Tôi còn nhớ, chị tên Yến. Chị có một mái tóc dài chấm eo. Eo chị rất
nhỏ, vóc dáng mảnh mai, xinh đẹp. Chị mang dòng máu nửa Hoa nửa Việt, ở
đâu tuốt chợ lớn, đến nhà tôi mướn một góc mặt tiền để bán bánh ngọt. Tủ
bánh của chị rất hấp dẫn, các loại bánh Pháp ngon lành, được trưng bày
khéo léo, thêm vào một cô chủ như chị nữa thì cửa hàng bánh ngọt này là
cửa hàng hạng nhất con đường nhà tôi, một con đường tấp nập cũng vào bậc
nhất Sài Gòn, ngày xưa có tên Tự Do, sau đổi thành Đồng Khởi. Cuối con
đường là dòng sông Bạch Đằng. Dòng sông này cũng như con đường, bận rộn
vô cùng.
Hồi chị mới đến, cả khu xóm tôi xôn xao. Các cụ cứ trầm trồ khen ngợi
con nhà ai xinh như mộng, lại khéo nữa. Các chú các anh cũng háo hức
không kém, sang nhà tôi thăm hỏi liên tục, và tôi trở thành quan trọng
hẳn, được các ông anh chú ý hơn để hỏi tin tức của chị, hoặc chỉ hỏi xem
chị đến chưa, chuẩn bị dọn hàng chưa. Các bà vợ thì tức tối thấy rõ,
nói xiên nói xéo chị, và chửi bới các đức ông chồng. Còn chị, chị lúc
nào cũng nhỏ nhẹ và hiền lành, tôi có cảm tưởng chị chẳng bao giờ có khả
năng nổi giận, hay mắng nhiếc ai. Chị lễ phép với người lớn, lịch sự
với người đồng trang lứa, và âu yếm với bọn nhỏ chúng tôi. Chị ăn mặc
giản dị nhưng rất đẹp. Mái tóc dài lúc nào cũng kẹp lại bằng chiếc kẹp
ba lá, đung đưa ngang eo theo từng cử động của chị. Tôi là thằng bé mới
lớn, vừa 12 tuổi, ngày nào cũng nhìn chị say mê không chớp mắt. Con em
gái tôi cũng thế, có lần nó kéo tay tôi thủ thỉ: anh Hai, em muốn lớn
lên đẹp như chị Yến.
Lớn lên đẹp như chị Yến. Trời, đứa con gái
nào mà không muốn, nhưng có được không mới là chuyện. Chị Yến đâu chỉ
đẹp thôi, còn duyên dáng và đảm đang nữa, cứ trông chị làm bánh, dọn
hàng, sắp từng chiếc bánh con con lên miếng giấy hoa bọc phía dưới thì
đủ biết. Chị như một nàng tiên, và những chiếc bánh của chị cũng đẹp và
ngon khác thường, nghe đâu chị nấu ăn và dọn bàn ăn cũng chẳng ai sánh
bằng. Mỗi lần lễ lượt, chị còn cắm hoa để trưng bày trên tủ bánh ngọt
của chị, bình hoa cũng đẹp giản dị và kín đáo y như chị. Chị người Việt
gốc Hoa, mà sao ở chị lại toát lên một cái gì… Tây Tây, song lại cũng
rất…Ta Ta…Biết nói làm sao nhỉ? Chị Yến bán bánh ngọt ở cửa nhà tôi là
một cô gái đặc biệt, tôi chưa thấy một người con gái nào giống chị và
bằng chị.
Tôi không biết chị bao nhiêu tuổi, nhưng tôi biết chị
đang ở cái tuổi đẹp nhất của một người con gái. Chị rất thích hát. Chị
không hát chỗ đông người, chỉ hát khe khẽ một mình lúc làm bánh hoặc dọn
hàng. Bài hát dính liền với chị là “Mộng dưới hoa”. Vừa sắp bánh vào
giấy bọc, chị vừa ngâm nga “chưa gặp em anh đã nghĩ rằng có nàng thiếu
nữ đẹp như trăng…”. Tôi không đồng ý với ông nhạc sĩ này. Nếu chưa gặp
chị, tôi không tài nào tưởng tượng nổi một thiếu nữ đẹp như trăng thì sẽ
đẹp như thế nào, cho đến khi chị đến, cho đến khi nhà tôi, xóm tôi, và
con đường này có một vầng trăng là chị. Tôi nói cho chị biết điều này,
chị xoa đầu tôi cười, đặt vào tay tôi 1 cái bánh. Chị nói em còn nhỏ
lắm, một ngày nào đó em sẽ biết cách tưởng tượng. Rồi chị tiếp tục công
việc, và lại khe khẽ hát tiếp: “mắt xanh là bóng dừa hoang dại, âu yếm
nhìn tôi không nói năng”.
