Ngày 24.2.2025 tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc,
Hoa Kỳ đã quay lưng trước đồng minh NATO cùng hầu hết các quốc gia thuộc thế giới
tự do, chính thức đứng về phía Nga, Iran, Bắc Hàn, và những nước thân Cộng sản,
bỏ phiếu chống lại nghị quyêt lên án Nga gây chiến tranh xâm lược Ukraine, nhân
dịp thế giới kỷ niệm 3 năm ngày Vladimir Putin xua quân vào lãnh thổ Ukraine.
Sau đó, cả thế giới lại bàng hoàng, khi vị Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ đã tỏ
ra thân thiện với kẻ thù Nga, ca ngợi, bênh vực tên đồ tể Putin trong khi hết lời
mạt sát, nhục mạ Tổng thống Zelensky, người đồng cấp, từng là đồng minh thân
tín của Hoa Kỳ. Đã vậy, Tổng thống Mỹ còn đòi phải được khai thác khoảng sản, đất
quý, tài sản quốc gia của Ukraine để trừ vào số tiền viện trợ trước đây. Có lẽ
đây là nguyên nhân tiềm ẩn đưa đến cuộc tranh luận gay gắt, trở thành trận cải vã
nặng nề ngay tại Tòa Bạch Ốc, giữa Tổng thống Zelensky của Ukraine và Tổng thống
D. Trump cùng Phó Tổng thống J.D Vance của Hoa Kỳ vào ngày 28.2.2025, trước
sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông hiện diện cùng cả thế giới qua màn ảnh
truyền hình. Sau khi “mời” Tổng thống Zelensky cùng phái đoàn tùy tùng ra khỏi
Phòng Bầu Dục, Tổng thống Trump cũng đã quyết định ngưng tức khắc mọi viện trợ
quân sự cũng như cung cấp tin tức tình báo, nhằm áp lực Ukraine phải nhanh
chóng ngồi vào bàn hội nghị theo sự sắp xếp của Hoa Kỳ. Đến hôm nay, kết quả hội
đàm tuy chưa chính thức ngã ngũ, nhưng ai cũng đã nhìn thấy trước số phận của
Ukraine!
* * *
Sự kiện này xảy ra đúng vào thời điểm người
Việt chuẩn bị tưởng niệm 50 năm, ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Chính xác
hơn là ngày miền Nam Việt Nam hay nước VNCH bị Cộng sản Bắc Việt cưỡng
chiếm, cũng với sự phản bội tương tự của đồng minh Hoa Kỳ, khi Mỹ và Bắc Việt
đã cùng bắt tay thỏa thuận ký kết hiệp định mạo danh Hòa Bình vào ngày
27.1.1973 tại Paris, quyết định số phận của VNCH, quốc gia chính trong cuộc chiến
nhưng bị áp lực để (gần như) phải đứng bên lề. Trong các cuộc hội đàm, phái
đoàn VNCH bị xếp ngồi ngang hàng với (cái gọi là) Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng
miền Nam, trong khi ai cũng biết đó chỉ là đám tay sai, con rối do Cộng sản
Bắc Việt nặn ra.
Vẫn biết rằng, quyết định của nước lớn đối với
đồng minh luôn tùy thuộc vào quyền lợi của chính đất nước họ, tuy nhiên điều
đau lòng là cung cách hành xử khi quay lưng, phản bội lại những người từng một
thời nhận là bạn, cùng sống chết bên nhau. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, ngày
29.4.1975, tại Đài Loan, ngay sau đêm đầu tiên bị áp lực phải rời khỏi nước,
khi trả lời cho một đại diện của chính phủ Mỹ, cũng đã lên tiếng trong ngậm
ngùi, cay đắng “Làm kẻ thù của Mỹ thì rất dễ, nhưng làm bạn rất khó”
Ukraine và VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi
khi cuộc chiến đấu của hai quốc gia này có cùng một đích: tự vệ, chống lại quân
xâm lược. Chỉ khác là trong cùng tình huống này, Ukraine có nhiều may mắn hơn
VNCH. Bởi cuộc chiến Việt Nam kéo dài quá lâu, có hơn 58.000 quân nhân Mỹ tử trận,
một số khác bị bắt làm tù binh, đẩy phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ ngày một
dâng cao, đỉnh điểm vào tháng 5/ 1970, đã có đến 4 triệu sinh viên thanh niên
liên tục xuống đường, gây bạo động, một số đã bị cảnh sát bắn chết. Thời điểm
này đại đa số dân chúng Mỹ, qua lưỡng viện Quốc hội, không còn ủng hộ cuộc chiến
Việt Nam. Cũng phải thẳng thắn để thừa nhận, trên thực tế quân dân VNCH đã
không chiến đấu hết lòng và dũng cảm bằng Ukraine, và các cấp lãnh đạo, đặc biệt
vị tổng thống của họ rất xứng đáng. Ngoài ra, Ukraine vẫn còn được đa số dân
chúng Mỹ ủng hộ, quan trọng hơn, được Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)
và gần như toàn bộ Âu Châu luôn hết lòng, sát cánh. Trong khi ở vào thời điểm (trước
và sau) Hiệp định Paris ký kết, VNCH gần như cô thân độc mã. Cùng lúc bị Mỹ bỏ
rơi, các đồng minh khác như Úc, Nam Hàn, Thái Lan, kể cả Phi Luật Tân cũng đều
theo Mỹ, quay lưng!
