Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Trang Người Phương Nam
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ From 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Monday, September 22, 2025
Sunday, September 21, 2025
Những Giọt Nước Mắt, Những Tiếng Thở Dài - Từ Thức
André Gide nói ‘’ C’est avec les beaux sentiments qu’on fait de la mauvaise littérature ‘’ ( Với những tình cảm tốt, người ta làm văn chương dở ) (1) . Tiểu Tử là một nhà văn đã chứng minh ngược lại, có thể viết hay với những tình cảm tốt. Trong tác phẩm của ông, hầu như chỉ có những tình cảm tốt , chỉ có tình người.
Một nhân vật nói về một nhân vật khác trong truyện ngắn ‘’Made in Vietnam’’ : người chi mà tình nghiã quá héng ? ‘’ . Độc giả nghĩ tới câu đó mỗi lần lại gần những nhân vật của Tiểu Tử. Người chi mà tình nghiã quá héng.
Độc giả chai đá tới đâu, đọc Tiểu Tử cũng không cầm được nước mắt. Người ta khóc, nhưng sau đó thấy ấm lòng, vì thấy trong một xã hội đảo lộn, vẫn còn đầy tình người, vẫn còn đầy thương yêu, vẫn còn nghiã đồng bào vẫn còn những người tử tế . Và thấy đời còn đáng sống.
Một nhà văn Pháp nói văn chương, trước hết là xúc động. Trong truyện ngắn của Tiểu Tử, sự xúc động hầu như thường trực, chan chứa.
MIỆT VƯỜN
Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam.
Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên. Tiểu Tử không ‘’ làm văn ‘’ . Không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách. Ông viết với tấm lòng. Không có ưu tư văn chương, đó là mộ Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên. Tiểu Tử không ‘’làm văn‘’. Không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách. Ông viết với tấm lòng. Không có ưu tư văn chương, đó là một nhận xét gây tranh cãi sôi nổi về các nhà văn miền Nam trên một tờ báo văn học Sài Gòn trước 75. Nhưng nếu Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc viết như kể chuyện, Sơn Nam - với Hương Rừng Cà Mâu- và sau này, Nguyễn Ngọc Tư- với Cánh Đồng Bất Tận –có văn phong riêng, độc đáo.
Văn chương, trước hết là ‘’ style ‘’. Có hai loại nhà văn : có văn phong hay không . Tiểu Tử thuộc loại nhà văn thứ nhất.
Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp , Giáng Hương, như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My , Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm , bà Năm Chiên, bà Năm Cháo lòng.
Các địa danh cũng đặc Nam kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hoà, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa danh rất ‘’miệt vườn’’, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương, lạ tai, ngồ ngộ. Âm thanh như câu vọng cổ ai ca bên bờ rạch.
Tiểu Tử , 88 tuổi, kỹ sư dầu khí, tác giả nhiều tập truyện ngắn (Những Mảnh Vụn, Bài ca Vọng Cổ, Chuyện Thuở Giao Thời ) học ở Marseille, hiện sống ở ngoại ô Paris, nhưng văn của ông không lai Tây một chút nào. Rất Việt nam, đúng ra rất Nam Việt, với lối viết như người ta kể chuyện bên ly la de, bên tô hủ tíu, với những chữ nghen, chữ héng, chữ nghe..’’. ‘’ Cần gì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà ..’’.Dưới ngòi bút của một tác giả người Bắc, người Trung, gọi người đàn bà là con Huê, con Nhàn có vẻ hỗn, ở Tiểu Tử, nó chỉ có sự thân ái. Ở ngoài đời cũng vậy, nghe ông gọi ‘’ con nhỏ '' này, con nhỏ kia, người nghe chỉ thấy chỗ thân tình
Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Tiểu Tử đã chứng tỏ ngôn ngữ địa phương, cách diễn tả địa phương làm giầu cho văn hoá dân tộc. Cố gắng bắt chước lối diễn tả Hà Nội là một lầm lỗi, nó chỉ làm cái vốn văn hoá của ta nghèo đi. ( Và đó là nói về Hà Nội ngày xưa, HN của ngàn năm văn vật. Hà Nội ngày nay không còn gì là nơi văn vật, cái gì cũng ‘’ đéo ‘’, như câu đối thoại ở một sạp báo, không biết có thực hay chỉ là chuyện tếu: ''Còn báo Nhân Dân không ? - Đéo còn nhân dân, chỉ còn Người Hà Lội '' )
NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT
Văn chương là hư cấu, nhưng đọc Tiểu tử, người ta thấy cái chân thực, có cảm tưởng không có chi tiết nào là kết quả của tưởng tượng. Tất cả đều là những chuyện tác giả đã sống, hay đã nghe kể lại . Vả lại, ở Việt Nam, thực tế vượt xa tưởng tượng. Cái đau đớn, cái thảm kịch mỗi người Việt Nam đã, đang sống, không có người viết văn nào, giầu óc tưởng tượng tới đâu, có thể bịa ra. Orwell, Kafka sống dậy cũng chào thua, thấy óc tưởng tượng của mình có hạn.
Trong ‘’ Thầy Năm Chén ‘’, ông thầy thuốc, suốt đời làm việc nghiã, bị cách mạnh hành hạ, chuẩn bị cho con vượt biên. Khi giã từ con, ông đưa cho con, thằng Kiệt, ‘’ một cái gói mầu đỏ đã phai màu, cột làm nhiều gút’’ , nói : ‘’cho con cái ni (ông già người gốc Huế ). Con giữ trong người để hộ thân.’’ Kiệt đến Cannada an toàn, một ngày dở cái gói của cha cho ngày vượt biển. Trong đó có … ba cái răng vàng. Thầy Năm Chén, nhờ ơn cách mạng, trở thành vô sản, đã cạy ba cái răng vàng cho con làm của hộ thân đi tìm đường sống ở xứ người. Độc giả hiểu tại sao từ ngày con đi, ông Năm Chén chỉ húp cháo.
‘’ Chiếc Khăn Mùi Xoa ‘’ có thể coi là điển hình cho truyện ngắn Tiểu Tử , trong đó có sự xúc động cao độ, đẫm nước mắt, với những nhân vật nhân hậu, giầu tình nghiã, những chi tiết éo le như một cuốn phim tình lãng mạn, nhưng đơn giản, chân thực.