Âu yếm nhìn tôi không nói năng. Trời,
chính tôi đang mỗi ngày âu yếm nhìn chị không nói năng đây, mà sao chị
chẳng biết. Cái eo của chị vẫn xoay chuyển như cùng thỏa thuận với mái
tóc, lắc nhẹ cái đuôi chờn vờn qua lại khiến tôi thèm thuồng được túm
chặt cái đuôi tóc ấy, mân mê trên tay. Mắt chị vẫn cười và long lanh sau
tủ bánh ngọt. Bàn tay chị thoăn thoắt, không ngơi công việc và mỗi cử
động của đôi tay ấy đều có chút gì âu yếm, nâng niu công việc đang làm.
Chị rất ít nói, đôi mắt chị nói rất nhiều thay chị. Chẳng ai biết chị
đang nghĩ gì, chỉ biết rằng, ở trong cái đầu nho nhỏ trên cái cổ cao
thanh mảnh ấy, thì hẳn phải là một ý nghĩ rất dịu dàng. Có lần trong lúc
chị dọn hàng, gió từ hướng bờ sông thổi đến rất mạnh, mấy miếng giấy
trắng trong bọc bánh của chị theo gió cuốn bay lên, và tóc của chị cũng
bay theo. Phút chốc ấy tôi bỗng hoảng hốt, cảm giác như chị đang bay
lên, đang chới với, đang kêu cứu. Thằng bé mười hai tuổi anh hùng trong
tôi vội chạy lại, giữ chặt lấy chị, dỗ dành: "Không sao đâu. Em bảo vệ
chị". Chị bật cười cám ơn tôi, rồi trêu: "Em bay trước chị thì có. Thôi
được rồi, phụ chị nhặt mấy tờ giấy lại đi cu cậu."
Cu cậu. Tôi đỏ
mặt giận chị. Có bao giờ một người đàn ông bị người phụ nữ của mình gọi
là cu cậu chưa nhỉ? Tôi đau khổ vô cùng. Một tuần liền tôi đi học về
cửa sau, tránh không đi cửa trước gặp chị. Gia đình tôi không ai chú ý
đến tôi, không ai biết lý do tôi đổi cửa ra vào. Tôi đi cửa sau hóa ra
lại tiện hơn cho mọi người. Mẹ tôi bán cà phê đắt hơn, chị bán bánh đắt
hơn, và con em gái tôi ngày nào cũng được ngồi trong lòng chị. Nó lăng
xăng dọn hàng phụ chị, ăn bánh phụ chị, và chỉ mới 1 tuần lễ thôi tôi đã
thấy nó bày đặt làm dáng, mỗi lần xếp tập vở vào cặp sách của mình, nó
cũng bắt chước dáng điệu của chị, miệng còn khe khẽ hát “chưa gặp em anh
đã nghĩ rằng…” Tôi nổi nóng la: “mày nhỏ, hát chi thứ nhạc ấy”. Nó nhe
răng cười: “anh nhỏ thì có.
Chị Yến dạy em đấy. Nghe nè: mắt xanh là bóng dừa hoang dại. Âu yếm nhìn anh không nói năng”.
Một
hôm, nó chui vào mùng tôi, thủ thỉ kể: “anh Hai, biết gì không? Hồi
chiều em đi mua bột làm bánh với chị Yến. Anh Đạt chở em ở giữa, chị Yến
đằng sau, đi mua bột vui lắm. Chị Yến nói bữa nào em lớn chút nữa, sẽ
dạy em làm bánh”. Tôi ngồi bật dậy. Anh Đạt? Tôi nuốt nước miếng, cảm
giác đắng nghét ở cổ họng. "Anh Đạt nào? Sao tao không biết?" Con em tôi
nhìn tôi đắc thắng, lên giọng: “Giời ơi, cái anh đẹp trai ngồi ở quán
mình mỗi ngày ấy.