* * *
Vào thời gian này, đơn vị chúng tôi đang hành
quân tảo thanh tại khu vực Kontum – Tây Nguyên, sau khi vừa liên tục tạo các
chiến thắng lẫy lừng, đánh tan các lực lượng hùng hậu thuộc Mặt Trận B-3 của tướng
Cộng sản Hoàng Minh Thảo. Với khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam”, Cộng sản Bắc Việt chuyên
áp dụng chiến thuật biển người, đẩy đám bộ đội, đa phần là thanh niên, sinh
viên miền Bắc bị cưỡng bách nhập ngũ, như những con thiêu thân lao theo sau các
trận địa pháo, để bằng mọi giá phải chiếm được căn cứ Charlie của Tiểu Đoàn 11
Nhảy Dù, mở cánh cửa ngõ xua chiến xa T-54 với hỏa tiễn tầm nhiệt của
Liên Xô, tràn ngập BTL Tiền Phương SĐ22BB tại Tân Cảnh, chiếm cứ một vùng Bắc
Kontum. Sau đó, một lực lượng Cộng quân hùng hậu hơn, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn
2 (sau này tăng cường thêm Sư Đoàn 968 từ Lào sang), cùng 4 trung đoàn biệt lập
66, 95, 20, 24, Trung đoànĐặc công 400, 2 trung đoàn Pháo, 6 tiểu đoàn
Phòng không và 1 tiểu đoàn Tăng T-54… tràn xuống phía Nam nhằm thôn tính thành
phố Kontum, trong ý đồ tiến chiếm Pleiku, nơi có bản doanh của BTL/QĐII/VNCH hầu
dùng làm bàn đạp tràn xuống đồng bằng, duyên hải, nhưng đã bị thảm bại trước một
lực lượng VNCH, với chỉ duy nhất mỗi Sư Đoàn 23 BB cùng 3 tiểu đoàn Pháo Binh
và 1 chi đoàn chiến xa M-41 cơ hữu, đặc biệt được Không quân (giai đoạn đầu có
B-52 của Hoa Kỳ) yểm trợ. Điều này đủ để chúng tỏ khả năng chiến đấu của Quân Lực
VNCH.
Ngay trong trận chiến đầu tiên tại tuyến Tây
Bắc Kontum, vào sáng ngày 14.5.1972. cả hai Trung đoàn 28 và 64 của Sư Đoàn
(Thép) 320 Cộng sản cùng 1 tiểu đoàn xe tăng bị tiêu diệt, làm cho cả sư đoàn
có tiếng, kỳ cựu này bị kiệt quệ, không còn khả năng chiến đấu. Sau đó chỉ đúng
10 ngày, sáng sớm ngày 24.5.72. trong trận tấn công cùng lúc vào Tòa Giám Mục,
Bệnh Viện 2 Dã Chiến và vòng đai phi trường Kontum, cả Trung đoàn 52 thuộc Sư
Đoàn 2 (Quảng Đà) mới tăng cường từ vùng Quảng Nam vào, bị đánh tan, đã phải giải
thể. Một số lớn cán binh của Trung đoàn 141 thuộc sư đoàn này bị bắt và ra hồi
chánh. (Những thất bại này Cộng sản Bắc Việt đã phải công nhận qua chính các
hồi ký, quân sử của họ)
Chiến thắng Kontum vào Mùa Hè 1972 của đơn vị
chúng tôi ở Quân Đoàn II, cùng lúc với Bình Long ở Quân Đoàn III và Quảng Trị ở
Quân Đoàn I đã bẻ gãy ý đồ thôn tính VNCH của Cộng sản Bắc Việt, khi lợi dụng
việc Hoa Kỳ vừa rút hết quân về nước, đồng thời cắt giảm tối đa quân viện cho VNCH,
sau chiêu bài “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.
Nhưng rồi Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973 như
một trận gió chướng tàn độc, cuốn trôi hầu hết những chiến công mà chúng tôi đã
phải trả bằng biết bao máu xương để đạt được, cùng lúc làm tiêu hao hào khí mà
quân sĩ đơn vị chúng tôi vừa dâng cao trong men say chiến thắng. Hiệp định Paris
mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đã thỏa hiệp, ký kết trên nỗi đau thương, phẫn uất cùng
thân xác của những người lính khốn khổ chúng tôi, chính là huyệt mộ do chính
Hoa Kỳ đào lên nhằm chôn sống quân lực và cả quốc gia đồng minh VNCH sau đó.