Một người Việt tị nạn ở Pháp về thăm nhà, gặp những người bạn học cũ, trong đó có nhân vật chính, ‘’ con Huê ‘’, sự thực là một người đàn bà đã đứng tuổi. Ông ta kể lại : ‘’Con Huê tiễn tao ra cổng, đứng ngập ngừng một lát rồi bỗng nói một mạch, là lạ, như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ : Anh qua bên Tây , gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh . Nó nói rồi bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay quệt nước mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê, nói với tao : Anh biết không, chị Huê thương anh Cương từ hồi còn nhỏ lận . Người con gái ở quê mình nó thật thà, trung hậu đến mức độ mà khi trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là tự nhiên , phải có nước lớn nước ròng ‘’.
Tiểu Tử viết chuyện tình âm thầm của người đàn bà từ ngày còn đi học, tới ngày nay đã bạc đầu, với người bạn trai ngày xưa tên là Cương, nhưng sóng gíó 75 đã khiến người đàn ông bỏ nước đi lánh nạn. Người con gái của ông Cương, đang sống ở Bruxelles, đọc truyện, cho tác giả hay bố mẹ đều đã qua đời. Trước khi chết, Cương dặn con gái : ‘’ Con ráng tìm cách về Nhơn Hoà, Cầu Cỏ, trao cái này cho cô Hai Huê, nói ba không quên ai hết ‘’. Chữ '' ai '', đặc Nam kỳ, dễ thương chi lạ. ‘’Cái này ‘’ là một bao thư, trong đó có chiếc khăn mùi xoa cô Huê đã tặng Cương thời trẻ. Người con gái thấy thương bố, thương cô Hai Huê không cùng. Cô gái đi Việt Nam, một xứ xa lạ, tìm về Nhơn Hoà, Cầu cỏ, tìm người đàn bà tên Huê để trao lại kỷ vật của người đã qua đời. Cô Hai Huê xỉu đi khi nghe tin người bạn xưa đã chết. Hai người đàn bà, một già, một trẻ ôm nhau khóc. Cô gái mang cô Hai Huê sang Bỉ, sống với nhau như mẹ con. Người chi mà…Nếu bạn là người tưởng mình có tâm hồn sỏi đá vì đã sống, đã chứng kiến đủ mọi thảm kịch của đời sống, nhất là đời sống của một người Việt Nam, bạn sẽ ngạc nhiên thấy mình đang lau nước mắt
KHÔNG ĐIÊN CŨNG KHÙNG
Thế giới truyện ngắn của Tiểu Tử xoay quanh hai đề tài chính: những kỷ niệm về một Miền Nam hiền hoà, chất phác, nhân hậu ngày xưa, với những trò vui đùa, nghịch ngợm của đám bạn bè trẻ, những mối tình mộc mạc của những người dân quê và, sau đó, những đảo lộn sau 75, khi tai họa trên trời giáng xuống. ‘’ Tất cả đều bị xáo trộn, bị nghịch lý đến nỗi tao sống trong đó mà lắm khi phải tự hỏi : làm sao có thể như vậy được ‘’. Một xã hội vô tư, kể cả vùng quê, hiền hòa, trở thành địa ngục. Chỉ còn hận thù, phản trắc, gian sảo, cướp đoạt, dối trá.
Những nhân vật của Tiểu Tử không còn cười đuà, vui chơi, dễ dãi nưã. Đó là những nhân vật đầy ưu phiền như ông Tư, như bà Hai, như thầy Năm Chén, như anh Bẩy, như bà Năm Cháo lòng. Một xã hội đổ nát, rách bươm. ‘’Những người ‘’cách mạng’’ xông vào nhà, ngang nhiên hùng hổ, như một bọn cướp. Họ ‘’bươi ‘’ từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ sau ra trước…giống như gà bươi đống rác.Gặp gì kiểm tra nấy. Vậy rồi…hốt hết. ‘’
Sau 75 , người ta truyền nhau một câu ca dao mới : Thằng khôn thì đã vượt biên. Những thằng ở lại không điên cũng khùng. Các nhân vật của Tiểu Tử, vốn là những người miền Nam hiền lành, dễ tin, yêu đời, nhiều người đã hết lòng với ‘’kháng chiến ‘’, sau ''cách mạng’’, đều bị đàn áp, gia sản bị cướp đoạt trắng trợn trong những chiến dịch ‘’ đánh tư sản mại bản ‘’ trở thành không điên cũng khùng.
Ông Tư ( trong IM LẶNG ) là người có gia sản ở Saìgòn, đã bí mật đóng góp tài chánh cho ‘’Giải Phóng’’. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, không những không được trả ơn, mà bị hành hạ, gia sản bị cướp sạch. ‘’ Bỗng nhiên ông Tư nhận thức rằng tất cả những gì thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ cuả ông đang chờ đợi ông ở nhà ‘’. Nhưng bà vợ tiếc cuả, uất hận vì bị cách mạng lưà gạt, suốt ngày đay nghiến, trách móc chồng. Rốt cuộc hai vợ chồng tìm được cách chạy sang Pháp, nơi con trai ông đã được bố mẹ gởi đi du học, đã thành đạt, có nhà cưả sang trọng. Ông con hỏi bố ở chơi bao nhiêu ngày. Ông Tư nói ở lại luôn. Ông con nói, giọng đặc ‘’Việt kiều yêu nước’’ : ‘’ Ủa, sao lại ở luôn. Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên cổ mình hết; vậy mà ba má bỏ qua đây luôn. Thiệt là vô lý ‘’. Ông Tư trở thành một người câm, không nói gì với ai nưã. Cho đến một hôm ông lầm lũi lội xuống biển cho nước cuốn đi. Ông Tư là một ‘’ thằng khôn’’ đã vượt biên, nhưng cái đau đớn bám ông già cho dù có trốn ở cuối chân trời, cuối cùng chỉ có nước biển mới rửa sạch.
Bà Hai ( trong Thằng Đi Mất Biệt ), con cái chết, gia tình tan nát, suốt ngày ngồi chờ đưá con trai còn lại bị đưa đi cải tạo. ‘’ Khi trời nắng ráo, bà đi tuốt ra ngoài vàm rạch, lên ngồi trên môi đất có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, "khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông, mình cũng nhìn ra đươc nó liền hà".
