Nghe tiếng phone reng,
Hoàng bực mình cho là phone quảng cáo nhưng vẫn dở phone lên gắt gỏng:
– Alo! cái gì mà gọi hoài vậy?
– Dạ cho chúng tôi gặp ông Lợi, chúng tôi gọi 2 ngày nay không ai
bắt phone.
– Ông Lợi không có nhà.
– Chúng tôi rất cần gặp ông Lợi.
– Ông Lợi đi làm 2 giờ chiều mới về, có gì nói với tôi được
không, tôi là người nhà ông Lợi.
– Xin bà làm ơn nói với ông Lợi đến nhà dưỡng lão CampBell đưa
ông cụ về nhà vì dịch corona nhà dưỡng lão được lệnh phải giải tán.
Hoàng hoảng hốt nghĩ cái
họa sắp tấp vào nhà, liền xuống giọng năn nỉ:
– Thưa bà, xin bà có cách gì tạm để ông già trên đó
không, tốn mấy chúng tôi xin chịu, nhờ bà làm ơn giúp cho chúng tôi, chúng tôi
sẽ hậu tạ riêng bà.
– Không được cô, tôi là nhân viên đâu có quyền hành gì, 19 người
già trong viện xét nghiệm có 4 người dương tính, bị nhiễm virus, hiện cho nằm bịnh
viện, số còn lại kết quả âm nên cấp tốc trả về nhà cách ly 14 ngày. Đó là lệnh
của ban phòng chống dịch. Hiện người ta về nhà hết, trừ ông cụ, bởi vậy cô phải
báo cho ông Lợi biết, cấp tốc đến đưa ông cụ về. Thôi, cảm ơn cô.
Bỏ phone xuống Hoàng
sững sờ. Làm sao bây giờ? Lợi có một bà chị và một đứa em. Gọi phone bà chị,
nhờ bà chị nhận ông già về tạm mấy ngày dịch hoành hành rồi sẽ tính sau:
– Chị nên đưa cha về một thời gian ngắn rồi sẽ tính, chị lo cho
cha, bọn em chịu tất cả phí tổn cho chị.
– Không được, nhà tui có một phòng, lớn nhỏ 5 người ở, đưa cha về
ở chỗ nào. Nhưng mà cậu mợ nghĩ sao, 3 năm nay ổng đã ở yên rồi, thì để ổng ở
tiếp cho hết đời, đem về làm gì!
– Bây giờ người ta không cho ở nữa, tất cả viện dưỡng lão đều bị
đóng cửa. Thôi để em thuyết phục chú út thử.
Chú út viện lý do hai vợ chồng chú cả ngày đi làm, vì làm y tá ở bịnh
viện nên dù mọi người đều phải ở nhà, hãng xưởng đều đóng cửa, nhưng hai vợ chồng
chú không được ở nhà, thì làm sao có thì giờ chăm sóc ông già. Trước lý do đó
chị không thể năn nỉ câu thứ hai. Không còn cách gì nữa, năn nỉ ai cũng không
được, chị liền nghĩ đến cách cuối cùng là im lặng xem như không được tin tức gì
hết, và có thể cảnh sát xem như ông già không có thân nhân, và họ sẽ giải quyết
theo hướng đó, hướng không có thân nhân. Chị mỉm cười khen mình người sáng ý,
thông minh. Chị biết rất rõ anh bạn của chồng chị, cách nay 3 năm, có bà mẹ già
ở Pháp sang thăm, bà bị bịnh, anh gấp rút đưa vào bịnh viện, độ vài tuần sau bà
cụ qua đời. Bịnh viện liên lạc thân nhân mới hay, là số phone giả, địa chỉ giả.
Chiều hôm đó Lợi về hơi sớm. Đường vắng quá, một vài người lớn tuổi
đi bộ có vẻ ké né trên lề đường, đeo khẩu trang, ra dáng thận trọng nghiêm nghị
khác những ngày thường. Quang cảnh khác hẳn, hơi rờn rợn, hình như ma quái núp
trong cỏ cây, nơi nào đâu xa lạ hoang vu, chứ không phải nơi anh thường đi ngày
hai bận, đi cắt cỏ cho một trường học gần nhà.
Anh vừa bước vào nhà,
nghe phone reng, trong phòng bên cạnh chị chạy ra nhưng không kịp.