Ủy Ban Nobel Hòa Bình Na Uy năm 1973 đã phải
vô cùng xấu hổ và ân hận khi có một quyết định vội vã, sai lầm, trao giải cho
Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Bị cả thế giới và nhiều dân biểu Na Uy phản đối,
một số thành viên bất mãn rút tên ra khỏi Ủy Ban. Sau đó chính Lê Đức Thọ đã phải
từ chối nhận giải, vì hơn ai hết, chính cá nhân ông ta và cả Bộ chính trị Đảng
Cộng sản đều biết trước là sẽ không hề có hòa bình, bởi họ đã mưu đồ từ trước,
không hề tôn trọng hiệp định mà chỉ lợi dụng những kẽ hở có toan tính, để đẩy mạnh
cuộc chiến nhằm sớm cưỡng chiếm Nam Việt Nam.
Hiệp định mang tên Hòa Bình, nhưng kỳ thực chỉ
là hình thức ngưng bắn kiểu “da beo”, để các lực lượng Cộng sản Bắc Việt không
phải rút về Bắc mà được tiếp tục hiện diện hợp pháp tại các phần đất mà họ vừa
lấn chiếm, cùng lúc Hoa Kỷ cắt hết viện trợ quân sự cho VNCH để đổi lấy tù binh,
trong khi Cộng sản Bắc Việt vẫn được Trung Cộng, Liên Xô cùng khối Cộng sản gia
tăng tối đa viện trợ. Lợi dụng tình hình này, Cộng sản Bắc Việt đã ào ạt chuyển
đại quân, chiến xa, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu vào chiến trường miền Nam theo
đường mòn Hồ Chí Minh, và một số từ Lào sang để gia tăng cường độ các cuộc tấn
công, trong khi chúng tôi phải chiến đấu trong những điều kiện vô cùng khó
khăn, thiếu thốn, từ quân số, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, đến mọi phương tiện
khác.
Hồi tưởng thời gian này, tôi bỗng thấy đồng cảm
và thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong
“All Quiet On The Western Front” (Mặt Trận miền Tây Vẫn Yên Tĩnh),
tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque, mặc
dù tình huống tương tự đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến, hơn 55 năm trước:
“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là
mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang
bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết
rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy.
Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu,
đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các
chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp
tục…”
Là những người trực tiếp chiến đấu, cận kề
quân sĩ, chúng tôi đã phải xót xa, đau đớn đến dường nào khi chứng kiến đồng đội
của mình ngã xuống mỗi ngày trong tình trạng tức tưởi, oan khiên như thế!
Hơn mười năm phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh
bình thường, nhưng chúng tôi chưa hề một lần chiến bại, ngay cả những trận chiến
gay go, đẫm máu nhất, với lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn,
điển hình như trận chiến Kontum. Vậy mà bỗng dưng chúng tôi trở thành những người
bại trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có “gãy súng”, “buông súng” hay không,
chúng tôi cũng bị thuộc về bên phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên
làm tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến
đại tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở
phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần”. Có người lại
bảo ông giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có người
bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ thời
gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là
những thằng lính khốn khổ nhất, năm tháng chỉ ở trong núi rừng, dưới các giao
thông hào, ngộp thở với tiếng bom đạn cùng bao nhiêu thứ lệnh lạc chiến trường,
chúng tôi đâu có biết gì về chính trị bẩn thỉu, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn
độn trong những ngày tháng cuối cùng tại thủ đô Sài gòn.
* * *
Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ
thường tình. Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc quân, và
trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đã phải đầu hàng quân đội đồng
minh, sau khi hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và
Nagasaki. Kẻ chiến thắng đã hành xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc
chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh củahai bên – cả dân
lẫn lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn quá.
Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn,
tức tưởi. Thua một kẻ địch không đáng để thua. Một chế độ tự do nhân bản, văn
minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. Có lẽ
trong lịch sử chiến tranh Đông-Tây, chưa từng có những người lính nào ở phe thắng
trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần đất vừa mới chiếm được – như trường
hợp nhà văn bộ đội Cộng sản Dương Thu Hương và nhiều người khác nữa– bởi nhận
ra mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một miền đất
tự do, văn minh, nhân bản, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần “miền Bắc xã hội chủ
nghĩa” của mình.
Đến hôm nay, cuộc chiến oan nghiệt ấy đã kết
thúc vừa đúng nửa thế kỷ. Hầu hết những dấu tích chiến tranh trên quê hương đã
bị “bên thắng cuộc” chôn xóa, hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít được chọn lọc,
tô son thiếp vàng, trưng bày trong các viện bảo tàng, nhằm để tô vẽ, tuyên truyền.
Trong số chứng tích còn sót lại là những nấm mồ xác xơ của hàng vạn tử sĩ miền
Nam, nằm trong các nghĩa trang tiêu điều hoang phế, bị kẻ chiến thắng đập phá,
hủy hoại, nhục mạ. Thực ra, họ rất muốn phá hủy hoàn toàn cho sạch hết chứng
tích cuộc chiến mà chính họ đã làm hoen ố lịch sử dân tộc một thời, như đã từng
san bằng, giải tỏa một số các nghĩa trang quân đội ở các tỉnh miền Trung, nhưng
sở dĩ một số ít nghĩa trang lớn còn sót lại, dù trong tình trạng bị phá hủy,
thay tên gọi (như nghĩa trang quân đội Biên Hòa trở thành một nghĩa trang dân sự
địa phương lạ lẫm nào đó), chỉ nhằm để kiếm lợi trong các cuộc tuyên truyền, thương
lượng, đổi chác với Hoa Kỳ cùng thế giới tự do, và cũng để gạt gẫm, lừa mị đồng
bào miền Nam hầu ngụy tạo một chút gì cái “tình dân tộc” trong chiêu bài “hòa hợp
hòa giải”.