Thầy Năm Chén, phòng mạch bị chiếm, con trai phải bỏ đi vượt biển. ‘’Chia tay nhau mà hai cha con không dám ôm nhau. Sợ người ta để ý. Thầy không đưa con ra cổng nghiã trang. Sợ người ta để ý. Thầy không dám để rơi một giọt nước mắt. Sợ người ta để ý. Thầy chỉ thở dài. Thời buổi bây giờ chỉ thở dài là không ai để ý. Bởi vì ai cũng thở dài hết ‘’.
Ông già bới rác ( truyện cùng tên ) là một ông già có công với ‘’cách mạng’’, bi cách mạng cướp hết không còn manh giáp, trở thành khùng, suốt ngày lang thang ngoài đường bới rác, ‘’tao bới rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng tao đã nuôi trong nhà ‘’
Trong Những Mảnh Vụn ,
người yêu ‘’đi chui bán chánh thức‘’, nghiã là đi vượt biển do cán bộ tổ
chức, biệt tăm, chắc mất xác vì tầu quá cũ bị chìm , anh Bâỷ suốt ngày, như một
người mất hồn, đi qua lại tất cả những nơi ngày xưa hai người vẫn hẹn hò. ‘’
Bẩy không biết mình đang đi lượm những những mảnh vụn của cuộc tình. Nếu không
có cái ‘’ngày cách mạng thành công ‘’ đã thật sự thành công trong nhiệm vụ đập
nát tất cả những gì của miền Nam, kể cả những gì nhỏ bé nhứt, tầm thường nhứt
như tình yêu của chàng trai và cô gái đó ‘’.
Bà Năm cháo lòng ‘’ vẫn bán cháo lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng con mà giống như bà chửi cả nước ‘’
Mỗi truyên ngắn Tiểu Tử thể hiện sống động một giai đoạn lịch sử, tóm tắt trong câu thơ mà người ta gán cho Bùi Giáng, vì trong cái điên loạn của xã hội, người điên tỉnh hơn cả người tỉnh : Đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào. Đánh cho chết mẹ đồng bào miền Nam.
NHỮNG NỤ CƯỜI
Đọc Tiểu Tử, người ta không thể không xúc động. Nhưng văn Tiểu Tử cũng đầy nét khôi hài, những nhận xét ngộ nghĩnh. Phòng mạch của Thầy Năm Chén ‘’bịnh nhơn cũng vắng. Làm như người ta sợ quá rồi…quên bịnh. Trái lại, bên phía chuà thì lại đông người lui tới và ngày nào cũng có người. Làm như người ta chỉ còn biết …dựa vào Phật ‘’.
Qua vài nét chấm phá, ông ghi lại những cảnh trái tai gai mắt, những cảnh lố bịch của những người thắng trận. Những cảnh không biết nên cười hay nên khóc diễn ra trước mắt, mỗi ngày, chỉ cần ghi lại, không cần thêm thắt, bình luận. André Gide : Plus un humouriste est intelligent, moins il a besoin de déformer la réalité pour le rendre significative ( Một nhà khôi hài càng thông minh, càng không cần bóp méo sự thực để làm cho nó có ý nghiã ). Tiểu Tử không cần bóp méo sự thực, chỉ việc cúi xuống lượm, ghi lại những cái lố lăng, đảo lộn luân thường diễn ra mỗi ngày, trước mắt. Nói như vậy, sự thực không dễ. Phải tinh tế, nhạy cảm mới biết ‘’ lựa ‘’ cái gì, trong một cửa hàng ê hề là xã hội VN những năm sau 75.
Muốn hiểu lịch sử, hay xã hội trong một giai đoạn lịch sử, không gì hơn là đọc các nhà văn. Hơn là những sử gia, những nhà biên khảo, nhà văn, trong vài chữ, vài nét, cho thấy mặt thực của xã hội.
Salman Rusdhie nói ông viết văn, bởi vì đó là cách hay nhất ông tìm thấy để hiểu thế giới chung quanh.
Văn chương đi vào trái tim, trong khi biên khảo chỉ đi vào trí óc. Không có xúc động, rất khó có cảm thông. Không có cảm thông, không sống với người trong cuôc, làm sao hiểu được ? Staline : ‘’ một người chết là một bi kịch, một triệu người chết chỉ là một con số thống kê ‘’.
Nhà văn không làm thống kê, chỉ ghi lại bi kịch của mỗi nhân vật, của tôi, của anh , của mỗi người. Mỗi câu chuyện là một bi kịch ; hay bi hài kịch - farces tragiques-của một thời đảo điên.
KÝ ỨC CỦA MỘT XÃ HỘI TỬ TẾ
Truyện ngắn Tiểu Tử, với lối hành văn bình dị, linh động là một cuốn tự điển sống của ngôn ngữ miền Nam thời chưa loạn. Đó là kho tàng quý; trong khi ở hải ngoại, chữ Việt càng ngày càng lai Tây, lai Mỹ; trong nước càng ngày càng lai Tầu, với những chữ, những lối nói ngớ ngẩn, đôi khi kỳ quái, khiến tiếng Việt không còn là tiếng Việt, báo hiệu một ngày người Việt không còn là người Việt. Và, từ đó, nước Việt không còn là nước Việt. Nguyễn Văn Vĩnh : tiếng Việt còn, nước Việt còn…
Truyện ngắn Tiểu Tử là những giọt nước mắt, những tiếng thở dài, nụ cười đùa cợt trong những ngày bình an và ngay cả, nhất là, trong cơn đớn đau cùng cực. Ông là một nhân chứng quý báu của một giai đoạn bi thảm của một thuở giao thời. ‘’Chuyện Thuở Giao Thời ‘’ là tựa tập truyện sau cùng của tác giả. Nhưng chữ thuở giao thời còn nhẹ quá. Phải nói là một cuộc đổi đời ghê rợn nhất trong lịch sử dân tộc Việt, một dân tộc vốn đã quen ăn nằm với máu và nước mắt .
Độc giả trân trọng với truyện ngắn Tiểu Tử , có lẽ bởi vì đó là một tài liệu quý . Một cuốn phim sống động về một xã hội tử tế đang phá sản, đặc biệt là phá sản về luân lý , về tình người.
Cái xã hội tử tế tử tế đó càng xa dần, càng biệt tăm, rã rời, và biến mất, người ta càng xúc động, như một chiều rảnh rỗi, không cầm được nưóc mắt khi coi lại những tấm hình cũ, thật đẹp, thật thơ mộng, của chính mình ngày xưa ( 2 )
TỪ THỨC ( Paris )
1 . A.Gide muốn nói
muốn viết văn, phải đi vào tận cùng tâm khảm của con người. Và nếu đi tới cùng,
sẽ thấy nhiều cái xấu, cái lở lói. Bản chất con người phức tạp, đời sống phức
tạp, cái xấu cái tốt lẫn lộn. Văn chương phải lột trần được cái sự thực đó.
