Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Trang Người Phương Nam
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ from 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Monday, June 30, 2025
"Chữ CS?" - Đoàn Xuân Thu
Sau năm 1975, bà con mình vượt biên, vượt biển
tới các nước nói tiếng Anh như: Mỹ, Canada, Úc… Bà con mình nói hay viết chêm
tiếng Anh vào là chuyện thường ngày ở huyện.
Nhiều chữ nửa Tây, nửa ta như: ‘Little
Saigon’, ‘chạy show’… Hoặc ‘boat people’ (thuyền nhân); ‘lifeboat’ (xuồng cứu
sinh xài trong phim như Titanic); email, shopping, selfie…
‘Selfie, tự chụp hình mình, được Oxford công
nhận là “Từ của năm” vào 2013. Selfie thì có người dịch là ‘tự sướng’? Nghe rất
là thô tục; không nên xài!
Tháng Tư, năm 1975, CSBV xâm lược chiếm được
nước VNCH. Cùng với những thay đổi lớn về chính trị và xã hội, tiếng Việt cũng
trải qua nhiều biến chuyển. Có chữ mới ra đời. Có hay; có dở. Hay sống
dai. Dở chết yểu.
Như chữ ‘thả thính’? ‘Thính’ là gạo rang cho
thơm rồi giã nhỏ thả xuống vó, dụ cá đến gần rồi kéo vó lên. ‘Thả thính’ của giới
trẻ hiện nay, kiểu nhẹ nhàng, gây sự tò mò để ai kia chú ý đến mình, giống như cách
thả thính xuống nước vậy.
Ca dao có câu: ‘Cô thương nhớ ai ngơ ngẩn đầu
cầu, lược thưa biếng chải, gương tàu biếng soi.” Soi là coi đó mấy cha. Còn
‘Xoi’, động từ, là dùng vật hình que nhỏ chọc vào cho thông, cho hết tắc. Như:
xoi cống, xoi vòi ấm, xoi thông ống điếu. Viết xoi ruột là viết trật lất!
Rồi tui có viết “FBI từ đó tới giờ chưa bắt
được và không xác định chính xác nhân thân của tên không tặc này.”
Thì có một độc giả tình thương mến thương chụp
cho tui cái mũ xài chữ CS như vầy: “Bây giờ tiến bộ xài ‘nhân thân’ thay cho
‘lý lịch’?”
Nghe tới chữ lý lịch là cả một thời Miền Nam
bị CS đày đọa bởi cái chữ nghĩa lý lịch 3 đời nó hiện về như cơn ác mộng. Tui
bèn trả lời ổng như vầy:
“Câu này có hai mệnh đề phủ định (negative
clause) nối với nhau bằng chữ ‘và’ liên từ đồng đẳng (coordinate conjunction).
Mệnh đề nào quan trọng đứng trước. Có thể tách ra làm hai câu: ‘FBI từ đó tới
giờ chưa bắt được (tên không tặc); nên chưa biết y là ai.’ FBI không xác định được
một cách chính xác nhân thân của tên không tặc này.”
Nhân thân tức gốc gác, vợ con, cha, mẹ, anh
em, họ hàng, FBI cũng không biết luôn. Như vậy, nhân thân không phải là lý lịch.
Trong từ điển Hán Việt không có chữ lý lịch
(lý viết y dài). Chỉ có chữ ‘lí lịch’ (lí viết i ngắn). Lí lịch chỉ chung công
việc đã làm và hoàn cảnh đã qua.
Mà CS biết lý lịch tới 3 đời kể cả bên vợ của
mình để làm gì? Để trả thù; để đày đọa người dân Miền Nam.
Chế độ CS là một chế độ bị bệnh “Bách hại cuồng”
– nhìn đâu cũng thấy kẻ thù muốn hại mình. Vì bị bệnh nặng như thế nên mới hành
động tàn ác không giống ai. Chớ hồi xưa mình xài chữ ‘lai lịch’. Lai lịch, quá
khứ, chỉ nguồn gốc, gốc gác của sự việc, của một người.
Chẻ cọng tóc ra làm 8, tui xin kết luận là:
‘Ông xúi tui xài chữ ‘lý lịch’ của CS để thay chữ ‘nhân thân’ là ông xúi tui viết
bậy không hè!”
Nhớ hồi xưa 16 tuổi trở lên là mình làm giấy
căn cước bọc nhựa để cho biết gia thế, xuất thân, lý lịch. CS vô thì bắt làm chứng
minh nhân dân? Thiệt là chuyện ruồi bu! Người dân da vàng mũi tẹt húp nước mắm
mà phải chứng minh mình là nhân dân?
Sau 50 năm, chắc nhận thấy dùng chữ như vậy
là ngu lâu, ngu bền vững, nên CS lẳng lặng lấy chữ căn cước ra xài, nhưng vẫn
còn ngoan cố, cố thòng thêm chữ công dân. Căn cước công dân? Thiệt là giành
khùng hết ráo!
Trong quá trình đó, một số người đặt ra khái
niệm ‘chữ CS’ – nhằm chỉ những từ ngữ mới được sản sinh là sản phẩm của chế độ
cộng sản, và cho rằng ngôn ngữ đang bị làm hỏng.
Tui cho rằng tiếng Việt là một sinh ngữ, ngôn
ngữ sống, phát triển tự nhiên và độc lập với chính trị. Việc ngôn ngữ thay đổi
là tất yếu. Tiếng Anh và tiếng Pháp được trăm triệu người trên thế giới sử dụng
hàng ngày cũng không đứng yên mà liên tục phát triển: từ vựng mới, cấu trúc mới,
thậm chí cách phát âm cũng thay đổi theo thời gian.