Mới đây, có người phát hiện Nghĩa trang Sư
Đoàn 22BB hoang phế nằm lẩn khuất trong một vùng núi rừng Bình Định. Cây cỏ và
cả rác rến gần như che lấp hàng ngàn mộ phần tử sĩ rêu phong. Một số đồng đội,
nhà hảo tâm trong và ngoài nước cùng hô hào đóng góp, nhờ một số các anh chị em
còn nặng tấm lòng với miền Nam trong nước tiếp tay, phát quang, sơn sửa, kẻ lại
tên tử sĩ và dựng lại các tấm bia gãy đổ. Vậy mà, sau đó họ đã bị chính quyền Cộng
sản đe dọa, ngăn chặn, gây bao phiền muộn. Kế hoạch trùng tu “kín” một số nghĩa
trang hoang phế khác trong vùng cũng vì đó mà đành phải hủy bỏ.
Hàng vạn trại tù vội vàng được dựng lên sau
tháng 4/1975, trên khắp mọi miền đất nước, nhằm đày ải, hành hạ, giết dần mòn gần
một triệu quân cán chính, trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả nhà sư và linh mục miền
Nam. Giờ hầu hết những trại nằm trong rừng sâu, núi thẳm đã biến mất, một số trại
tù lớn ở các thành phố thì đã được nâng cấp, sửa sang để trở thành những trại
giam lớn của tỉnh hay cấp nhà nước. Tuy nhiên cứ thi thoảng người dân lại phát
hiện một số nấm mồ “tù cải tạo” nằm sâu trong núi rừng Lào Cai, Yên Bái hoang
vu, giờ chỉ còn mỗi tấm bia xám xịt rêu phong, lẩn khuất dưới cỏ cây từ gần 50
năm trước.
(Mộ tù cải tạo trong rừng núi Yên Bái – Ảnh từ youtube)
Một chứng tích đau lòng khác, những thương phế
binh VNCH bị đối xử tệ hại, đang phải sống từng ngày khốn cùng trong nước. Phần
đông, theo thời gian đã chết do nghèo đói, bệnh tật. Số còn lại cũng đã già
nua, sống lây lất trên các vỉa hè góc phố. Vậy mà họ vẫn không yên với một chế
độ thiếu vắng tính nhân bản, tình tự dân tộc, luôn nặng hận thù. Với nghĩa tình
cùng lòng tri ân của những đồng đội, đồng bào từ hải ngoại và cả trong nước, vận
động gom góp gởi về, qua các vị Linh mục nhân từ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài
gòn, để các vị tổ chức mỗi năm một, hai lần buổi họp mặt “Bên nhau đi nốt cuộc
đời”, như là một chút ủy lạo trong tinh thần huynh đệ chi binh và biết ơn
những người đã hy sinh một phần thân thể, vậy mà chính quyền Cộng sản cũng đã
tìm mọi cách gây khó khăn, đe dọa, ngăn chặn cấm đoán, để cuối cùng phải hủy bỏ.
(Thương binh VNCH – Ảnh: trên Net)
Chứng tích quan trọng và sinh động hơn, là sự
hiện diện của hơn 5 triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi, đang sống lưu vong
trên khắp mặt địa cầu. Sau tháng 4.1975, cả một miền Nam “thua cuộc” đã nhanh
chóng trở thành một vùng đất chết, khốn cùng, bi thảm. Người dân có cảm giác như
bị lưu đày ngay trên chính quê hương mình. Tương lai chỉ còn là những cơn ác mộng.
Thời ấy, mọi người chỉ còn biết nhìn ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi
thay nào đó ở phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn hơn khi
con người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng!
Trong suốt lịch sử thăng trầm của dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà người dân phải
bỏ cả quê hương, nhà cửa, mồ mả ông bà cha mẹ để vượt thoát ra đi trong cái chết.
Chính quyền Cộng sản từng tuyên truyền, bôi xấu họ là bọn phản quốc chạy theo chân
đế quốc nhằm tìm chút bơ thừa sữa cặn, để rồi không lâu sau đó lại âu yếm,
chiêu dụ, gọi họ là những “khúc ruột ngàn dặm”, những “sứ giả” của quê hương,
dân tộc. Thực chất, các cộng đồng người Việt tỵ nạn trên hầu hết các quốc gia tự
do – mà chính quyền Cộng sản vẫn luôn xem là “các thế lực thù địch”- đa phần đã
thành công vượt bậc tại các quốc gia định cư, thế hệ con cháu thành đạt trên đủ
mọi lãnh vực, từ giáo dục, khoa học kỹ thuật, chính trị, quân sự, văn học, âm
nhạc. Đó là những đóng góp rất tích cực cho các quốc gia đón nhận họ, nhưng
cũng là những chất xám quý báu mà chính quyền Cộng sản trong nước hằng mơ ước.