2. Trên đây là bài nói chuyện nhân dịp ra mắt sách của Tiểu Tử ở Paris, ngày 03/01 /2015 . Những đoạn văn được trích dẫn từ ba tuyển tập truyện ngắn : Những Mảnh Vụn , Tiếng Ca Vọng Cổ, ChuyệnThuở Giao Thời. Điạ chỉ e-mail liên lạc : :Tiểu Tử, vanvovan9@gmail.com
Anh Hai Tiểu Tử Của Tôi - Tiểu Thu
Lời tác giả: Hôm qua nhận được tin anh Tiểu Tử qua đời TT buồn quá, lục lại bài viết về Anh Tiểu Tử rất lâu rồi, gửi cho TK. Nhờ TK đăng lại như một nén hương lòng tưởng niệm người anh Hai trên văn đàn rất đáng yêu đáng kính mà TT đã có duyên gặp gỡ trong đời.
*****
Khi nhận được thư của
nhà văn Việt Hải mời góp mặt trong cuốn sách vinh danh nhà văn Tiểu Tử, tôi hơi
ngại ngùng vì biết mình chỉ là một cọng cỏ dại nhỏ bé giữa một rừng cây cổ thụ
trong làng văn học hải ngoại. Nhưng nghĩ cho cùng, viết hay hay dở thì cũng
ráng bày tỏ tấm lòng kính yêu của mình đối với người "Anh Hai" trong
nhóm Tình Viễn Xứ của chúng tôi.
Tôi được may mắn làm quen với nhà văn Tiểu Tử qua lời giới thiệu của nhà
văn Việt Hải vào năm 2006. Trước đó, chúng tôi (một nhóm bạn ở thành phố
Montréal) có chuyển cho nhau đọc truyện ngắn "Bài Ca Vọng Cổ" của nhà
văn Tiểu Tử. Thú thật lúc đó bút hiệu này còn xa lạ với chúng tôi, tuy rằng ông
đã xuất bản tập truyện ngắn đầu tiên và đã có tiếng trong làng văn học. Đọc
truyện ngắn "Bài Ca Vọng Cổ" tới đâu lòng tôi nghẹn ngào tới đó. Văn
phong ông bình dị, không chải chuốt cầu kỳ mà xúc động, lôi cuốn biết bao.
Trích:
...Hắn xòe hai tay đưa
ra phía trước, lật qua lật lại:
- Bên nội của con là nằm ở bên ngoài này nè.
Rồi hắn để tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ về phía trái tim:
- Còn bên ngoại nó nằm ở bên trong. Ở đây, ở đây nè bác.
Bỗng giọng hắn nghẹn lại:
- Con lai Việt Nam thiệt mờ bác! Ngoài thì đen thui chớ bên trong vàng khè hà
bác ơi.
Đó, văn ông mộc mạc như cuộc sống hiền hòa của những con người chơn chất miền
Nam ngày nào. Những người dân miệt sông nước Tiền Giang, Hậu Giang với
đồng ruộng cò bay thẳng cánh, cây trái sum xuê và nhứt là mê những câu hò và
thích ca vọng cổ. Trích:
- Nhớ Sàigòn quá nên con hay ca vọng cổ cho đỡ buồn. Hồi nãy bác lại đây là lúc
con đang ca bài "Đường về quê Ngoại" đó bác.
- Bác không biết ca, nhưng bác rất thích nghe vọng cổ.
Giọng nói của hắn bỗng như hăng lên:
- Vọng cổ là cái chất của miền Nam mà bác. Nó không có lai Âu lai Á gì hết. Nó
có cái hồn Việt Nam cũng như cá kho tộ, tô canh chua. Bác thấy không? Bởi
vậy không có gì nhắc cho con nhớ Việt Nam bằng bài ca vọng cổ hết.
...Trên máy bay, tôi miên man nghĩ đến "thằng Jean" rồi tự hứa sẽ gặp
lại nó thường. Để cho nó bớt cô đơn. Và cũng để cho tôi bớt cô đơn nữa.
Bây giờ viết lại chuyện thằng Jean mà tôi tự hỏi: "Trong vô số người Việt
Nam lưu vong hôm nay, còn được bao nhiêu người khi nhìn trong gương vẫn
nhận ra mình là người Việt Nam? Và có được bao nhiêu người còn mênh mang trong
lòng bài ca vọng cổ, để thấy hình ảnh quê hương vẫn còn nguyên..."
Đúng là đọc văn ông, ta không khỏi không suy gẫm những ý tưởng thâm thúy ẩn
chứa bên trong...
Sau đó chúng tôi tìm đọc những truyện ngắn của ông đăng rải rác trên các website. Truyện nào cũng hay, cũng xúc động vô bờ. Xuyên qua những nhận xét tinh tế trong những mẫu truyện ngắn của ông, chúng ta thấy giữa cái xã hội nhiễu nhương, lừa đảo, băng hoại của những năm sau bảy lăm vẫn còn có tình người và cũng còn không ít những con người tử tế. Nhất là ở một góc độ nào đó cuộc đời vẫn đáng trân trọng!
Vậy thì được làm quen với nhà văn Tiểu Tử là một hân hạnh to tát đối với chúng
tôi. Ông là bác của nhà văn Việt Hải và của một cậu em văn nghệ nữa tên Trần
Trọng Nhân. Đáng lẽ luận theo tuổi tác, vai vế thì tôi phải gọi ông là chú.
Nhưng với bản tính xề xòa, dễ dãi, ông cho phép chúng tôi được gọi ông là anh.
Đơn giản vì cả hai cùng họ Tiểu. Ông nói “Tiểu Tử là anh hai của Tiểu Thu thì
đúng quá rồi còn gì nữa!”
Bắt đầu từ đó chúng tôi, gồm có anh hai Tiểu Tử, kế đến các anh chị Thanh-Ngọc
Anh, Thanh-Dung, Duy Thiện, Tiểu Thu, Trọng Nhân, Nguyên Nhung, Nguyễn thị
Thanh Dương và sau này còn có nhà văn Phạm Tín An Ninh và nhà thơ nữ Bạch
Liên...lập ra nhóm Tình Viễn Xứ. Anh chị em chúng tôi liên lạc nhau qua email
hằng ngày. Trao đổi nhau những câu chuyện vui, những kinh nghiệm sống, những
sáng tác mới...vv..và...vv...nhưng quan trọng nhất là gửi cho nhau những tiếng
cười rộn ràng để đầu óc được thanh thản.