Ngôn ngữ thay đổi theo thời gian là chuyện tất
nhiên phải xảy ra. Nếu so sánh tiếng Việt đầu thế kỷ 20 với giữa thế kỷ, rồi với
hiện tại, chúng ta sẽ thấy rõ sự khác biệt trong từ vựng, cách dùng từ, và cả cấu
trúc câu.
Mần văn là đụng tới chữ nghĩa. Đụng riết rồi
quen. Quen mà thấy chữ gì thiên hạ xài không trúng (nghĩa là trật) theo ý mình
thì trong lòng bứt rứt lắm. Không chỉ ra thì ấm ức, mà chỉ ra thì mích lòng.
Nhưng đời văn mà sợ mích lòng thì kiếm chuyện khác mà mần đi, đừng có mần văn. Không
sửa lưng người khác hoặc bị người khác sửa lưng thì đâu có học được gì. Viết
lâu mà không tiến bộ chút nào, như con rùa chậm tiến bò vào cõi văn chương.
Chán lắm!
Phần ông bà mình nói đời hổng có ai cái gì
cũng biết. Tàu nói: “Nhân vô thập toàn”. Tây (là Tây Phương) nói: “No one is
perfect.” Chính vì vậy, biết tới đâu mình nói tới đó. Cứ nói, cứ cãi sùi bọt
mép. Cãi tới cái trúng, nó văng ra cái đụi mình lượm về xài. Người được lượm, dỉnh
mặt vênh râu, ra vẻ thế gian có ba bồ chữ về tao hết ráo. Trên thông thiên văn,
dưới tường địa lý. Còn chính giữa, tức cái bụng đựng mồi và rượu. Nhớ đừng hung
hăng mà lên cơn nhồi máu cơ tim bỏ mạng giữa sa trường cãi ‘nhe mấy cha!’
Trong thế giới văn chương, theo ý tui, nên cư
xử như cục đá góc cạnh khác nhau, hay hơn là cư xử tròn vo như hòn sỏi. Một
chuyện mà ông này nói ngược, bà kia nói xuôi đều đúng hết ráo thì chán lắm. Viết
như vậy là người thừa trong cõi văn chương. Cãi để học. Cãi trong văn chương là
cái cãi tao nhã của tao nhân mặc khách ở chỗ ‘tao đàn, mày đàn.’ Chớ không phải
của dân chơi Cầu Ba Cẳng, cãi phải giống như quánh lộn.
Kết luận CS không có khả năng làm ra chữ. Ông
bà mình mới làm ra chữ và chữ nó hay! Mình phải ráng xài cho nó trúng.
Đoàn Xuân Thu
Tại Sao Hay Quên ? Giảm Trí nhớ ? Mất Trí Nhớ
Hay quên, giảm trí nhớ, thường
xuyên nói sai… Những dấu hiệu này có thể không chỉ là sự lão hóa tự nhiên mà có
thể là triệu chứng cảnh báo của bệnh Alzheimer. Bệnh Alzheimer, một dạng bệnh
thoái hóa thần kinh, thường bắt đầu bằng sự suy giảm trí nhớ gần và các vấn đề
ngôn ngữ, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống. Việc nhận diện sớm
các dấu hiệu và can thiệp kịp thời có thể giúp làm chậm sự tiến triển của bệnh
và duy trì chất lượng sống cho người bệnh.
Bệnh Alzheimer là một căn bệnh
thoái hóa thần kinh, với những triệu chứng lâm sàng chủ yếu bao gồm rối loạn nhận
thức, thay đổi hành vi tâm lý và suy giảm chức năng xã hội. Bệnh bắt đầu một
cách âm thầm, và hiện tại chưa có phương pháp điều trị có thể chữa khỏi bệnh
hoàn toàn. Tuy nhiên, may mắn thay, Alzheimer có quá trình tiến triển, nếu phát
hiện sớm các dấu hiệu, thông qua sàng lọc và chẩn đoán sớm chúng ta có thể nắm
bắt cơ hội điều trị và can thiệp kịp thời. Điều này giúp làm chậm quá trình
phát triển của bệnh và duy trì chất lượng sống tốt cho bệnh nhân trong một thời
gian dài sau khi mắc bệnh. Nếu xuất hiện những dấu hiệu dưới đây, chúng ta cần
đặc biệt chú ý.
Giảm trí nhớ
Ví dụ như thường xuyên quên những
gì vừa nói hoặc vừa làm, không thể xử lý các công việc quen thuộc và các công
việc hằng ngày, không biết sử dụng thiết bị điện tử hoặc điện thoại, không tìm
thấy đồ vật, hay quên đồ đạc, v.v.
Trong lâm sàng, một số gia đình cho rằng việc giảm trí nhớ ở người cao tuổi là hiện tượng bình thường, hoặc cho rằng nếu người già vẫn có thể nhớ rõ những sự kiện đã xảy ra từ nhiều năm trước thì chứng tỏ trí nhớ của họ vẫn còn tốt. Tuy nhiên, thực tế bệnh Alzheimer giai đoạn đầu thường biểu hiện qua việc giảm trí nhớ ngắn hạn trong khi trí nhớ lâu dài vẫn còn.
Tuy nhiên, khi bệnh tiến triển, trí nhớ dài hạn cũng sẽ suy giảm,
và nếu không được can thiệp kịp thời, suy giảm nhận thức sẽ ảnh hưởng đến các vùng nhận thức như tính toán, định hướng
không gian, thực hiện các nhiệm vụ, hiểu biết và khả năng khái quát hóa. Điều
này sẽ làm tăng đáng kể khó khăn trong điều trị và chăm sóc bệnh nhân. Bệnh
nhân Alzheimer ở mức độ vừa và nặng có thể gặp tình trạng lạc đường, không tìm
thấy nhà, thậm chí là mất tích.