Trong suốt 50 năm, kẻ chiến thắng đã cố tình
biến miền Nam, vùng đất tự do văn minh hạnh phúc xinh đẹp một thời, trở nên
nghèo nàn, khốn khổ hơn so với cái nôi “cách mạng” miền Bắc, nhưng rồi dù có bị
đàn áp, bần cùng hóa. phân biệt đối xử đến đâu, người miền Nam vẫn luôn giữ được
văn minh, nhân bản, và đất miền Nam vẫn luôn đáng yêu, đáng sống. Đã có hằng triệu
triệu người dân miền Bắc bỏ quê cha đất tổ tìm vào đất phương Nam, mong được đổi
đời. Mật độ dân số miền Nam, đặc biệt tại Sài gòn ngày một đông đúc, có khi gấp
gần 5 lần so với tháng 4.1975, nhà cửa, cao ốc thi nhau dựng lên bừa bãi, đến nỗi
nhiệt độ trở nên nóng bức trong cả mùa đông, và nhiều con đường phố đã trở
thành sông, chỉ sau một cơn mưa, dù không lớn lắm. Ngay cả các tỉnh cao nguyên,
miền Trung, giờ cũng đầy những người miền Bắc bỏ xứ vào đây lập nghiệp, giành
nương chiếm rẫy của những người Thượng, vốn từng bao nhiêu đời khai sơn phá thạch,
sống chết ở đây.
50 năm, nền giáo dục “xã hội chủ nghĩa” lạc hậu,
xuống cấp đã làm cho bao thế hệ học trò trở nên thua kém rất xa so với thế giới
chung quanh. Đến nỗi một cô giảng viên trường Đại học Sư phạm (Thái Bình) đã
công khai trong một chương trình trên truyền hình Hà Nội, rằng “Tự Lực Văn
Đoàn là một gánh cải lương, và ông Nhất Linh là ca sĩ cổ nhạc”. Tệ hại và tủi
nhục hơn là tình trạng tha hóa trong ngành giáo dục, kể cả thầy giáo và học
trò. Chuyện thầy giáo gạ tình, hiếp dâm nữ sinh cũng như chuyện học trò, kể cả
nữ sinh, đánh nhau và đánh luôn cả thầy cô giáo, gần như là chuyện thường tình.
Đặc biệt, ngôn ngữ Việt (cả tiếng nói lẫn chữ
viết) bị biến cải một cách tùy tiện, ngốc nghếch, kể cả muốn Tàu hóa như trường
hợp ông giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền nào đó. Lịch sử (và môn Sử học) được dựng lên
từ bao điều dối trá. “Anh hùng Lê Văn Tám” được xây tượng đài, đặt tên
cho các con đường lớn, công viên, trường học, bắt học trò cả nước phải học tập,
noi gương như một vị anh hùng. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà
chỉ là nhân vật tưởng tượng. Chính ông GS Trần Huy Liệu, Chủ tịch Hội Khoa học
Lịch sử VN đã thú nhận với GS Phan Huy Lê, nhân vật Lê Văn Tám là do mình “dựng”
nên và nhờ GS Phan Huy Lê sau này khi đất nước yên ổn, nói lại giùm, lỡ khi đó
ông Trần Huy Liệu không còn nữa. (GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng
Lê Văn Tám, Khoa Đông phương học). Và ông Phan Huy Lê đã công bố sự thật này
năm 2005, người dân trong nước do đó đều biết câu chuyện gian dối lừa mị
này, vậy mà đảng và nhà nước vẫn không hề một lời lên tiếng.
50 năm, nền văn học “xã hội chủ nghĩa” còn lại
những gì, ngoài mấy trăm bài thơ tuyên truyền, nịnh lãnh tụ, tiêu biểu cỡ Tố Hữu
“Ta bên người, người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn bên Người một chút…”
hay “ Xta-lin ơi!/Hỡi ôi Ông mất, đất trời có không?/Thương cha, thương mẹ,
thương chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương mười), cùng các bản
nhạc “đỏ”: Bác đang cùng chúng cháu hành quân, Trường Sơn Đông Trường
Sơn Tây,Tiếng Chày Trên Sóc Bam Bo, Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Cô
Gái Vót Chông… mà đám văn công hát đi hát lại trong mấy ngày lễ lớn, và tất
nhiên chẳng ai còn muốn nghe!
Nhưng 50 năm với những bản tình ca miền Nam,
một thời bị cho là nhạc vàng, cấm đoán, đến nỗi có người hát (như Toán Xồm, Lộc
Vàng) đã từng bị đàn áp, tù đày để người phải bỏ mình, người thì gần cả một
đời khốn đốn, giờ lại làm mê mẩn say đắm mọi người lớn nhỏ, kể cả những “đồng
chí lãnh đạo”, công an, bộ đội, từ Nam ra Bắc, từ thành phố cho đến các hang
cùng ngõ hẻm, vùng sâu vùng xa. Mà oái ăm thay, đa phần những bản nhạc tình ca
này lại viết rất đẹp về lính VNCH, người lính “bên thua cuộc”.