Cho đến một hôm, ông báo tin sẽ qua thăm vợ chồng cô con gái đang cư ngụ tại thành phố Montréal. Chao ơi, chúng tôi rất náo nức được gặp ông, người Anh đầu đàn mà trước giờ chỉ biết mặt nhau qua Internet. Chúng tôi hẹn anh chị ở tại quán ăn của cô cháu gái.
Lần đầu gặp gỡ cảm động xiết bao. Vừa mới thấy mặt, anh phán liền “ Tiểu Thu đây ha? Ở ngoài coi còn “ngộ” hơn trong hình” làm “con nhỏ Thu” vừa mắc cở vừa…sung sướng! So với tuổi tác, phải công nhận anh rất trẻ. Mái tóc còn đen lắm (hổng biết có ăn gian hay không nữa!), cái miệng móm móm cười rất có duyên. Phần chị thì mái tóc muối nhiều hơn tiêu, gương mặt thật hiền lành phúc hậu. Chị ngồi nghe anh nói chuyện với chúng tôi chỉ cười cười, nhưng cặp mắt không dấu được một trời tình yêu sâu đậm dành cho anh. Sau này nghe anh kể rằng Anh và Chị có một mối tình tuyệt đẹp khi anh là ông giáo sư trẻ tuổi, đẹp trai còn chị là một nữ sinh Trung học ngây thơ, xinh đẹp. Con gái rượu của một ông Hội đồng danh tiếng miệt Vĩnh Long.
Những lần họp mặt tại nhà chúng tôi hay nhà anh chị Thanh- Ngọc Anh đều rất vui nhộn, hào hứng. Anh nói chuyện vui, pha trò duyên dáng, ý nhị y như văn phong của nhà văn Tiểu Tử trong các tác phẩm. Nghe anh kể chuyện chúng tôi cứ cười bò ra. Anh kể đủ mọi thứ chuyện, từ thuở thiếu thời cho đến khi đi du học bên Pháp. Trở về Việt Nam dạy ở Trung học Pétrus Ký và cuối cùng là Giám Đốc hãng xăng Shell Việt Nam cho đến khi mất nước. Nhờ vào chức vụ này, anh và một người tài xế quanh năm dong ruổi khắp các tỉnh miền Nam. Từ Huế dài tới Cà Mau, nơi nào cũng có dấu chân anh. Và không bao giờ quên mang về cho chị những đặc sản ngon nhất của vùng đất anh đã đi qua.
Hình chụp nhà AC bạn Thanh- Ngọc Anh (trong nhóm
TVX)
Mùa thu năm sau anh trở lại Montréal. Chúng tôi lại gặp nhau tại nhà anh chị Thanh-Ngọc Anh. Lại chuyện trò râm ran và những tiếng cười giòn tan không dứt. Anh kể cho chúng tôi nghe giai thoại anh đi học ca vọng cổ. Chuyện là anh đến ghi danh tại một lò luyện cổ nhạc để học ca. Anh khai là thơ ký của Giám đốc hãng xăng Shell. Học được mấy buổi, bất ngờ cô thơ ký thứ thiệt (của anh) xuất hiện. Thì ra cô ta đang ôm mộng trở thành đào hát cải lương. Tất nhiên là cô thơ ký phải rất lính cẩn chào xếp lớn của mình trước cặp mắt kinh ngạc tột độ của vị giáo sư âm nhạc (khỏi nói đến sự lúng túng của ông sếp và cô thư ký!). Kết quả là anh bị... đuổi học vì đã cố tình khai gian! Phải công nhận anh có một giọng hát tuyệt vời. Mạnh và ấm. Anh ca vọng cổ cũng mùi mà hát tân nhạc cũng hay. Bằng chứng là tháng 9 năm 2007 nhân dịp đám cưới con gái chúng tôi, nghe tin anh sang thăm con, chúng tôi đã gọi điện thoại mời anh chị đến chung vui (chỉ còn có mấy ngày). Không ngờ anh chị đã vui vẻ nhận lời. Trong buổi tiệc, anh lên hát La Vie En Rose để tặng các cháu trước sự ngạc nhiên thích thú của quan khách.
Nhưng sự bất ngờ nhất đối với chúng tôi, khi đến nhà con gái anh để đón anh chị đi dùng cơm, là những bức tranh sơn dầu và những bức tranh sơn mài ký tên anh treo trên tường. Thì ra anh còn là một họa sĩ nhà nghề, dù chẳng tốt nghiệp từ bất cứ một trường mỹ thuật nào, chỉ học qua sự chỉ dẫn của bạn bè. Ôi, sao lại có một người tài ba đến như vậy! Theo lời chị kể thì anh Tiểu Tử đã có nhiều cuộc triển lãm tranh ở Paris và tác phẩm của anh bán đắt như tôm tươi.
Năm đó anh hứa mùa thu sang năm sẽ đem dụng cụ vẽ sang Montréal. Hai anh em sẽ
lang thang ngắm và vẽ lá vàng. Nhưng những năm sau đó vì lý do sức khỏe, anh
chị không sang chơi được nữa.
Hình chụp tại Paris 2009 (Thu Tao Ngộ do anh Đỗ Bình tổ chức)
Mùa thu năm 2009, chúng tôi có
dịp sang Paris để ra mắt tuyển tập Món Ăn Theo Bước Chân Di Tản. Tuyển tập được
một số nhà văn ở Mỹ, Canada, Đức, Pháp viết chung với nhà văn Hồ Trường An. Một
cuộc RMS thật thú vị vì có sự hiện diện của hầu hết những cây bút góp mặt trong
tuyển tập như nhà văn Nguyễn thị Ngọc Dung (Tam Cá Nguyệt Cỏ Thơm), nhà thơ Dư
thị Diễm Buồn, nhà văn Tôn Nữ Mặc Giao, nhà văn Duy An Đông, nhà văn Vũ
Nam...Anh Hồ Trường An cũng đến trên chiếc xe lăn. Nhà thơ Đỗ Bình đã cùng một
số anh chị em nghệ sĩ vùng Paris tổ chức cho chúng tôi một buổi RMS thật trang
trọng, tưng bừng và người tham dự đông không đủ chỗ ngồi. Chúng tôi nhận thấy
tinh thần yêu nghệ thuật ở xứ Pháp cao không đâu sánh bằng. Nhân cơ hội này,
chúng tôi được gặp mặt và dùng cơm tối trong một nhà hàng danh tiếng trên đại
lộ Champs Élysée với những cây đại thụ trong giới âm nhạc như giáo sư Lê Mộng
Nguyên, nhà thơ, họa sĩ kiêm Thư pháp danh tiếng lẫy lừng Vũ Hối, nhạc sĩ Lê
Trạch Lựu...vv...Những ca sĩ giúp vui hôm đó cũng là những tên tuổi sáng chói
trong làng văn nghệ Paris. Và sự có mặt của "Anh Hai" khiến tôi cảm
động vô cùng.