Giảm khả năng ngôn ngữ và diễn đạt
Ví dụ, khi giao tiếp với người
khác, họ có thể quên những gì mình muốn nói, không thể diễn đạt đúng ý của
mình, thường xuyên nói sai, và điều này thường không được họ nhận ra và rất khó
sửa chữa. Đây khác với việc người trẻ đôi khi nói sai do công việc bận rộn hoặc
không tập trung. Ngoài ra, bệnh nhân còn có thể gặp khó khăn trong việc hiểu
các thông tin từ báo chí, truyền hình, không hiểu những gì người khác nói, hoặc
có phản ứng chậm.
Thay đổi về cảm xúc và hành vi
Ví dụ, bệnh nhân có thể giảm hoạt
động, cảm thấy cô đơn, mất hứng thú với môi trường xung quanh, lạnh nhạt với
người thân, cảm xúc không ổn định, dễ cáu giận, thay đổi cảm xúc thất thường, dễ
bị kích động, có cảm giác buồn bã, sợ hãi không rõ lý do, hoài nghi hoặc hoang
tưởng (như nghi ngờ người khác ăn cắp đồ, nghi ngờ bạn đời có quan hệ ngoài luồng,
v.v.), rút lui khỏi các hoạt động xã hội và xuất hiện các hành vi bất thường
khác.
Nếu người cao tuổi có những triệu
chứng này, gia đình nên đưa họ đến cơ sở y tế uy tín để kiểm tra toàn diện,
phát hiện sớm, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời.
Chăm sóc bệnh nhân Alzheimer
Khi chăm sóc bệnh nhân mắc chứng
Alzheimer hay các vấn đề về trí nhớ khác, yêu cầu sự kiên nhẫn và kỹ năng đặc
biệt để cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Dưới đây là một số biện
pháp chăm sóc hiệu quả:
1.
Tạo môi trường an toàn và thân thiện
– Đảm bảo môi trường sống xung
quanh đơn giản và dễ dàng điều hướng. Ví dụ, đặt các vật dụng trong nhà ở những
vị trí cố định và dễ thấy.
– Sắp xếp không gian sống gọn
gàng, tránh những yếu tố có thể gây xao nhãng hoặc làm bệnh nhân cảm thấy mất
phương hướng.
2. Giúp người bệnh giữ thói quen tốt
– Khuyến khích bệnh nhân giữ
các thói quen hằng ngày như ăn uống đúng giờ, luyện tập thể dục nhẹ nhàng, và
duy trì hoạt động trí não.
– Cố gắng giữ một lịch trình cố
định giúp bệnh nhân cảm thấy an toàn và dễ dàng kiểm soát cuộc sống.
3. Sử dụng các công cụ nhắc nhở
– Dùng lịch, đồng hồ hoặc các
thiết bị điện tử thông minh để giúp bệnh nhân ghi nhớ các cuộc hẹn, công việc cần
làm hoặc thông tin quan trọng.
– Ghi chú lời nhắc về những điều
quan trọng (như uống thuốc, đi gặp bác sĩ) và đảm bảo rằng bệnh nhân có thể dễ
dàng thấy chúng.
4. Lắng nghe và giao tiếp đơn giản
– Dùng câu đơn giản và rõ ràng
khi trò chuyện để bệnh nhân dễ tiếp thu.
– Đừng thúc ép hoặc khiến bệnh
nhân cảm thấy bị quấy rầy khi họ quên hay không nhớ điều gì. Hãy kiên nhẫn lắng
nghe và nhắc lại nếu cần thiết.
5. Thực hiện hoạt động kích thích trí óc
– Khuyến khích bệnh nhân tham
gia vào các hoạt động trí óc như chơi trò chơi trí tuệ, đọc sách, hoặc thực hiện
các bài tập nhớ.
– Để tăng cường khả năng nhận
thức và giảm lo âu, có thể tổ chức các hoạt động xã hội nhẹ nhàng và an toàn.
6. Duy trì kết nối xã hội
– Khuyến khích bệnh nhân tham
gia vào các cuộc trò chuyện, sự kiện gia đình, hoặc các hoạt động cộng đồng
giúp họ không cảm thấy cô đơn.
– Giới thiệu và kết nối họ với
những người thân yêu để tạo cảm giác thân thuộc và cảm giác an toàn.
7. Theo dõi và hỗ trợ về sức khỏe
– Theo dõi những thay đổi trong
tâm lý và hành vi của bệnh nhân để có thể can thiệp sớm khi cần thiết.
8. Hỗ trợ cảm xúc
– Luôn động viên và hỗ trợ cảm
xúc bằng cách trò chuyện với bệnh nhân, giúp họ cảm thấy không bị cô lập hay bỏ
rơi.
– Giúp họ đối mặt với lo âu, trầm
cảm (nếu có) thông qua sự quan tâm, chia sẻ hoặc hỗ trợ về tâm lý khi cần thiết.
Việc chăm sóc bệnh nhân bị hay
quên hay gặp khó khăn trong giao tiếp đòi hỏi sự kiên nhẫn, đồng cảm và sự thay
đổi trong cách tiếp cận. Quan trọng nhất là tạo một môi trường đầy sự hỗ trợ và
cảm giác an toàn để bệnh nhân có thể duy trì chất lượng cuộc sống càng lâu càng
tốt.