Trong một bài tiểu luận viết vào ngày
1.1.2022, dưới nhan đề “Níu một thời, giữ một đời”, nhà văn Ban Mai, một
trí thức trẻ của chế độ (giảng viên tại trường Đại Học Quy Nhơn) đã viết:
“Việt Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến
tranh giữa hai miền Nam – Bắc. Hòa bình đã đến sau mấy thập niên tang tóc vì
bom rơi, đạn nổ.
Thế nhưng, người miền Nam đã không thể tưởng
tượng nổi, tiếp sau đó là một thảm cảnh kinh hoàng… Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ
xác tinh thần của trí thức miền Nam không còn được tự do trình bày suy nghĩ,
không còn được tự do hấp thụ tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập
chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx. Tất cả sách
báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương miền Nam hoàn toàn
bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công
nguyên…
Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra
và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật miền
Nam vô cùng gíá trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ,
với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…
Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ
Nguyễn Trường Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu tầm văn học miền Nam và bộ
sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi
tin rằng, trên đất nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm,
lưu giữ một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm 1975. Ngày
nay, giới nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu,
mới đây trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đã
đem bài thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ
đầy tính nhân văn:
“Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này”.
(Tô Thùy Yên là một sĩ quan VNCH, từng bị tù
đầy qua nhiều trại giam trong gần 13 năm, sau tháng 4.1975)
Tuy đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng
đó là một tín hiệu vui.
Tôi tin rằng, sẽ không còn bao lâu nữa dòng
văn chương miền Nam (1954-1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà
trường, nó xứng đáng được trả về với đúng vị trí của nó trong tiến trình phát
triển văn học Việt Nam hiện đại, không ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa
một thời đại lịch sử của nước nhà. Giữ gìn, bảo tồn và chia xẻ văn học miền Nam
cho đời sau là trách nhiệm của chúng ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng
Việt, những người yêu văn chương Việt Nam”
Một vị giáo sư khác trong nước, chuyên nghiên
cứu về Văn Học Việt Nam đã khẳng định “Trong hai thập niên 1955-1975, nếu
không có Văn Học miền Nam, thì nền Văn Học Việt Nam xem như không hề có, hoặc
chẳng có gì cả!”
Nhà thơ, nhà giáo cũng là nhà báo nổi tiếng
miền Bắc, Hoàng Hưng, trong bài viết “Về ảnh hưởng của Văn hóa miền Nam
(VNCH) sau 1975”, sau khi hết lời ca ngợi lối sống, văn hóa, văn học miền
Nam, đã kết luận:
“…nhìn một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền
Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đã dần dần “giải
phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải
giả tạo, “gồng mình” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và
theo “định hướng XHCN….
Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến
trình “giải Cộng” gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng
kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học
miền Nam đã đi. Con đường Tự Do, Nhân Bản, Hội Nhập Quốc Tế.”
* * *
Sau 50 năm, tất nhiên đất nước cũng đã có những
đổi thay nhất định. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt tại các đô thị có nhiều phát triển,
đời sống người dân ở đây có khá hơn so với nông thôn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt
Nam vẫn còn tụt hậu khá xa so với nhiều nước chung quanh. Chính ông Tổng Bí thư
Tô Lâm mới đây đã công khai tuyên bố: “Cách đây 50 năm vào những năm
1960-1970, Singapore chỉ mong được sang Bệnh viện Chợ Rẫy (Sài gòn) để chữa bệnh,
giờ thì ta lại ước mơ được vào khám bệnh ở Singapore.”
Theo thống kê của IMF (International Monetary
Fund/Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), lợi tức tính theo đầu người ở Việt Nam cho năm 2025
là 4,986 Mỹ kim (Mk), trong khi ở Singapore là 93,956 Mk, và so với
hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, mức sống của người dân Việt nam đều rất
thấp:
– Hàn Quốc (Nam Hàn): 37,675 Mk
– Nhật Bản
: 35,611 Mk
– Đài
Loan
: 34,944 Mk
–
Malaysia
: 14,423 Mk
– Thái
Lan
: 7,754 Mk
Tệ hơn, Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với cả
Mộng Cổ (Mongolia), một nước chỉ có đồng cỏ và sa mạc, với lợi tức trung bình của
người dân năm 2025 ở đây là: 7,576 Mk.
Điều đặc biệt đáng chú ý hơn là trong hầu hết
các quốc gia Đông Âu, mới giã từ chế độ Cộng sản khoảng 30 năm nay, người dân đều
có lợi tức cao hơn nhiều so với Việt Nam (4,896 Mk).