Mấy ngày sau cả gia đình chúng tôi được anh chị đãi cơm. Một kỷ niệm vui vui khiến tôi nhớ mãi. Số là tôi có một đôi dép vừa đẹp vừa rất êm chân. Lần nào đi du lịch cũng mang theo. Hôm đến thăm và dùng cơm cùng anh chị, lúc rời xe métro, tôi vô ý để rơi 1 chiếc dép xuống đường rầy. Tôi đành mang chiếc còn lại, đi cà nhắc đến nhà anh chị. Anh Tiểu Tử và cậu con trai ra trạm métro đón chúng tôi, thấy tình cảnh này cũng không nhịn được cười. May quá, chị Tiểu Tử có một đôi giày da mới toanh chưa dùng, lại vừa chân tôi như in mới là may mắn. Đôi giày đó tôi vẫn trân trọng giữ gìn như một kỷ vật quý giá của anh chị hai Tiểu Tử.
Những năm tháng sau này, anh Hai vì lý do sức khỏe nên không thể sang Montréal thăm con cháu, phần tôi vì bận rộn trông cháu nội nên không còn nhiều thì giờ lên Net chít chát như xưa. Chỉ đành thỉnh thoảng hỏi thăm sức khỏe của Anh Chị. Tuy không gặp, nhưng Anh chị có một vị trí thật quan trọng trong lòng tôi.
Anh Hai ơi, em mãi mãi là "con nhỏ Thu" của anh chị. Người anh hiền hòa, vui vẻ, bao dung mà bất cứ người nào đã có dịp gặp qua đều yêu mến. Hạnh phúc tuyệt vời của anh chị luôn là kim chỉ nam cho chúng em noi theo. "Con nhỏ Thu" xin cầu chúc Anh chị sống lâu trăm tuổi. Riêng anh Hai vẫn còn nghị lực sáng tác đều đều. Vì theo em biết, độc giả khắp Năm Châu lúc nào cũng mong đợi và nồng nhiệt đón nhận những đứa con tinh thần của nhà văn Tiểu Tử.
Em của anh Hai
"Con Nhỏ Thu"
Saturday, September 20, 2025
Việt Nam: Thời Né Chữ, Kỵ Húy Lên Ngôi - Tuấn Khanh
Đọc tin tức trên mạng xã hội tiếng Việt dạo gần đây, tự nhiên nhớ nhiều chuyện xưa. Chuyện né!
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, “kỵ húy” là một tập tục quen thuộc:
tên của vua, quan lại, người thân của hoàng tộc phải “né,” không được nhắc đến
trong bất kỳ văn bản, lời nói, hay tác phẩm văn chương nào. Một chữ trùng, dù
chỉ là ngẫu nhiên, cũng đủ khiến dân thường điêu đứng, nhẹ thì đổi tên, nặng
thì vạ miệng, tù đày.
Thời phong kiến qua rồi, ít nhất là về mặt hình thức. Nhưng
trong thời đại mà báo chí quốc tế vẫn gọi là “quyền lực thứ tư,” người dân từng
kỳ vọng báo chí là tiếng nói công chính, là ngọn đèn soi rọi vào bóng tối quyền
lực. Thế nhưng, những gì đang xảy ra gần đây ở Việt Nam lại cho thấy: kỵ húy
như con quái vật đang hồi sinh, lặng lẽ mà nguy hiểm, và lần này, nó không chỉ
đến từ cung vua phủ chúa, mà còn từ những chiếc ghế quyền lực mang danh “phục vụ
nhân dân” hay những thương hiệu được nâng đỡ tầm quốc gia được tô vẽ bằng ngân
sách và truyền thông định hướng.
Trong sử Việt, kỵ húy là thứ không ai dám đùa. Vua Lê Thánh Tông
tên thật là Lê Tư Thành, chữ “Thành” vì thế trở thành điều cấm kỵ. Từ địa danh,
tên người cho đến thơ ca, văn chương, nếu dính dáng đến chữ này thì hoặc là
tránh, hoặc là… chịu tội. Đến thời Nguyễn, khi vua Gia Long tên thật là Nguyễn
Phúc Ánh, chữ “Ánh” vốn rất phổ biến, bỗng trở thành vùng cấm.
Phổ biến nhất, mà dân miền Tây, Nam Việt Nam hay gặp, là trường
hợp họ “Hoàng” – họ vua, khiến dân phải đổi sang “Huỳnh,” “Hình,” hay “Hoằng” để
né húy. Chỉ vì vua mang họ Hoàng, nên muôn dân phải né. Thậm chí, nếu xuất hiện
trong ác mộng, thì cũng phải ú ớ không thành lời.
Ở thế kỷ 21, khi công nghệ và tự do ngôn luận được đề cao bằng cờ,
băng rôn khẩu hiệu ở khắp nơi, cứ tưởng rằng kỵ húy đã nằm lại trong viện bảo
tàng lịch sử. Nhưng ở Việt Nam, hình như tư duy “không được đụng đến tên của
người trên” vẫn tồn tại, chỉ là khoác lớp áo hiện đại hơn.Liên quan đến ông
Nguyễn Sỹ Cương, một cựu quan chức cấp cao, từng giữ chức phó chủ nhiệm Ủy Ban
Đối Ngoại của Quốc Hội. Vào Tháng Sáu 2024, ông ta lái xe gây tai nạn nghiêm trọng,
đâm chết một nữ sinh. Trong thời đại của mạng xã hội, thông tin ban đầu được
lan truyền chóng mặt, nhưng rồi đột nhiên, toàn bộ báo chí chính thống gần như
im bặt như có ai bốc đất nhét vào mồm mấy trăm tờ báo. Không một dòng nào dám
nêu tên ông Cương, không một bài phân tích, phỏng vấn nào dám đề cập sâu dù trên
mạng thấy có đủ nhân chứng và bằng chứng trình bày.