Ngồi nhìn chị Yến. Mua bánh của chị Yếân cho
em ăn nữa nè. Anh dễ thương lắm nghe, hồi chiều chị Yến dọn hàng sớm,
nói về đi mua bột, mua kem làm bánh cho kịp ngày mai. Anh Đạt xung phong
chở chị Yến đi mua, rồi chị Yến xin cho em đi theo nữa đấy nhá. Bây giờ
chị Yến đi đâu cũng dẫn em theo hết. Mai mốt truyền nghề cho em luôn”.
À, thì ra. Phải điều tra cho ra ngọn ngành mới được.
Người
đàn ông tên Đạt thoạt nhìn tôi đã không ưa, trạc độ 30 tuổi, trông như
một công tử nhà giàu, chưng diện. Thừa nước đục thả câu, trong hơn tuần
lễ tôi giận không đeo bên cạnh chị, anh ta đến quán ngồi lì từ sáng đến
chiều, từ lúc chị mở hàng cho đến lúc dọn hàng, mua bánh của chị cho em
gái tôi và mấy đứa trẻ hàng xóm. Không biết chị đã quen anh ta từ trước
hay là mới biết nhau, nhưng chị ít khi nào nói gì với anh ta. Chị giữ ý
đến độ tôi cảm thấy chị thật giả dối. Nếu không thân nhau sao lại đi mua
bánh, đi mua kem, rồi để anh ta ngồi lì như thế nhìn mình suốt. Tôi
thất tình, lầm lì ít nói, và cộc cằn với chị. Còn chị, gần như không hề
hay biết đến sự ghen tức của tôi. Chị vẫn dịu dàng, vẫn gửi tôi một cái
nhìn trìu mến như mọi khi. Bây giờ chị dọn hàng sớm hơn, và khi chị bước
lên xích lô thì anh ta cũng lái xe thật chậm, bám theo bên cạnh. Họ cứ
như vậy cho đến 2 tháng sau thì một buổi sáng nọ tôi không thấy chị bước
xuống từ xe xích lô nữa, mà từ xe máy của anh ta. Má chị phớt hồng, hai
mắt long lanh tràn ngập niềm vui. Anh ta lăng xăng phụ chị dọn hàng một
chút, uống cà phê, ngồi chơi với bà tôi dăm ba câu đưa đẩy trước khi
cáo từ ra về. Mỗi ngày, tôi thấy chị mỗi đẹp hơn, hay cúi mặt cười một
mình, lúc dọn hàng thỉnh thoảng chị ngước nhìn con đường trước mặt,
trông ngóng anh ta. Giờ về là giờ hạnh phúc nhất của chị. Chị lén soi
gương, đánh lại chút phấn hồng. Trước đây chẳng bao giờ chị làm như thế.
Khi chiếc xe máy của anh ta đỗ kịch trước nhà tôi, chị hướng về phía
anh ta với một cái nhìn đồng lõa và chứa chan âu yếm. Chiếc xe phóng đi
tôi còn kịp thấy cái tia sáng long lanh trong mắt chị, và hai tay chị
giữ chặt eo anh ta, tóc chị bay như một cánh diều sau lưng. Thế là hết.
Chị Yến của tôi đã bay như một cánh diều theo tên đàn ông xấu xí ấy. Tôi
uất ức và buồn tủi đến xỉu được. Ban đêm, tôi nằm úp mặt xuống giường,
hai tay bấu chặt vào chiếc gối, lòng mong muốn giết chết tên đàn ông hỗn
xược ấy, giành lại người chị xinh đẹp kia cho mình. Mà không, tôi cũng
không thèm chị nữa. Tôi giận chị, tôi ghét chị, và trời ơi, tôi thấy chị
đẹp đến não nề.