– Tiệp Khắc (Czech Republic) = 33,038 Mk
– Hung Gia Lợi
(Hungary) = 25,703 Mk
– Ba Lan
(Poland)
= 25,040 Mk
– Lỗ Ma Ní
(Romani)
= 21,570 Mk
– Bảo Gia Lợi
(Bulgari) = 18,456
Mk
Tuy vậy, chủ trương làm “kinh tế thị trường
(với cái đuôi) theo định hướng XHCN” thực tế cũng đã làm giàu nhanh chóng cho hầu
hết tầng lớp đảng viên, gia đình và phe nhóm, đưa họ sớm trở thành những nhà tư
bản “đỏ”, đào thêm cái hố ngày càng sâu giữa giai cấp giàu (đảng) và nghèo (dân).
Điều này hoàn toàn trái ngược mục tiêu “đấu tranh giai cấp” mà đảng Cộng
sản từng hô hào; đấu tố, giết hại dã man hàng mấy vạn người vô tội trong “Cải
Cách Ruộng Đất”, lộ rõ chiêu trò lừa gạt “giải phóng miền Nam”, và
hiện nguyên hình một đám thảo khấu khi chủ trương “tiêu diệt tư sản mại bản”
rất tàn độc ngay sau khi cướp được miền Nam.
Sự làm giàu bộc phát (và bất chính) của tầng
lớp tư bản đỏ này đã kéo theo hiện tượng xuống cấp từ Giáo Dục, Văn Hóa, Y Tế,
tha hóa về Đạo Đức, Xã Hội và cả Tôn Giáo. Đặc biệt nhất là vấn nạn thối nát,
tham nhũng – tất nhiên ngay trong hàng ngũ đảng Cộng sản, kể cả những lãnh đạo
cao cấp nhất, từ hàng tướng lãnh, thứ bộ trưởng, thủ tướng đến cả chủ tịch nước
– như là một thứ quốc nạn không còn thuốc chữa. Chức quyền được chuyền tay theo
kiểu “cha truyền con nối”, “gia đình trị” của thời phong kiến. Đảng đứng trên
pháp luật, thu tóm mọi quyền lực, tài sản quốc gia. Đảng viên sống phè phỡn
giàu sang trên đầu những người dân cùng khốn. Đám con cháu, những “hạt giống đỏ”,
được đưa sang du học tại các trường tư nổi tiếng ở các nước tư bản, tất nhiên bằng
tiền của nhà nước hoặc từ tham nhũng, chuẩn bị cho các vai trò kế vị.
Một ông thủ tướng (sau đó là chủ tịch nước) từng
mở miệng khoe khoang “Việt nam bây giờ đang là một đất nước đáng sống nhất,
cái cột đèn ở hải ngọai mà có chân thì cũng đã chạy hết về Việt Nam” (sic!).
Trong khi ấy, hàng vạn cô con gái phải bỏ cha mẹ, người tình sang làm vợ cho những
ông già bệnh hoạn, tàn tật ở tận Đài Loan, Nam Hàn, như một thứ nô lệ, kể cả nô
lệ tình dục. Nhiều cô không liên lạc được với gia đình. Một số bị giết chết hoặc
bị bán vào các động mãi dâm. Tại một số nước Á châu, báo chí công khai quảng
cáo dịch vụ “mua vợ Việt Nam” với giá bằng một món đồ chơi rẻ mạt. Trong lịch sử
dân tộc, dù có những giai đoạn lệ thuộc khó khăn, nhưng không có thời kỳ nào mà
thân phận những người con gái, đàn bà Việt Nam lại rẻ rúng và thê lương như thế.
Chính quyền đã “xuất khẩu” hàng vạn, hàng trăm ngàn người lao động đi khắp thế
giới, ngay cả những nước nghèo ở tận châu Phi, nhằm kiếm sống và kiếm thêm ngoại
tệ cho nhà nước. Đã vậy vẫn cứ tiếp tục những dòng người tìm mọi cách trốn khỏi
Việt Nam, để một số phải chết ngạt trong những chiếc xe đông lạnh, kín mít, một
số phải sống trong núi rừng, trồng á phiện và bị bắt, vì không có quốc gia nào
chấp nhận để dung thân. Một sự kiện đáng xấu hổ, khi nhóm chín người tháp tùng
chuyên cơ của bà Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến viếng thăm
“hữu nghị” Hàn Quốc, vào đầu tháng 12.2018, đã bỏ trốn khi vừa mới bước chân
lên đất khách. Đó là chưa kể một số ra nước ngoài chỉ để ăn cắp, làm gái điếm,
đến nỗi cái “hộ chiếu” Việt Nam đã từng trở thành nỗi ô nhục.
* * *
Sau đúng 50 năm, tại Sài gòn, trước cả mấy
tháng, nhà nước Cộng sản Việt Nam đang chuẩn bị rầm rộ mừng ngày “thống nhất”,
thao dược một cuộc diễn binh rất qui mô mà tốn phí dự trù hằng chục triệu Mỹ
kim, vẫn với lời ca “thề phanh thây uống máu quân thù” vẫn với các khẩu
hiệu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, hừng hực không khí kiêu ngạo,
hận thù. Trong khi ấy, đã có những anh bộ đội có mặt trong đoàn quân giải phóng
ngày nào, theo chân nhà văn Dương Thu Hương (ngồi khóc ở vệ đường, khi nhận ra
mình bị lừa gạt để chém giết đồng bào, hủy hoại cả một miền Nam nhân bản, văn
mình, giàu đẹp) giờ cũng đã tột cùng ăn năn hối hận, như trường hợp cựu cán
binh Bình Ngọc với bài thơ “Xin Lỗi Tháng Tư!”:
Thời trai trẻ, gác bút nghiên, gác mọi ước
mơ …lên đường “ đánh Mỹ!”