Thời đại của nói giảm, nói tránh hoặc dùng các cụm từ mị ngữ mô
tả đang lên ngôi cao chín tầng. Kiểu như bị đánh thì được nói là “tác động vật
lý.” Kỵ húy, im lặng và trốn tránh hiện ra mọ nơi, như thể gọi tên thật như phạm
phải một loại bùa chú ghê tởm nào đó.
Trong suốt hai tháng qua, trên mạng xã hội gần như ngày nào cũng có những video ngắn dài với những người than thở, những người trách móc, những người tiếc nuối… liên quan đến sản phẩm của VinFast. Cháy, nổ, lật, hư, gây tai nạn… như cơm bữa, khiến ai nấy đang hớn hở đón nhận tin chuyển xăng qua điện đều phải bần thần. Nhưng quái lạ, báo chí trong nước gần như không nhắc đến cái tên “VinFast” trong các bản tin tai nạn. Họ chỉ viết lấp lửng kiểu: “Chiếc ô tô điện bất ngờ bốc cháy,” “một mẫu xe điện thương hiệu Việt gặp sự cố,” tuyệt nhiên không nhắc đến thương hiệu hay dòng xe cụ thể.
Tại sao? Vì đó là một “thương hiệu quốc gia” hay đó là tên của một quan lại cấp cao của triều đình? Hay vì đó là biểu tượng của niềm tự hào dân tộc được hậu thuẫn bằng lợi thế chính sách?… Dù lý do là gì, thì hành vi né, luồn lách chữ nghĩa này, cho thấy một phiên bản hiện đại của kỵ húy thời cổ đại – chỉ khác ở chỗ: ngày xưa dân sợ vua, còn nay như có vẻ báo chí sợ người có tiền, và có thế lực.
Sự khác biệt giữa một xã hội tiến bộ và một xã hội suy đồi,
không nằm ở việc ai được nói, mà nằm ở việc ai không bị bịt miệng. Khi truyền thông
phải né tránh cái tên của một quan chức gây tai nạn chết người, khi báo chí
không dám gọi thẳng tên thương hiệu trong các vụ cháy nổ ảnh hưởng đến tính mạng
người dân, thì đó không còn là đưa tin – mà là tự kiểm duyệt, là cúi đầu, là phục
tùng.
Đó là chưa nói đôi khi những cái mồm đầy đất của báo chí Việt
Nam còn cố tạo ra những kết luận về tai nạn xe điện, mập mờ và ngớ ngẩn bằng những
cái cớ rất bẩn; Loại tẩy trắng sự kiện, cố tẩy trắng cho ông chủ nhưng không
lau hết được sự nhơ nhuốc của mình.
Khi một nền báo chí không thể nêu tên một quan chức vi phạm pháp
luật, khi người dân không thể nhận được thông tin minh bạch về một sản phẩm, mà
được nói là đang có nguy cơ gây nguy hiểm, thì khó có thể nói chúng ta đang
cùng đứng trên chuyến tàu đi vào kỷ nguyên mới. Xin đừng biến đất nước thương
yêu của chúng ta vào thời một chế độ “phong kiến số hóa,” nơi quyền lực không cần
ngai vàng, chỉ cần có tiền và thế lực.
Người ta thường nói: “Lịch sử không lặp lại, nhưng nó có vần.”
Và cái vần ấy, là cái hèn hiện ra của những người được viết, được nói hôm nay. Hèn
để có thêm chút bổng lộc mà đẩy cả dân tộc vào trong mê muội, thì cái hèn đó
chính là tội ác.
Tuấn Khanh
Bệnh Tiểu Đường Nào Nguy Hiểm Hơn? Loại 1 Hay Loại 2?
Bệnh tiểu đường là một
tình trạng y tế nghiêm trọng ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn thế giới.
Có hai loại bệnh tiểu đường chính: Loại 1 và Loại 2. Mỗi loại bệnh tiểu đường
có những đặc điểm, rủi ro và biến chứng riêng. Vậy, loại tiểu đường nào nguy
hiểm hơn?
Bệnh tiểu đường loại 1 là một rối loạn tự miễn dịch, trong đó hệ
thống miễn dịch của cơ thể tấn công và làm hỏng các tế bào sản xuất insulin.
Không có insulin, cơ thể không thể sử dụng glucose (đường) để tạo năng lượng.
Bệnh tiểu đường loại 1 thường phát triển ở trẻ em và thanh niên, và cần tiêm
insulin hàng ngày để kiểm soát. Nếu không được điều trị thích hợp, nó có thể
dẫn đến các biến chứng sức khỏe nghiêm trọng, bao gồm suy thận, bệnh tim và mù
lòa.
Bệnh tiểu đường loại 2 là loại bệnh tiểu đường phổ biến nhất và
thường do các yếu tố lối sống như béo phì và thiếu hoạt động thể chất gây ra.
Nó xảy ra khi cơ thể không thể sử dụng insulin đúng cách, dẫn đến lượng đường
trong máu cao. Mặc dù bệnh tiểu đường Loại 2 có thể được kiểm soát bằng cách
thay đổi lối sống và dùng thuốc, nhưng nó vẫn có thể dẫn đến các biến chứng sức
khỏe nghiêm trọng, chẳng hạn như bệnh tim, đột quỵ và tổn thương thần kinh.
Vậy loại tiểu đường nào nguy hiểm hơn? Câu trả lời phụ thuộc vào một số yếu tố.
Bệnh tiểu đường loại 1
nguy hiểm hơn bệnh tiểu đường loại 2 trong thời gian ngắn, vì nó có thể gây ra
các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng và đột ngột nếu không được điều trị đúng cách.
Nếu không có insulin, những người mắc bệnh tiểu đường Loại 1 có nguy cơ bất
tỉnh, hôn mê và thậm chí tử vong. Bệnh tiểu đường loại 1 cũng làm tăng nguy cơ
phát triển các tình trạng sức khỏe nghiêm trọng khác, chẳng hạn như bệnh tim, đột quỵ và tổn thương thần kinh.