Trúc Nhi t/h
Theo Soundofhope
Nóc Giáo Đường - Phan
…Tôi làm Nhà hàng đã lâu nên có thói quen ăn xong còn dư là đổ thẳng vô thùng rác vì làm Nhà hàng không nên tiếc rẻ bởi có thể rắc rối với luật pháp. Thí dụ nghe nồi cơm hôi ê là đổ nguyên nồi rồi đi nấu nồi mới, bởi tính ra nồi cơm không bao nhiêu tiền gạo, mình tiếc rẻ để ráng bán, nhỡ khách hàng ăn cơm thiu bị đau bụng là mình tiêu. Còn một lý do nữa là buôn bán cũng cần có chút lương tâm! Đó là câu nói của người em rể tôi. Vợ hắn (em gái tôi) mới sanh con ở bệnh viện về, hắn biết nấu nướng gì đâu, hai vợ chồng lại ở tuốt dưới Florida trong khi vài người thân có được thì lại ở hết trên Dallas này. Hắn ra Nhà hàng Việt Nam mua cơm trắng với cá kho tộ cho vợ ăn. Cơm thì thiu, cá thì mặn đắng. Cô em tôi nhắm mắt nuốt đại cho qua ngày, ai dè bị tiêu chảy mới khốn khổ cho người mới sanh. Nghĩ tới thôi đã nổi da gà, tội nghiệp hết sức. Tôi ráng nhớ câu nói của người em rể để nhắm mắt đổ, để khỏi người phụ nữ nào lâm cảnh - em gái tôi. Tôi đổ vô thùng rác cũng nhiều như chủ Nhà hàng đổ tôi ra đường, tôi bị đuổi hoài là do như thế đó!
Nước mắt nó lăn dài trên hai gò má ốm đói, nó gục vì đói mà nửa hộp cơm chiên với lon coke còn lại thì nhất định để giành cho em. Tôi phục thằng nhỏ này và thương cảm vô bờ. Tôi vô lại nhà bếp, múc cho nó tô súp trứng nấu với bắp hạt. "Bạn ăn đi, không phải nhường cho em bạn tô súp này". Nó ăn trong nước mắt đến tội nghiệp. Ăn tô súp chẳng thấm vào đâu nhưng nó tỉnh táo hẳn rậ. Nó đẹp trai và có bản lĩnh nam nhi lắm. Tôi thích thằng nhỏ này rồi thì phải! Tôi nói nó:
Tôi nhìn hai cái xe là biết liền: Vợ
chồng anh Mat còn ở đây. Anh Mat là người Mỹ trắng cao lớn, đẹp trai, chừng bốn
mươi tuổi. Cô vợ rất đẹp, tên Kath (tôi thấy ghi trên ticket mà họ order thức
ăn như vậy). Vợ chồng họ có hai đứa con nhỏ xinh xắn và rất ngoan. Đứa con gái
nhỏ của họ là người khách hàng duy nhất trên nước Mỹ có cám ơn tôi đã đưa thức
ăn đến cho nó. "Cảm ơn bạn đã đem thức ăn đến cho chúng tôi." Còn
lại, từ ông bác sĩ trưởng khoa trong bệnh viện đến anh Mễ cắt cỏ cũng chỉ cho người
(drive)-tôi, đồng bạc tip là hết! Nước Mỹ đệ nhất thiên hạ về khoa học kỹ thuật
nhưng về giáo dục nhân cách cũng không có gì đáng nể. Tôi tin là Đức Mẹ xui tôi
đi tìm anh Mat. Tôi quen biết vợ chồng anh đã lâu, chẳng biết họ giữ chức vụ gì
trong Nhà thờ mà có văn phòng riêng, lúc nào giấy tờ cũng ngồn ngộn trên bàn
làm việc, điện thoại reo liên tục thì thôi. Tôi chào hỏi và tường trình cặn kẽ
hoàn cảnh của hai đứa nhỏ đang tạm trú ngoài kho.
Sunday, June 29, 2025
Bản Tình Ca Của Người Tị Nạn - Nguyễn Văn Luận
(Lời giới thiệu: Tôi không dám tự
cho mình đã đọc nhiều sách và lại càng không dám phê bình một cây
bút nào...nhưng qua bài tự truyện này, tôi phải thảng thốt lên rằng
Ồ giọng văn gãy gọn, ngắn mà súc tích biết bao, ngắn gọn như là
tác giả tiết kiệm từng lời từng chữ...để không dẫn dắt độc giả
vào những chi tiết quanh co nhưng vẫn làm rung động trái tim tình
người... không như nhiều cây bút khác tôi đã từng đoc. Mời các bạn
theo dấu chân di vào đoãn buồn một đời lưu lạc...)
-----
Hai năm sau ngày đất nước chia đôi, từ
miền Bắc hoang tàn, tôi lặn lội tới vùng giới tuyến mong vượt thoát vào miền
Nam tự do.
Lần tới gần sông Bến Hải, đêm tối âm u bờ
Bắc, tôi đã nhìn thấy cầu Hiền Lương vì bờ Nam rực sáng ánh đèn. Trên cột cờ
cao vút, bóng cờ vàng sọc đỏ lung linh. Giọng ca ngọt ngào từ loa treo vọng về
miền Bắc:
"...sông Bến Hải là nơi chia cắt
đôi đường...
hỡi ai... lạc lối... mau quay... về đây
...!"
Tôi đứng đó chơi vơi định hướng, đăm đăm
nhìn cờ vàng bên kia bờ sông lịch sử, uống từng lời ca trong cơn đói khát, rồi
bừng tỉnh, lao lên phía trước. Từ đâu đó, mấy cái nón cối xông ra. Tôi bị trói
hai tay bằng sợi thừng oan nghiệt, theo nón cối về lại địa ngục trần gian.