– Alo ! dạ..dạ.. dạ vâng…dạ..dạ tôi đến ngay.
Vừa đặt phone
xuống, anh nói ngay:
– Bọn nó đuổi ông già về, bây giờ anh phải đi đón về.
Chị cố bình tỉnh,
tuy giọng hơi run run:
– Thì anh ăn cơm rồi sẽ tính sau.
– Tính cái con mẹ gì, nó bảo trước đây 2 ngày, họ về hết rồi, nếu
chiều nay không ai đón về, nó báo cho cảnh sát biết và xem như xong nhiệm vụ.
– Hay là anh để cho cảnh sát nó giải quyết xem sao.
– Làm thế cha anh sẽ chết lạnh dọc đường cái trong đêm nay.
Bực mình anh vẫn giữ nguyên bộ quần áo cắt cỏ ra xe. Anh nghĩ cũng tại anh, năm đó ông già không chịu đi, lấy lý do già rồi đi làm gì, tiếng Anh không nói được không biết lái xe, hơn nữa, mẹ anh mới mất chưa giáp năm, bỏ đi thấy tội nghiệp quá. Nhưng anh bảo cha anh nên đi, tuổi già ở Mỹ có đũ thuốc men, có bác sĩ giỏi, có binh viện tốt, nhất là tránh được cái nạn dùng thuốc giả, thuốc độc của Trung quốc. Bà chị cả của anh, người em trai út và nhất là vợ anh, liên tục lén anh, viết thơ về khuyên ông già nên ở lại Việt nam lo mồ mã cho mẹ mới mất, rồi sẽ gửi tiền, gửi thuốc Tây về cho ông. Bởi vậy ông quyết định xóa bỏ hồ sơ H.O. Khi được tin xóa bỏ hồ sơ, anh phải cấp tốc về quê khuyên bảo ép buộc ông làm lại hồ sơ. Thế mà phải chờ đến trên 10 năm, hồ sơ mới được tái xét, mới được ra đi.
Freeway 17 vắng quá, anh
chạy hơi quá tốc độ nên chưa đến 1 giờ đã ra exit Campbell. Theo con đường nhỏ
đi sâu vào rừng rậm, tuy chưa đến 4 giờ chiều nhưng như sắp tối, vắng một cách
kinh hoàng. Anh nghĩ làm nhà dưỡng lão ở nơi này có khác gì một nhà tù nhốt mấy
ông già gần đất xa trời. Đậu xe phía trước, anh chạy vòng vào sân sau, không có
một bóng người nào, phía trong hành lang xa, một ông già nhỏ thó ngồi bất động
trên cái ghế dài bên cái xách vải. “Trời ơi! cha tôi đây Trời!” Anh nhào tới ôm
cha anh, ông già mỉm cười, nước mắt dầm dề:
– Thấy con cha mừng quá.
2 hôm nay cha ở đây một mình. Nếu tối nay con không đến, cha mò lần ra đường
cái. Trời còn thương cha.
– Cha ngồi đây lâu chưa?
– Hồi sáng giờ. Bà y tá bảo cha dọn đồ ra ngồi chờ người nhà lên,
họ đóng cửa.
Lợi xách túi vải nói:
– Con cõng cha ra xe, đường đi nhiều rễ cây dễ bị vấp ngã.
Ông giả lẩm nhẩm:
– Cha ở đây đúng 3 năm 4 tháng 18 ngày.
Lợi mừng thầm, ông già
mình tuy ốm yếu nhưng trí óc còn khá sáng suốt mới nhớ được số ngày tháng năm ở
khu rừng này.
– Bọn con đều khoẻ mạnh hết?
– Dạ, vì bịnh dịch đang lan tràn nên ai ở nhà nấy không dám ra
đường, nên mình con đi đón cha.
– Hai đứa cháu nội của cha lớn lắm hả, có đứa nào có vợ chưa?
– Chưa cha, bọn nó còn nhỏ, còn đi học mà.