Tuy nhiên, bệnh tiểu
đường Loại 2 nguy hiểm hơn về lâu dài. Điều này là do nếu không được điều trị
hoặc quản lý kém, nó có thể dẫn đến các biến chứng sức khỏe nghiêm trọng, chẳng
hạn như bệnh tim, đột quỵ và
suy thận. Theo thời gian, cơ
thể có thể trở nên đề kháng với tác dụng của insulin và lượng đường trong máu
có thể trở nên cao một cách nguy hiểm. Ngoài ra, những người mắc bệnh tiểu
đường Loại 2 có nguy cơ cao mắc các tình trạng sức khỏe nghiêm trọng khác,
chẳng hạn như mất thị lực và cắt cụt chi.
Nhìn chung, cả bệnh
tiểu đường Loại 1 và Loại 2 đều có thể nguy hiểm nếu không được điều trị đúng
cách. Cách tốt nhất để giảm nguy cơ biến chứng từ một trong hai loại bệnh tiểu
đường là tuân theo lối sống lành mạnh, duy trì lượng đường trong máu khỏe mạnh và
hợp tác chặt chẽ với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn.
Sưu tầm
Thơ Quậy: Vần "U"
Vài Kỷ Niệm Với Cố Tỉnh Trưởng Sóc Trăng (Ba Xuyên) Quách Hùynh Hà - Người Phương Nam
Ông Quách Hùynh Hà với gia đình chúng tôi không có liên hệ huyết
thống gì với nhau nhưng do đời cha mẹ rồi xuống tới đời má và dì, hai bên gia
đình chung sống cùng một mái nhà, có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo, chăm sóc đùm
bọc lẫn nhau trong thời chạy giặc Việt minh. Do đó tới thế hệ chúng tôi, tình
thân vẫn khắng khít đậm đà như bà con ruột thịt, dù sau 75 mỗi người tản mác một
nơi, Âu, Úc, Mỹ.
Friday, September 19, 2025
Lưạ Chọn Nào Quan Trọng Trong Cuộc Đời?
1. Tham hay không tham?
Tham thì nhận quả của tham,
Không tham thì nhận quả của ‘không tham’,
Mình không tham, nhưng muốn người khác không tham giống mình, thì đó vẫn là tham vi tế.
2. Lựa chọn hay nỗ lực?
Cả hai, vừa lựa chọn vừa nỗ lực.
Nhưng mới bước ra đời thì làm gì có nhiều sự lựa chọn để mà chọn,
Nên đời cho cái gì để làm thì ráng mà nỗ lực cho đàng hoàng,
Khi mình đàng hoàng được với cả cái mình không thích thì có cái gì mình ngại trên đời nữa.
3. Cố gắng hay may mắn?
Càng cố gắng càng may mắn !
4. Nhìn sâu hay nhìn thoáng?
Đỉnh cao của ‘nhìn sâu’ chính là ‘nhìn thoáng’.
Ở đời có 2 kiểu nhìn thoáng,
Một là không có nhu cầu hiểu, mackeno (mặc kệ nó), lướt qua cho
nhanh.
Hai là quá hiểu rồi, đã nhìn đủ sâu rồi, nên bắt đầu nhìn thoáng
đi.
Nó tương tự đoạn thiền ngữ:
Chưa tu, thấy núi là núi, thấy sông là sông,
Đang tu, thì thấy núi không phải là núi, thấy sông không phải là
sông,
Tu xong rồi thì thấy núi vẫn là núi, và sông vẫn là sông.
5. Tu hay không tu?
Ai cũng đang tu cả, đó là bắt buộc của tự nhiên và nhân quả,
Chỉ khác là, có người phòng bệnh trước, và có người đợi bệnh tơi tả rồi mới uống thuốc.
6. Bản ngã hay vô ngã?
Ngã gì cũng được, đừng làm phiền ai là được.
7. Lý hay tình?
Lý tính quá thì khô khan,
Tình cảm quá thì không thực tế,
Vừa lý vừa tình, linh hoạt theo tình huống, nhưng nền tảng vẫn phải đúng nhân quả mà làm.
8. Hành trình hay đích đến?
Đích đến cũng là một phần của hành trình,
Tại sao không vui hay hạnh phúc trên cả hành trình và cả đích đến.
9. Biết nhiều hay biết ít?
‘Biết điều’ là được.
10. Dũng cảm tiếp tục hay dũng cảm từ bỏ?
Dũng cảm tiếp tục cái sẽ làm mình tốt lên,
Dũng cảm từ bỏ cái đang làm mình tệ đi.
tốt hay tệ thì theo định nghĩa riêng của mỗi người.
11. Tích cực hay tiêu cực?
Không quan trọng,
Quan trọng là thấy ra được, và chấp nhận được, những khả năng có
thể xảy ra,
Hoặc trên thước đo của mỗi người, chấp nhận điều tốt nhất và cả
điều xấu nhất có thể xảy ra.
Lạc quan không căn cứ thì thành chủ quan,
Bi quan không căn cứ thì thành Tai-wan.. hay quan-tài.
12. Thiện hay ác?
Cha đánh con, vì thương nó muốn dạy cho nó nhớ, thì chưa chắn đã
ác,
Nhưng Cha đánh con, vì đã hả hê cơn giận, thì đường ác cũng khó
tránh.
Nên ở đời, cái trông giống thiện chưa chắc đã thiện,
và người ta vẫn đang nhân danh cái thiện để che giấu nhiều cái tâm tham ở đằng sau.
13. Sống hay chết?
Còn sợ chết thì chưa thực sự sống.
14. Thiên đường hay địa ngục?
Cái giây phút mà mình mất đi sự định tĩnh và sáng suốt thì mình
đã sống ngay trong địa ngục ngay lập tức rồi.
Còn ngược lại, lúc nào cũng biết mình, thận trọng và đàng hoàng trong từng cái nhỏ, thì thiên đường luôn ở đây.
15. Trình độ hay thái độ?
Vẫn có trình độ ảo, trình độ real.
Nên chưa chắc người có trình độ đã có thái độ,
Nhưng người có thái độ thì chắc chắn phải có trình độ cao.
16. Tỉnh hay mộng?
Người đang mộng thì hay nói về tỉnh,
Còn người đã tỉnh thì không còn gì để nói nữa.
17. Khổ hay diệt khổ?
Càng muốn diệt khổ thì càng khổ trong khổ,
Khi thấy khổ không phải là khổ thì ngay đó là diệt khổ…
Vì cơ bản là chúng ta không thể diệt một cái không có thật được.
Sưu tầm