Mười chín tuổi, lao tù đầy đọa, tôi đã mất
mẹ, mất cha, bị qui là tư sản, xa vắng họ hàng vì chia rẽ giai cấp. Tôi mất Hà
nội là nơi tôi sinh ra làm người Việt Nam. Không có tang cha khi cha gục xuống,
không có tang mẹ khi mẹ xuôi tay, không hy vọng có đám cưới đời mình.
Bạo quyền cộng sản Việt Nam bắn giết
hàng trăm ngàn người, bị qui là địa chủ. Nhiều trăm ngàn người bị tập trung lên
rừng, để lại vợ con không nhà không đất. Thời gian làm ngưng nước mắt, oán than
cũng vô ích, chỉ còn tiếng kêu vang vọng khắp miền: "Chúng tôi muốn sống!"
Hai mươi lăm năm sau (1981) tôi vượt biển,
thoát tới Hong Kong. Bốn mươi tư năm từ lúc chào đời, tôi thành người tị nạn cộng
sản.
Ngày tiếp kiến phái đoàn Mỹ xin đi định
cư, một ông Mỹ dáng nghiêm trang, nghe tôi trả lời, đột nhiên hỏi "Anh có
biết nói tiếng Pháp?". Tôi nhìn ông, giọng run run: "L'exilé partout
est seul!" (Kẻ lưu đày nơi đâu cũng cô độc).
Ông gật đầu hiểu cả tiếng Tây, hiểu lòng
tôi đau xót. Xưa tôi học trường Albert Sarraut, Hà Nội.
Đứng bên rào kẽm gai, sau dãy nhà tôn của
trại tị nạn Hong Kong, một mình, suy tư thân phận. Tôi sẽ đến nơi xứ lạ là nước
Mỹ xa xôi, tìm quê hương mới, chỉ trở về khi đất nước Việt Nam tự do, không còn
cộng sản.
Đứa bé chừng 5, 6 tuổi, tung trái banh,
toan bắt thì trượt chân trên sân trại. Tôi đã kịp giang tay đỡ cháu khỏi ngã
thì người đàn bà chạy tới, đứng im, lặng lẽ nhìn tôi.
Tiếng trẻ thơ kêu "Má", tôi
nhìn nàng... Sự thầm lặng và ánh mắt trao nhau là chân tình của người tị nạn Việt
Nam nhẫn nhục, khổ đau, nói được nhiều hơn lời nói. Rồi những ngày sau đó, tâm
sự, nỗi niềm, tôi đã cùng Mai kết thành bạn đường và bạn đời, đi Mỹ định cư.
Chồng Mai là người lính Cộng Hòa hiên
ngang dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ, quyết bảo vệ quê hương. Anh tử trận, mang thân
đền nợ nước, để lại con thơ. Mai trở thành góa phụ, miền quê Đà Nẵng, cuốc đất
trồng khoai, nuôi mẹ già con dại. Sau năm 1975, mất nước. Mẹ già khuất núi, con
chậm lớn vì cháo loãng, bo bo thay cho sữa mẹ và cơm.
Một đêm mưa bão, Mai bị tên Việt cộng
trưởng công an xã cưỡng hiếp, du kích xã canh gác quanh nhà. Mai phải sống vì
con mới lên ba, mất cha còn mẹ. Người dân Đà Nẵng ra đi, đã mang theo vợ con
người lính chiến tới Hong Kong năm 1981. Đứa con lên sáu không biết tiếng gọi
"Ba"!
Tôi mang nặng tủi nhục, đọa đày triền
miên từ đất Bắc đi tìm tự do. Mai gánh những thương đau, mất mát, cơ cực của miền
Nam, bồng con đi tị nạn. Lấy dĩ vãng chia xẻ cùng nhau, chúng tôi sắp xếp lại
hành trang cho bớt gánh đoạn trường, đi Mỹ.
Con đã có Má, có Ba. Má bồng con, Ba
xách túi. Con có đồ chơi, cầm chiếc máy bay vẫy chào các chú, hai người lính
chiến Quảng Nam đưa tiễn. Tôi nhìn con tự nhủ: "Ba sẽ dạy con tiếng
"Cha", chỉ cho con hình người lính Cộng Hòa, ở bất cứ nơi đâu đều là
Cha con đó!".
Mai đã nhất định không đi kinh tế mới.
Tôi đã trốn công trường, vào tù chịu đựng, bây giờ dù bỏ lại quê hương nhưng
còn Tổ quốc Việt Nam. Bốn ngàn năm lịch sử, thăng trầm, người dân nước Việt sẽ
không trở thành Cộng sản.
Quê hương mới của chúng tôi là vùng đông
bắc nước Mỹ. Căn apartment hai phòng, hai chiếc giường nệm, một chiếc bàn con,
đã cho tôi ấn tượng đẹp những ngày đầu tới Mỹ.
Lúc tôi khôn lớn, không có chiếc giường
làm nơi cư trú, vì đã thành vô sản. Rồi tôi hiểu, vô sản cũng vẫn còn giai cấp.
Phải lên rừng, một miếng nylon bọc vài manh vải gọi là quần áo, thì mới thành
"người vô sản chân chính"!
Nhìn con ngon giấc ngủ thần tiên, vợ chồng
tôi thao thức, không phải lo âu mà thì thầm những dự định tương lai. 18 tháng
welfare trợ cấp, đủ thời gian cho mình đi học tiếng Anh. Đọc dòng thư hội M&RS
nhắc trả nửa tiền nợ vé máy bay sang Mỹ "Xin bạn trả dần 12 tháng, giúp
cho người sau bạn định cư", theo ý Mai, ý nghĩ nhân hậu của người đàn bà
làm mẹ, "mình trả ngay từ tháng thứ hai".