Ngày tháng trôi qua, thêm một tháng, hai tháng,
rồi năm tháng, sáu tháng…một buổi chiều đi học về tôi thấy chị khóc lặng
lẽ nơi cửa sau nhà tôi. Tôi mon men lại gần chị, cái đuôi tóc của chị
cũng lặng lẽ như chị, thả yên lặng chạy dọc theo tấm lưng thon, điểm
ngang chỗ cái eo nhỏ đến nỗi tôi hình dung ra nó có thể gãy bất kỳ lúc
nào. Chị cứ đứng yên lặng như thế, không nhìn thấy tôi, nước mắt chạy
ròng ròng trên má. Tôi cũng chưa thấy người con gái nào khóc như thế. Mẹ
tôi khóc khác. Dì tôi khóc khác. Ngay cả trong phim tôi cũng chưa thấy
người ta khóc như thế bao giờ. Chị đứng bất động như pho tượng, đôi mắt
mở to nhưng không nhìn bất cứ một thứ gì, kể cả bức tường trước mặt,
nước mắt từ đó chảy ra bất tận, ngực phập phồng nhưng không bật lên một
tiếng nức nở nào. Nắng chiều còn sót lại vừa đủ làm những giọt nước mắt
óng ánh trên má chị. Một nỗi buồn khôn tả xâm chiếm lấy tôi. Có cái gì
không thể tưởng tượng được đang diễn ra ở đây. Có cái gì bi đát trong
dáng dấp ấy. Buổi chiều bỗng tỏa ra một mùi hương tuyệt vọng. Tôi cho
rằng mình cũng đang khóc. Tôi cho rằng mắt tôi cũng đang nhòa lệ theo
chị. Tôi với tay nắm lấy bàn tay chị. Chị quay lại, nhìn thấy tôi và
cũng nắm chặt tay tôi. Yên lặng thêm vài giây nữa, rồi chị mỉm cười, một
nụ cười của sự thảm hại. Chị nói rất nhỏ: "Vào nhà thôi".
Chị không bao giờ nhắc lại buổi chiều hôm ấy với tôi, và tôi cũng thế.
Tôi không còn ghét chị nữa, lý do vì sao thì tôi cũng không hiểu nổi. Sự
đau đớn bấy lâu vì chị như trôi đi cùng lúc với sự đau đớn của chị mà
tôi bắt gặp trong buổi chiều ngày hôm ấy. Anh chàng Đạt vẫn lui tới,
nhưng thất thường hơn. Chị im lặng hơn, chăm chú với mấy cái bánh đủ màu
sắc của chị, nhưng tôi có cảm tưởng chị chỉ vờ lấy lệ, vì đôi mắt của
chị không biểu lộ sự chăm chú, cũng không biểu lộ một niềm vui nào, nó
lặng lẽ đến ghê hồn. Đôi mắt ấy không bao giờ biết phản bội lòng chị, dù
chị có khéo giấu mọi điều đến đâu chăng nữa. Hàng mi dài của chị như rũ
xuống, và cả đuôi tóc cũng lười biếng không động đậy. Bây giờ dọn hàng
xong chị leo lên xích lô về nhà, không leo lên xe anh ta nữa. Anh ta vẫn
chậm chậm lái xe theo chiếc xích lô của chị. Chị ngồi lọt thỏm trong
xe, hai tay đặt lên đùi, gương mặt nghiêm trang, và trông chị nhỏ nhắn
đến đáng thương.
Một ngày đầu năm, tôi nghe tiếng la hét và tiếng
khóc lóc trước cửa nhà mình. Một cảnh tượng thật khủng khiếp. Chị Yến
bám chặt lấy mẹ tôi, gương mặt xanh mét, kế bên chị là một bà đứng tuổi,
tay túm chặt lấy tóc chị, miệng la lối: "Bà để tôi dạy con tôi. Đồ đĩ
ngựa. Nó theo thằng đã có vợ. Cái thằng khốn nạn. Trời ơi, biết thế tôi
đâu cho nó lên đây làm gì". Rồi bà ta đổi sang tiếng Hoa, gào thét như
điên loạn. Sau lưng bà ta là một đại gia đình của chị Yến thì phải, và
gần như đủ mặt hàng xóm của tôi. Các bà vợ xung quanh nhà tôi nhổ nước
bọt, chửi phụ họa theo bà mẹ chị Yến, và các ông chồng lặng lẽ đứng bên
các bà vợ như ngầm đồng ý với họ. Đồ cướp chồng người khác. Đồ đĩ. Tôi
chóng mặt vì những tiếng gào thét ấy. Chị Yến gần như mệt lả người, bấu
chặt vào mẹ tôi, lắp bắp: "Cô ơi, cứu con". Rồi tiếng hét thất thanh của
mẹ tôi. Không kịp nữa, bà mẹ chị Yến đã dùng kéo cắt đứt mái tóc của
chị. Đuôi tóc chị rơi xuống sàn nhà, chiếc kẹp ba lá cũng bật ra, mái
tóc xổ ra một lần cuối và biến mất trên lưng chị. Chị lịm người trong
tay mẹ tôi, hai má bị đánh đến bầm tím, máu từ mũi chị chảy ra xối xả.