Lợi lái xe chạy chậm vì đoạn đường xấu, sợ xe xóc làm mệt cha già. Nghe tiếng thở đều đều, ông già ngoẽo đầu qua một bên thiu thiu ngủ. Lợi định tạm để cha già ở cách ly tại garage xe, và anh định nghỉ cắt cỏ ít nhất 2 tuần để chăm sóc cha. Anh nguyện lần này chính anh, chính bàn tay anh, sẽ làm mọi thứ, từ nấu ăn, giặt giũ đến tắm rửa, đổ bô, lau cầu, không để ai nhúng vào, nhất là vợ anh. Nhắc đến vợ, anh lo lắng rồi đây anh phải cố gắng chịu đựng, cố gắng nhịn nhục tối đa, để tránh những cuộc đổ vỡ cãi vã to tiếng. Nhất là không để cho ông già nghe được những lời cãi vã. Anh chắc chắn phải làm được vì ông già sống ở garage biệt lập.
Bữa cơm tối hôm đó tuy
rất đói nhưng anh ăn không ngon vì hình ảnh cha anh khi chiều làm anh rất xúc
động, anh cảm thấy tội lỗi, một ông già gầy ốm một mình ngồi cheo leo ở bìa
rừng vắng vẻ tiêu điều, vào một buổi chiều sắp tắt. Tại sao một ông già phải bị
đày đọa như thế. Mâm ăn có 4 người, 2 con anh ngồi một bên, vợ anh với anh một
bên. 2 đứa nhỏ và vợ anh mỗi người chăm chú vào chiếc Iphone, không để ý
gì đến việc ăn uống. Bỗng chị hỏi:
– Cha ăn uống gì chưa?
– Cha mệt đang ngủ ngoài garage, anh đang nấu cháo cho cha.
– Chắc anh gặp cha đang lang thang ngoài đường cái chứ gì?
Anh giả vờ không hiểu
câu nói móc của chị, vì khi ra xe đi đón ông già, anh bảo nếu không lên đêm
nay, ông già có thể chết lạnh trên đường cái. Anh bình thản trả lời:
– Không, ông già ngồi cheo leo một mình ở hè nhà dưỡng lão.
2 đứa nhỏ thôi ăn đứng dậy, mỗi đứa rót một ly nước, lên lầu. Chị
cũng thôi ăn, đứng dậy, anh liền bảo:
– Em ngồi lại anh có vài điều muốn bàn với em.
Chị ngồi xuống nhìn
thẳng vào anh.
– Anh đem cha về đây
ở tạm một thời gian, có thể nửa năm, một năm để ổng ổn định sức khoẻ, anh sẽ
dẫn ổng về lại Việt Nam ở với bà cô ruột anh cũng đang sống một mình với đứa
cháu trong họ. Anh sẽ làm hết mọi việc từ đi chợ, nấu ăn, rửa chén, dọn dẹp
trong nhà, lau chùi cầu tiêu nhà cửa, v..v... anh chỉ tha thiết xin em một
điều... một điều... là cố gắng vui vẻ với ông già trong lúc ổng còn ở nhà này
với chúng ta. Nghĩa là em sẽ không làm gì hết, cố nhiên việc chăm sóc ông già
là việc của anh, nếu em... thấy không thể được thì cũng nên cho anh biết.
Không khí nặng nề im
lặng. Chị đứng dậy, chậm chậm đi lên lầu. Khi chị đi rồi anh bực mình tại
sao lại đặt vấn đề với chị một cách thẳng thừng thô bạo như vậy, vô tình đẩy
chị vào thế chống đối, anh cảm thấy mình kém cõi quá, làm vấn đề đáng lẽ đơn
giản, hóa ra khó khăn phức tạp hơn.
Nhà anh có 4 phòng, trên lầu 3 phòng ngủ, 2 phòng tắm. 2 con 2
phòng, anh chị 1 phòng. Tầng trệt 1 phòng ngủ 1 phòng tắm. Khi ông già chưa đến
nhà dưỡng lão, ở phòng dưới này. Để ông già nằm một mình ở garage anh không yên
tâm, đêm hôm có việc gì ông già kêu không ai nghe, anh đặt 1 giường nhỏ anh nằm
cạnh ông già.
Lấy lý do vì dịch
corona, cách ly xã hội, nên anh yên tâm để ông già ở Garage cho đến khi hết
dịch. Cũng vì lý do đó anh giải thích với ông, vợ anh và 2 con anh chưa dám ra
garage. Thật sự ông già hiểu hết sự việc nhất là suốt hơn 3 năm nay, 30 người
bị “lưu đày” (chữ của các cụ ở nhà dưỡng lão Campbell) ở chung với nhau.