Việc đơn giản là tại sao người ta không
khấu trừ vào trợ cấp, lại đòi riêng. Mai chỉ nhẹ nhàng "nợ thì mình trả, ở
hiền sẽ gặp lành", nhưng tôi lại suy nghĩ mung lung. Đây là bước đầu thử
thách, cái thước đo lòng người tị nạn. 72 đô tiền nợ một tháng, có thể không trả
và quên đi. Một lần để lòng vẩn đục sẽ trở thành bất lương. Cha mẹ bất lương
con cái sẽ chẳng nên người.
Một sáng mùa Xuân, "bé Nam" gọi
Má, gọi Ba, chỉ bông hoa mầu vàng mầu đỏ đung đưa bên vườn hàng xóm, kêu lên
"hoa tu-líp". Bà già người Mỹ đứng trên thềm, giơ tay vẫy vẫy. Mai đã
nói "Thank you", ngọt ngào, mạnh dạn, tay chỉ trỏ, diễn tả được những
gì muốn nói.
Bà Jenny hiểu chút ít về "chiến
tranh Việt Nam" qua tivi, sách báo hồi bà còn dạy học. Bà đã thấy
"Boat people", những thuyền nhân tị nạn, nhưng lần đầu bà thấy một
gia đình người Việt đến vùng này, lại là hàng xóm nên bà có cảm tình. Đây là ứng
nghiệm "Ở hiền gặp lành" hay là sự may mắn cho gia đình tôi? Nói thế
nào thì cũng đúng vì vài nơi trên đất Mỹ vẫn còn kỳ thị chủng tộc.
Thời gian trôi đi nhưng hai tiếng "lần
đầu" lặp lại: lần đầu ra nhà Bank, lần đầu tới Post Office. Có những lần đầu
chưa biết, nhưng có hai lần đầu quan trọng: "bé Nam" đi học, chúng
tôi xin được việc làm. Bà Jenny cùng chúng tôi đưa "cháu" tới trường,
bà cho chiếc mũ baseball và đôi giầy sneaker trắng muốt, khen "Cháu
cute." Vợ chồng nhìn nhau, không hiểu, lát nữa về tra tự điển.
"Từ nay chúng mình có Má, bé Nam có
Bà...!" Mai thốt lên khi chúng tôi đồng lòng nhận "Má Nuôi". Bà
Jenny thành "Má Jen". Chuyện xảy ra vào ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving),
17 năm về trước.
Sống một mình trong căn nhà rộng rãi, bà
Jenny vốn là cô giáo nên rất yêu trẻ. Bà mời "cả nhà" sang ăn Turkey.
Bé Nam lên bảy, đi học, hiểu nhiều về Thanksgiving hơn Má và Ba. Ăn uống vui vẻ, vợ chồng tôi nói chuyện với bà, có lúc ngồi im lặng hơi lâu vì vốn tiếng Anh ít ỏi. Bỗng bé Nam kêu "Má...!", bà Jenny toan đứng dậy thì Mai buột miệng nói: "Má... let me do it!".
Nghe tiếng "Má" lỡ lời của
Mai, tiếng Việt, vừa lạ, vừa thích, bà bâng khuâng giây lát.
Mai kể chuyện xưa, miền Đà Nẵng cuốc đất
trồng khoai, nuôi mẹ già con dại... Tôi góp phần thông dịch, bớt thêm: Người Việt
Nam coi việc chăm sóc cha mẹ già là bổn phận, dù chịu nhiều cơ cực cũng cố gắng
đền ơn sinh thành, dưỡng dục.
Bà suy nghĩ mấy ngày, bỏ dự định chuyển
về Florida, tỏ ý muốn nhận gia đình tôi làm Con, làm Cháu.
Chúng tôi dọn nhà sang ở chung với
"Má Jen", điều này ít thấy trong các gia đình người Mỹ có con trưởng
thành. Các con nhờ Má, nói được tiếng Anh. Cháu quấn quít bên Bà, xem chú chuột
Mickey. Mùa đông buốt giá nhưng trong nhà nồng ấm tình người. Má vui tươi hơn
trước, thích ăn bánh xèo và phở Việt Nam.
Mai vẫn cặm cụi hàng ngày, làm những chiếc
ví tay của phụ nữ. Mấy người bạn Việt Nam đặt cho Mai biệt danh "Bà đầm
hãng bóp" vì "giỏi việc, lại biết tiếng Anh," nhiệt tình giúp đỡ
bà con.
Cũng như Má Jen, Mai không thích sa hoa,
theo Má vào tiệm sách trong Mall nhiều hơn vào tiệm bán phấn son, make up. Việc
từ thiện đã thành sở thích, Mai gửi 200 đôla, mỗi lần, giúp đồng bào bão lụt miền
Trung, miền Bắc, vì lương tâm, đạo lý. Kẻ cầm quyền ăn chặn của dân, như đám cướp,
có bao giờ được mãn kiếp yên thân. Đức Phật từ bi dạy Mai lòng độ lượng.
Tôi làm technician, ngành điện tử. Nhớ
xưa, học sửa radio bị nghi làm gián điệp. Bộ công an Hà nội lấy công nông lãnh
đạo, coi "điện tử" là CIA. Mười bẩy năm trong ngành điện tử, nay chắc
tôi thành CIA ngoại hạng!
Bây giờ, ngồi trước máy computer, nối
vào mạng Net, đọc Website tiếng Anh, tiếng Việt, thông tin thế giới bằng email,
việc hãng, việc nhà, công tư hòa vào nhau từng ngày làm việc, tôi đã có cuộc sống
an hòa, hạnh phúc, một gia đình thật sự yêu thương.
