào!
Mộ “Ông Năm” Yersin tại Suối Dầu, Nha Trang
Nguyễn Ngọc Chính
http://chinhhoiuc.blogspot.com
DAY LA MOT BAC THANH DOI VOI NGUOI CONG GIAO
ReplyDeleteCám ơn đã sưu tầm. Tôi sẽ đem về trang blog của tôi.
ReplyDelete