Hầu như họ chung một tâm trạng bị con tống họ ra khỏi nhà, vì tốn kém thì ít,
vì người nào cũng có tiền già, tiền chánh phủ cấp cho tạm đủ sống, có lẽ vì
người càng già càng làm cuộc sống của chúng mất tươi trẻ, mất hạnh phúc, và
cũng chính người già bị gán cho là cái ổ vi trùng, ổ bịnh tật. Người già đồng
nghĩa với dơ dáy..v..v..Tất cả họ, những người Việt nam ở trại Campbell, đều là
cựu sĩ quan miền Nam Việt Nam sau ngày mất nước tháng Tư năm 75 (1975), trung
bình mỗi người chịu gần 10 năm tù cộng sản. Vì cùng chung một tâm trạng, một
ngôn ngữ, họ thông cảm với nhau, họ không quá chán nản, quá cô đơn như ở các
nhà dưỡng lão khác nói tiếng Anh là chính, nên người nào không nói được, chịu
rất nhièu thiệt thòi, có khi bị đánh đập vì bị xem như bất tuân các mệnh lệnh
của y tá y công. Vì chia xẽ, vì thông cảm, vì cùng cảnh ngộ, họ tránh
được những cãi vã, những xô xát với nhau, nhưng họ mỗi ngày mỗi chuốc thêm
những oái oăm, những nỗi buồn vì bất hạnh với gia đình, với con cháu. Mỗi ngày
họ phết thêm vào bức tranh tập thể đó, một nét buồn thảm ảm đạm. Thế cho
nên họ thiếu hẳn niềm vui, người nào cũng mang một bộ mặt âu sầu buồn thảm.
Thậm chí có người than rằng ở tù tuy mất tự do, tuy nhục nhã, nhưng ít nhất 1
tháng, hoặc 6 tháng, có gia đình đến thăm nuôi và gia đình còn thương xót, còn
tôn trọng, còn kính nể người đang ở tù, và còn hy vọng người tù còn có ngày về
để cùng xây dựng lại cuộc sống, tạo lại hạnh phúc. Trái lại vào trại dưỡng lão
không mất tự do, nhưng gần như không cần tự do nữa, như bước vào giai đoạn cuối
cuộc đời. Họ thật sự bị bỏ quên. Có người suốt năm không có người đến thăm.
Theo ông khi vào trại, tổng số là 30 người, và gần 4 năm sau chỉ còn 19 người.
11 người lìa trần vì buồn bã quá, vì chán nản đến cùng cực, vì tủi thân, vì bị
bỏ quên, chứ không phải vì những bịnh nan y. Có những người không chịu uống
thuốc, có người phản đối đi bịnh viện.
Từ ngày đưa cha về nhà,
anh thay thế vợ làm mọi việc trong nhà, anh mới biết rằng tuy công việc nhẹ
nhưng bực mình quá. Quần quật từ sáng đến tối không hết việc. Anh dọn cho cha
anh và chính anh ăn ngoài garage, sợ cha buồn, anh giải thích vì trong thời kỳ
cách ly nên phải như thế. Vợ con anh ăn trong nhà. Tuy ông hiểu điều giải thích
của anh là đúng trong thời kỳ cách ly này, nhưng ông vẫn buồn tủi thân. Ông mỉm
cười tự thấy mình càng già càng khó tính, càng cô đơn càng khó tính. Ông nghĩ
đáng lẽ ở tuổi mình, tuổi gần 80 phải dễ dãi, phải cởi mở, sao cũng xong cũng
tốt. Ông nhớ lại cái đề tài này, trong nhà dưỡng lão, thường đem ra bàn luận
với nhau trong nhóm anh em, và lúc nào ông cũng ở phe chỉ trích những người khó
tính, và quả quyết vì tính xấu đó mà con cháu nó không muốn sống gần với mấy
người già, dù đó là ông bà nội ngoại. Mấy người bạn của ông không đồng ý
và cho rằng vì hai nền văn hóa Đông phương Tây phương đối lập nhau, nên mới có
những bi kịch như vậy. Rồi họ dẫn chứng ở Việt Nam chẳng hạn,(trừ cộng sản) đứa
bé lên 3 đã được cha mẹ dạy dỗ lễ độ chào hỏi, trong khi ở Mỹ trẻ con lên đại
học chưa có thói quen chào hỏi. Vấn đề này với ông, chưa ngã ngũ, chưa tìm ra
câu giải đáp thỏa mãn.