Đám đông bu quanh nhà tôi hả hê ra mặt. Cho đến lúc chị Yến té xỉu được
mang vào bệnh viện thì đám đông mới giải tán, và những bà vợ gương mẫu
kia nắm chặt tay các đức ông chồng, rời gót với điệu bộ vui vẻ như vừa
đi xem hát bóng về.
Tôi ngồi bệt xuống đất, nhặt mái tóc của chị
tung tóe dưới sàn nhà. Tôi tìm lại chiếc kẹp ba lá cho chị. Chị Yến,
Yến, Yến ơi! Tôi nắm chặt chiếc kẹp tóc của chị. Em sẽ chờ cho tóc chị
dài ra, chấm ngang eo, và kẹp lại cho chị!
Ngày hôm sau, gia đình
chị lên dọn tủ bánh. Còn chị thì mất dạng. Tôi khổ sở mong ngóng tin
tức chị. Con em gái tôi cũng buồn không kém. Người đàn ông tên Đạt biệt
tăm, không trở lại uống cà phê lần nào. Mãi đến một năm sau, trước khi
gia đình tôi rời Việt Nam, tôi mới vô tình đọc được vài dòng chị gửi mẹ
tôi, không biết từ bao giờ. Lần đầu tiên tôi nhìn được nét chữ của chị.
Nét chữ nghiêng nghiêng như sắp đổ, như cái eo của chị. Trong thư chị
cho biết chị đi lấy chồng, không phải anh Đạt. Chị viết: “Con xin lỗi
không gửi thiệp mời cô đi dự đám cưới. Con chẳng còn muốn gặp ai. Mẹ con
đã sắp xếp mọi điều, mà dù không như thế, thì Đạt cũng có vợ rồi, đâu
thể lấy con. Con thăm hai em”.
Chị vẫn còn nhớ đến tôi. Tôi thấy cay cay ở mắt. Thấy thương chị không biết để đâu.
Năm đó tôi vừa tròn mười lăm tuổi.
Và thêm mười lăm năm nữa trôi qua.
Bây
giờ tôi là người đàn ông ba mươi. Tôi còn độc thân, sống ở Mỹ. Tôi
không hình dung được cậu bé thất tình ngày xưa, nhưng bóng dáng của chị
Yến đôi lúc vẫn thoáng hiện lên trong trí nhớ tôi. Thỉnh thoảng tôi cũng
bắt gặp cái dáng dấp ấy ở một vài cô gái, và cũng đã từng cặp kè với
họ, nhưng tôi vẫn luôn cảm thấy có cái gì thiếu sót nơi những nhan sắc
ấy, không toàn vẹn như vẻ đẹp của chị Yến. Tôi không biết thêm một tin
tức gì của chị, không biết giờ này chị lưu lạc ở đâu, còn đi mua bột,
mua kem nặn mấy cái bánh Pháp hay không. Có bao giờ chị còn đứng đối
diện với một bức tường, khóc lặng lẽ như buổi chiều hôm ấy. Và mái tóc
của chị? Nghĩ đến đấy, tôi mong gặp lại chị biết bao! Tôi bỗng nhớ chiếc
kẹp ba lá xinh xinh ngày nào.