"Ngày mai, chúng mình đi New York
thăm con".
Mai nắm tay tôi, hân hoan về ngày mai.
Ngày mai là tương lai của bé Nam ngày
trước, giờ là một thanh niên cao 6 feet, đầy nghị lực bước vào đời. Xong đại học,
Nam Nguyen trở thành chuyên viên tài chánh, làm việc trong văn phòng, tầng thứ
32 của một nhà "chọc trời" New York.
Ngày con ra trường là ngày vui trọn vẹn,
ngày con nhận việc mới là niềm sung sướng của Má, của Ba, của Gia Đình tị nạn,
mong ước từng ngày cho Con thành Người.
Lâu lắm rồi, tôi mới có một đêm không ngủ
để nhìn lại đời mình. Tháng chín, trời sang Thu se lạnh vùng đông bắc nước Mỹ.
Tôi đã sống nơi đây 18 năm tị nạn, không thất vọng mà tin tưởng vào tương lai.
Người cộng sản muốn làm hung thần cai quản
địa cầu, dựng lên Địa Ngục. Dựng được vài phần thì sụp đổ, sót lại từng mảnh vỡ
điêu tàn. Hung thần đã chết.
Thoát kiếp lưu đày làm người tự do, tôi
kính cẩn tri ân người phá ngục: người lính Cộng Hòa, giương cao lá cờ vàng ba sọc
đỏ, chính nghĩa Quốc Gia. Việt Nam, từ tinh thần đến lãnh thổ.
Người lính chiến Cộng Hòa hiên ngang đi
làm Lịch Sử. Không có Anh, tôi đã không có niềm tin để sống sót, đã thành nấm mộ
hoang trên rừng xơ xác. 21 năm kiên cường giữ vững miền Nam, Anh đối mặt hung
thần, cứu sống thêm hàng triệu người vô tội.
Người lính của miền Nam tự do tử trận.
Anh để lại người Vợ hiền, cuốc đất trồng khoai, chúng vẫn không tha, chà đạp
nhân phẩm. Tôi lê bước chân vô định, gặp Mai làm Bạn Đường, nhìn mắt con thơ thấy
hình người lính chiến.
Anh đã để lại Con Thơ cho tôi được làm
"Ba" mang tròn trách nhiệm. Con đã trưởng thành, mai này sẽ góp phần
xây dựng lại Quê Hương. Tôi muốn níu lại thời gian để được thương vợ, thương
con nhiều hơn nữa.
Đã quá nửa đêm về sáng. Nhìn Mai ngon giấc
ngủ thần tiên như "bé Nam" ngày đầu tới Mỹ, tôi ngồi im lặng bên bàn
viết, đợi chờ sớm mai để được nhìn bình minh bừng sáng Phương Đông, được nhìn
Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm nhìn chồng.
Cuộc sống an vui. Ngót 20 năm rồi, không
biết khóc, đêm nay tôi nhỏ từng dòng lệ, xúc động, bùi ngùi.
Tôi đang sống và đang viết Bài Tình Ca của
Một Người Tị Nạn.
(tudo
NGUYỄN VĂN LUẬN)
Khi Dối Trá Trở Thành... Bình Thường - Hoàng Nguyên Vũ
1. Tôi từng đứng trước
một gian hàng bán mật ong ở một khu chợ.
Một chị khách chỉ tay
vào chai mật màu vàng óng, hỏi:
– “Mật ong rừng thật
không em?”
Cô bán hàng mỉm cười,
mắt không chớp:
– “Thật mà chị. Em có
cha có mẹ đàng hoàng, đâu dám lừa ai!”
Tôi nếm thử. Mật nhạt
thếch, vị đường hóa học lộ rõ.
Nhưng điều khiến tôi
chát miệng – không phải vị mật, mà là cách người ta lấy danh dự cha mẹ mình ra
làm tem chống hàng giả.
Chúng ta đang sống giữa
một thời đại kỳ lạ,
nơi mỗi lời gian dối đều
kèm theo một lời thề… và một gương mặt ngoan hiền.
Nơi mà sự tử tế không
còn được chứng minh bằng hành vi, mà bằng những cái tên
không có mặt ở đó để lên tiếng.
Nhưng bạn biết không?
Sự thật không cần thề
thốt.
Nó chỉ cần một người
dám sống ngay thẳng, dù chẳng ai hỏi – vẫn không lừa.
Dù không ai nhìn – vẫn
không giả.
2. Chúng ta đang sống trong một xã hội mà hàng giả không chỉ nằm trên kệ siêu
thị nhà thuốc–
mà len lỏi vào từng
ngóc ngách của cuộc sống.
Giả trong niềm tin. Giả
trong đạo đức. Giả trong cả những lời rao giảng tử tế.
Người ta có thể rao giảng
từ bi – nhưng lại bán nhang tẩm hóa chất.
Có thể đeo chuỗi hạt, mặc
áo lam – nhưng đứng sau là cả một hệ thống lừa người nghèo, người bệnh.
Sự giả dối ngày nay
không còn lén lút.
Nó biết đóng vai thầy
cô, doanh nhân, nhà từ thiện.
Biết lên sóng truyền
hình, biết nói lời nhân nghĩa, và quan trọng nhất:
nó biết khóc.
Một giọt nước mắt giả –
nếu đủ khéo – có thể khiến cả cộng đồng thương xót, chia sẻ, tung hô…mà không
ai hay rằng mình đang tiếp tay cho một vở diễn.
3.
Tôi từng tham dự một buổi hội thảo ra mắt sản phẩm.