Từ ngày ra khỏi nhà
dưỡng lão Campbell, ông sống một mình ở garage, ông hay nghĩ đến người vợ quá
cố của ông. Nếu bà còn sống thì có lẽ đời ông không như thế này, không có
chuyện ở nhà “lưu đày Campbell”. Càng nhớ đến bà, ông càng thấy ở bà có phẩm
cách cao quí, một người vợ tuyệt vời, một người đàn bà suốt đời chỉ biết hy
sinh cho chồng cho con, một người kính trọng cha mẹ ông hơn cả ông kính trọng.
Có hôm trong giấc chiêm bao ông thấy bà ngồi cạnh giường ông, ông mừng quá ngồi
dậy thì bà lặng lẽ đứng dậy ra đi im lặng không nói một lời. Rồi những đêm tiếp
theo, ông mong được gặp bà nhưng không thấy. Ông tính sẽ nói với anh lập bàn
thờ thờ mẹ để đêm đêm có chỗ ông thắp cây nhang, tội nghiệp. Nhưng ý nghĩ này
bị dập tắt ngay, vì ông, và bạn bè ông đều biết, có bao giờ bọn chúng chấp nhận
bàn thờ.
Anh vui vẻ hỏi cha:
– Hôm nay con đi chợ, cha muốn mua thứ gì, muốn ăn uống gì,
con mua cho cha.
– Không, không, khỏi mua gì con, cha ăn gì cũng được, nhà có gì
ăn nấy.
Anh vừa ra xe, thì chị
và hai đứa nhỏ đến cửa trong nhà xuống garage, chị nói lớn trong nước mắt:
– Hai cháu và con chào cha. Nhờ cha nói với ổng có cái thư để
trong tủ lạnh. Ổng không cần vợ, không cần con, nên bọn con ra đi.
Nói xong chị và 2 đứa
nhỏ lui vào nhà. Ông bối rối không kịp nói gì. Mệt quá ông nằm đừ lên
giường cảm thấy khó thở. Ông mê man vào giấc ngủ hồi nào không biết. Anh đặt
mâm cơm lên bàn mới hay cha anh đang ngủ. Anh ngạc nhiên sao giờ này cha anh
còn ngủ:
– Cha, cha, dậy ăn
cơm rồi hãy ngủ cha.
Ông già ngồi dậy
bần thần không biết ở đâu. Anh nói lớn:
– Hình như cha bị cảm phải không?
– Không, hơi mệt thôi, không sao đâu!
Ông ngồi dậy cố nuốt miếng cơm, nước mắt dầm dề:
– Vợ con với hai đứa nhỏ bỏ nhà đi rồi.
– Cha nói cái gì vậy cha?
Ông lặp lại:
– Vợ con bỏ nhà đi rồi. Nó có ra chào cha và dặn cho con biết
có thư trong tủ lạnh.
Anh vội vàng chạy
vào nhà. Thư viết: “Ông xem mẹ con tui không ra gì nên chúng tôi phải ra đi”.
Viết vội vã chữ nguệch ngoạc, chỉ một câu thôi, không ký tên không đề ngày. Tức
quá anh xé nát tờ thư, ngồi thừ xuống ghế nước mắt tuôn chảy, anh khóc. Anh
ngồi như thế đến 1 giờ sáng, giật mình nghĩ đến ông già, anh vội bước ra
garage, cố điềm tỉnh giấu cha anh. Cha anh nằm im lặng hình như chưa ngủ, vì
ông già cựa mình và thỉnh thoảng ho. Anh nghĩ phải cố gắng bình thản trước cha
anh. Mong hết cơn dịch anh sẽ đưa cha anh về Việt nam rồi anh sẽ đi tìm vợ con
anh. Nhất định không để đổ vỡ gia đình. Anh nghĩ, lỗi do mình, mình bất
tài quá nên mới ra nông nỗi này.
Ngày cao điểm của trận dịch corona...
Nguyễn Liệu
No comments:
Post a Comment