Một lần, đi dự đám cưới một người
bạn, tôi gặp lại người đàn ông tên Đạt, giờ là một người đàn ông béo
phị. Cái dáng công tử con nhà giàu đã mất dạng, nhưng cái nét đáng ghét
lì lợm nơi hắn vẫn nguyên vẹn không suy suyển. Tôi bần thần, không biết
có nên đến hỏi tin tức của chị Yến không. Một người đàn bà trang điểm
diêm dúa ngồi cạnh hắn, chắc là vợ. Tôi thầm mừng cho Yến đã không phải
lấy hắn. Con em gái tôi cũng đã nhận ra, kéo tay tôi liên tục. Nó nôn
nóng muốn biết tin của chị Yến cũng không kém gì tôi. Em gái tôi lớn lên
cũng là một thiếu nữ rất xinh đẹp, và tóc nó cũng để dài như Yến. Dạo
ấy em tôi đánh hơi được lòng tôi, có một lần nó dùng một chiếc kẹp từa
tựa chiếc kẹp ba lá, kẹp mái tóc lại và đung đưa, rồi nhìn sang tôi nheo
mắt cười. Nó đã đứng dậy, đi đến chào người đàn ông kia. Tôi nín thở
quan sát. Hắn ta không nhận ra em tôi. Cũng phải thôi, ngày xưa em tôi
bé tí. Người đàn bà bên cạnh hắn mặt hầm hầm nhìn em tôi, em tôi cười
giả lả, trở lại bàn ngồi cạnh tôi. Nó làu bàu: "Ghen quá, em không dám
hỏi chuyện đâu. Tí nữa anh đến hỏi nghe!"
Tôi không đến hỏi. Tôi
cũng chẳng muốn hỏi lại làm gì. Sau này mẹ tôi kể lại bà vợ đến nhà của
Yến đánh ghen, và kết quả là chính mẹ của chị đánh chị đến đổ máu và cắt
đi mái tóc dài xinh đẹp ấy. Tôi chỉ biết thêm có chừng ấy về chị. Mỗi
lần nhìn một mái tóc dài bay trong gió, tôi lại nhớ đến Yến, đến thời
thơ ấu, đến một cánh diều bay lên...Tôi không thích nhớ đến mái tóc nằm
dưới sàn gạch nhà tôi, nó làm lòng tôi thắt lại.
Vào một buổi chiều sau hai ba hôm tôi gặp người đàn ông tên Đạt ấy, em gái tôi chạy ào đến tôi, giọng gấp gáp:
“Em biết tin của chị Yến rồi!”
Và nó tiếp luôn: “Chết. Chết rồi. Sau đám cưới không bao lâu”.
Tôi
nuốt nước miếng, lại cái cảm giác đắng nghét ở cổ họng. Chị Yến đi lấy
chồng, và ở lì trong nhà, không bao giờ lên tiếng nữa. Chị cứ lặng lẽ
như thế, như một chiếc bóng, không nói không cười. Ông chồng bất lực
trước người vợ câm như hến, ngày càng chìm sâu vào rượu, và cuối cùng
đánh chết vợ rồi vào tù ngồi. Chị Yến chết với cái thai trong bụng. Ông
chồng vào tù như một người điên loạn, chửi bới cái thai trong bụng chị
không tiếc lời, song chính ông ta cũng không biết rõ cái thai là của ông
ta hay người đàn ông tên Đạt. Chắc là chẳng ai biết cả, bí mật đã theo
chị xuống mồ.
Buổi chiều phủ xuống rất nhanh. Tôi mở cửa, không
khí lạnh lẽo của mùa đông tràn vào. Tuyết phủ trắng bãi cỏ trước sân
nhà. Tôi nhớ đến buổi chiều năm xưa khi Yến khóc lặng lẽ ở cửa sau nhà
tôi, cái buổi chiều đánh dấu cho sự thay đổi lớn của tuổi thơ tôi, bất
giác tôi nhận thấy mình đang đứng bất động, giống như Yến ngày nào. Nỗi
buồn hay lây. Em gái tôi đến bên cạnh, cầm tay tôi nói khẽ: “Vào nhà
thôi”. Tôi giật thót mình. Bộ Yến ở đâu đây? Tôi nghe một tiếng kêu nhỏ
từ lồng ngực mình, nghẹn lại ngay cổ. Suýt tí nữa tôi gọi tên Yến. Phải
chăng cái mùi hương tuyệt vọng từ buổi chiều hôm ấy đã theo tôi suốt
mười lăm năm nay, khiến tôi luôn nhìn thấy một điều gì bất ổn ở cuộc
sống này, khiến tôi vẫn không tìm được một chỗ êm ả cho tâm hồn mình.
Tôi vào nhà, thắp một nén hương cho chị Yến, tình đầu của tôi.
Lê Sông Văn - 1990
Hay ! Nhưng kết cuộc lại buồn quá !
ReplyDelete