Người đại diện – trẻ
trung, chỉn chu, nói chuyện như rót mật vào tai – đứng trên sân khấu và nói:
“Chúng tôi làm sản phẩm
bằng sự tử tế. Mỗi hộp, mỗi chai – là một lời tri ân gửi đến cộng đồng.”
Khán phòng rưng rưng. Một
số nhà báo lau nước mắt. Truyền thông tung hô. Người ta gọi đó là “năng lượng
chữa lành.”
Nhưng rồi, vài tuần
sau, một bản kiểm nghiệm từ phía người tiêu dùng được lan truyền trong âm thầm.
Kết quả cho thấy: thành
phần sản phẩm chứa chất bị cấm trong tiêu chuẩn an toàn. Trái hoàn toàn với những
lời hứa trên nhãn mác và sân khấu.
Một vài trang nhỏ đăng
tin. Một vài tài khoản lên tiếng.
Rồi tất cả… biến mất.
Không một cuộc họp báo xin lỗi. Không một lời thừa nhận. Chỉ có… những phong bì
âm thầm và những cú điện thoại im lặng.
Còn người sáng lập kia
– vẫn tiếp tục talkshow. Vẫn tiếp tục truyền cảm hứng.
Vẫn tay đặt lên ngực –
nói về cái gọi là “sứ mệnh phụng sự xã hội.”
Tôi không trách. Chỉ tự
hỏi:
Khi sự dối trá có thể
thuê được micro, chi trả cho truyền thông, và diễn vai thánh thiện… thì liệu
còn ai đủ tỉnh táo để nhận ra đâu là chân thật?
Tôi không sợ sản phẩm độc.
Tôi sợ sự ngụy biện đã
trở thành một thứ đạo đức mới.
Và tiền – giờ đây không
chỉ mua được im lặng. Nó còn mua được cả… niềm tin.
4. Một
đứa trẻ từng viết trong bài kiểm tra Tập làm văn:
“Khi lớn lên, con muốn
trở thành người bán hàng tử tế.”
Cả lớp cười rần lên.
Cô giáo hơi sững lại, rồi
hỏi:
– “Vì sao con lại chọn
nghề ấy?”
Đứa bé đáp, không do dự:
– “Vì mẹ con từng mua một
hộp sữa non ‘xách tay từ Mỹ’.
Mở ra toàn bột kem trộn
hương liệu, hương vị khác hẳn mọi lần. Mẹ con gọi lại, người ta chỉ nói:
‘Chị cứ nghi ngờ, ai mà
lại làm giả hộp sữa làm gì chị?!?'
Đứa trẻ đó chưa học
xong cấp 2,
nhưng nó đã hiểu rằng:
có những câu quảng cáo ngọt hơn cả lời ru –
nhưng phía sau lại là một
sự thật rất chát.
5.
Trong đạo Phật có câu: “Một lời dối – là một nhát chém vào đức.”
Lừa một người – không
chỉ lấy của họ một món tiền. Mà còn lấy đi niềm tin, khả năng tin vào cái thiện,
cái thật. Và đó mới là tổn thất lớn nhất.
Một người bị lừa – có
thể mất vài triệu. Nhưng mất luôn niềm tin – là mất cả ánh sáng soi đường.
6.
Xã hội hôm nay tung hô cái khôn lỏi. Xảo quyệt được gọi là ‘giỏi xoay xở’.
Người thật thà bị gọi
là ‘ngây thơ’, là ‘không biết sống’.
Nhưng luật nhân quả –
không ai đánh bóng được.
Bạn lừa một người – có
thể bạn kiếm được một khoản. Nhưng có thể phải trả nghiệp bằng 10 năm bệnh tật,
chồng vợ bất hoà, nhà cửa u ám.
Có những món nợ – không
ai đòi, nhưng vũ trụ không bỏ sót.
7.
Tôi từng chứng kiến một người cha – từ tay trắng mà giàu lên nhờ lươn lẹo lừa lọc.
Nhưng con ông, dù được
học trường quốc tế, có xe đưa đón – đến năm 18 tuổi thì trầm cảm.
Vì một lần, cậu bé nghe
người ta gọi cha mình là “thằng lừa đảo bọc vàng.”
Tiền có thể nuôi con lớn.
Nhưng danh dự – mới giúp con đi thẳng người giữa đời.
8.
Có những người tưởng mình khôn. Nhưng không biết rằng – khi họ ngủ say trên đống
tiền lừa đảo – là khi con họ mất ngủ.
Vợ họ bất an. Họ thấy lạnh
trong căn biệt thự sang trọng.
Bởi không ngọn nến nào
sáng mãi – nếu nó được thắp lên từ dầu gian dối.
Không bàn thờ nào linh
– nếu bên dưới là tiền bạc nhúng chàm.
9. Vậy
nên, nếu bạn vẫn còn giữ được chút niềm tin – xin đừng gập nó lại.
Hãy bán đúng giá, lời
lãi trong 1 khoảng. Làm đúng tâm. Giữ một ngọn đèn lương tri – dù nhỏ, nhưng
cháy thật.
Dù người ta gọi bạn là
‘khờ’, là ‘không biết thời’ – thì bạn vẫn đang để lại cho con cháu một thứ quý
hơn cả tiền: lòng trong sạch.
Vì một đất nước có thể
thiếu giàu. Nhưng nếu thiếu người sống thật – thì chẳng còn gì để tin.
Khi bóng tối lên ngôi,
xin làm ngọn đèn cuối cùng.
Nhỏ thôi –nhưng không dối.
Le lói thôi-nhưng không
tắt.
Và bạn biết không?
Người tử tế – không cần
giấu mặt.
Chỉ có kẻ giả tạo – mới
sợ ánh sáng.
Hoàng Nguyên Vũ