Cây súng trên vai, máu đỏ trong tim!
Mụ lí trí! Hùng hục vượt Trường Sơn.
Đêm nghỉ, ngày đi, giày vẹt gót, áo sờn
vai thấm lạnh!
Mẹ còng lưng vắt kiệt sức, mỏi mòn, thao
thức đợi con về!
“Ba mươi tháng Tư” bên thắng cuộc, hả hê
Con trở thành kẻ “kiêu binh!” trong đoàn
“quân Giải phóng!”
Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất
vọng!
Không hiểu mình đi Giải phóng cho ai?
Chễm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!
Đáy xã hội, nhiều “dân oan!” mất đất.
Những nghịch lý, tai ương…chồng chất!
Khoảng cách “sang, hèn” cứ rộng mãi ra.
Người ở “quê” không còn tha thiết với “ao
nhà”.
Tràn vào miền Nam “ngoạ, chiếm, xâm canh…từ núi, rừng, chợ búa, thị thành, lầu cao, gác tía ….!”
Quê Hương tôi, tên thật đẹp (làng Vàng).
Cũng có đình, chùa, bờ xôi, ruộng mật!
Không hiểu vì sao nhiều người “bỏ tất” để
vào Nam chen lấn, đua đòi?
Riêng tôi!
Trốn khỏi “sai lầm” những năm, tháng …đã
đi qua!
Xin lỗi! “tháng Tư!”
Xin lỗi! miền Nam, những việc tôi đã làm!
Xin lỗi tất cả!
Cả những người “bên thua cuộc!”
Biết sao được!
Mọi người chúng ta sinh ra, đâu có thể chọn
được thời cuộc
Nhưng! Lẽ đời, Đen, trắng phải phân minh!
Xin lỗi! “tháng Tư!”
Hãy tha thứ cho mình! Rất chân thành, chứ
không phải lời giả dối.
Hay trường hợp của Trần Đức Thạch, cựu
phân đội trưởng trinh sát, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân đoàn
4, qua các bài thơ
Tạ Lỗi miền Nam
Tôi sinh ra ở miền Bắc
Không hình dung ra giặc thế nào
Người ta hô hào
Phải căm thù giặc…?
Người ta dạy tôi là người miền Bắc
Phải biết thương yêu đồng bào miền Nam
Bà con ruột thịt đang lầm than
Dưới gót giày của Mỹ Diệm…
Những người con nông dân thật thà như đếm
Mặc áo lính vai khoác súng lên đường
Hồn nhiên tin là đi bảo vệ tổ quốc quê
hương
Đánh đuổi quân xâm lược…
Thống nhất đất nước
Mới ngớ ra “Quân ta đánh dân mình
miền Nam giàu và dân sống văn minh
Không đói khát vật vờ như dân miền Bắc…”
Hận ngút trời đứa nào lừa tuổi xuân tôi
coi dân mình là giặc!
…
Sám Hối
Thế hệ chúng tôi tội lỗi ngập đầu
Nhìn con cháu lòng muôn hổ thẹn…
Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến
Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh
Thắng lợi mang về là làm khổ dân mình
Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác
Thế hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc
Quên dân tộc mình theo chủ nghĩa Mác Lê
Nin
Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nhìn
Gieo thù hận trong lòng con cháu
Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu
Chẳng ý nghĩa gì khi dân tộc điêu linh
Chẳng ý nghĩa gì khi đất nước tanh bành
Lãnh thổ giang sơn bị ngoại bang gậm nhắm
Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm
Mất chính mình mang tội ác với tương lai
* * *
Riêng những người lính miền Nam, sau nhiều
năm bị tù ngục, đọa đầy, nhiều gia đình ly tán, lưu lạc khắp bốn phương trời, nếu
còn sống sót giờ cũng đã trên dưới 80, nhưng vết thương từ cuộc chiến bất hạnh ấy
vẫn mãi luôn âm ỉ trong lòng. Một quãng đời trai trẻ, những vinh nhục, những đớn
đau tức tưởi trong giờ khắc phải buông súng, cùng những món nợ máu xương chưa
trả được cho đồng đội anh em, rồi cùng sẽ xót xa theo họ về cõi vô cùng.
Xin được đồng cảm với tâm sự của một đồng đội
đàn anh, nhiều năm chiến đấu bên nhau, từng là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao
lược:
“Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng
say của tuổi thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng
hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới
lượt mình. Điều tự nhiên này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là quy
luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của chính mình, thế hệ
chúng ta, qua những việc đã làm, những đau thương đã trải…thực sự là gì, hoặc
chẳng là gì hết?”
Cuối tháng 4-2025
Phạm Tín An Ninh
No comments:
Post a Comment