Tuesday, September 30, 2025

Mưa Mùa Tháng Chín - Đỗ Công Luận

Ông Tư Vé Số - Lê Đức Luận


Từ ngày về hưu, Ông Tư thong thả, nhưng buồn! Hằng tuần, vào buổi sáng thứ Bảy, sau ngày xổ số Powerball Lottery, ông thường lang thang trong khu Phước Lộc Thọ, mong tìm gặp các bạn già rủ nhau uống ly cà phê, tán gẫu sự đời, bình luận thời sự chính trị... cho qua thì giờ.

Gần 12 giờ, chia tay các bạn già, ông thả bộ vào một tiệm 7- Eleven gần đó mua một tấm vé số Powerball, rồi về nhà ăn trưa.

Nếu chỉ có thế thì không có gì đặc biệt để viết thành một truyện ngắn?

Nhưng ông Tư là một ông già đặc biệt và khác người. Thế mới nên truyện. Xin kể lại cho bà con nghe chơi...

Cái đặc biệt là ông vào tiệm 7- Eleven chỉ để mua vé số. Và chỉ mua độc một vé Powerball thôi! Rồi đi ra khỏi tiệm - không hề nhìn ngang, ngó dọc xem trong tiệm có bán thứ gì.

Cái khác người là dù nắng, mưa, nóng, lạnh thế nào ông cũng khoác chiếc jacket lính rằn ri, đầu đội mũ nồi (beret) màu xanh đậm, mặc quần jean, chân đi dép nhựa, trông không giống ai! Bao nhiêu năm nay ông vẫn mặc như thế khi vào tiệm 7- Eleven. Và như một lịch trình cố định, ông chỉ xuất hiện mỗi tuần một lần vào ngày thứ Bảy, đúng 12 giờ trưa.

Và nếu chỉ có thế thì cũng không có gì hấp dẫn để viết!

Nhưng câu chuyện trở nên dài dòng bắt đầu từ hai nhân viên đứng bán hàng trong tiệm 7- Eleven. 

Tiệm 7- Eleven thường chia 3 ca (shift) làm việc trong 24 giờ, mỗi ca 8 tiếng đồng hồ: sáng, chiều và tối. Thịnh và José làm ca sáng - từ 6 giờ sáng đến 2 giờ chiều. Hai anh thanh niên này cùng lứa tuổi, có hoàn cảnh khiêm tốn giống nhau, nên dễ chơi thân. Thịnh được vào nước Mỹ nhờ theo cha trong diện HO. José, người Mexico được thân nhân bảo lãnh vào nước Mỹ thông qua chương trình di dân. Họ là đôi bạn năng nổ và cầu tiến - sáng làm việc ở 7-Eleven, chiều đi học ở Đại học Cộng đồng (Community College). Cả hai cùng ấp ủ “giấc mơ Mỹ - American dream…”

Tình bạn mỗi ngày thêm gắn bó. Thịnh muốn học tiếng Tây Ban Nha (Spanish), José muốn học thêm tiếng Việt để tạo thêm cảm tình và phục vụ tốt cho khách hàng vì đa số khách hàng ở tiệm này là người Mễ và người Việt. Thế là hai đứa chỉ dạy ngôn ngữ cho nhau….

Một hôm, Ông Tư vào mua vé số như thường lệ. Tiệm có hai cái máy tính tiền, Thịnh một máy, José một máy. Ông Tư sắp hàng chờ trả tiền vé số. Lúc đó tới phiên José bấm máy.

Những lần trước, khi chưa học tiếng Việt, mỗi lần tính tiền, José vui vẻ nói với Ông Tư bằng tiếng Anh: “Hi Mr Tư. Good luck!” (Chào ông Tư. Chúc may mắn!)

Ông Tư đáp ngắn gọn: “I hope! Tôi hy vọng vậy!” Rồi bước ra khỏi tiệm. Nhưng lần này, sau khi học được một số tiếng Việt, nó muốn thực tập, nên nói: 

- Hi cô Tư! Chúc may mắn!

Ông Tư quắc mắt nhìn nó, rồi đổ quạu, quát: 

- Không được gọi tôi như thế! Hiểu chưa?

Nghe Ông Tư to tiếng mắng thằng José, Thịnh quay sang hỏi, mới rõ nguồn cơn. Thịnh xoa tay từ tốn, nói với Ông Tư: 

- Xin lỗi ông Tư, con dạy nó nói tiếng Việt, mới bì bõm mà nó muốn trổ tài. Xin Ông Tư thông cảm, tha lỗi cho nó.

Chẳng nói năng gì, Ông Tư quay lưng ra khỏi tiệm. Thằng José tỏ vẻ lo lắng!

Nó lo lắng bởi vì chuyện này mà đến tai quản lý, có thể nó mất việc vì cái lỗi: “làm mếch lòng khách hàng!” Đối với José, tìm được một chân bán hàng trong tiệm 7- Eleven là điều may mắn, là một cái job thơm! Các bạn bè người Mễ của nó làm việc chân tay nặng nhọc, chịu cảnh nắng mưa vất vả mà tiền kiếm được không hơn nó bao nhiêu, lại không có bảo hiểm sức khỏe. Còn nó làm ở đây, tuy lương không cao, nhưng ổn định, vừa đủ sinh sống và chi phí cho việc học hành để thực hiện “giấc mơ Mỹ”. Trước khi nhận việc, nó qua một tuần huấn luyện và câu châm ngôn “Customer First” (Khách hàng là trên hết) phải thuộc nằm lòng. Cho nên nó cố gắng học tiếng Việt để phục vụ tốt cho khách hàng Việt Nam. Nhưng oái oăm thay, tiếng Việt lắm nhiêu khê đã gây nguồn cơn lo lắng cho nó. Hiểu được nỗi lo của bạn, Thịnh an ủi:

- Không sao đâu, nếu manager biết được chuyện này cũng thông cảm và biết đâu ổng còn khen mày có tinh thần cầu tiến trong việc tìm cách phục vụ tốt cho khách hàng. Cái lỗi là do tao dạy tiếng Việt cho mày chưa đến nơi đến chốn.

José bày tỏ:

- Thì khi nãy, tao nghe mày nói: “chào cô Tư” - trông bà ta vui ra mặt. Tao tưởng đó là lời chào “làm vui lòng khách”.

Thịnh suy nghĩ, giải thích cho José hiểu được cách xưng hô ở ngôi thứ hai trong tiếng Việt khó quá, nhưng cũng cố gắng giải thích:

- Cách xưng hô ngôi thứ hai của tiếng Việt rất phức tạp, không đơn giản như trong tiếng Anh: già, trẻ, gái, trai đều dùng tiếng “you”. Trong tiếng Việt thì có nhiều tiếng gọi sao cho phù hợp vai vế, giới tính và tuổi tác. Người lớn tuổi thì: ông, bà, chú, bác, cô, dì, anh chị… Người nhỏ tuổi hơn mình thì gọi là em - tiếng “em” dễ dùng nhất trong tiếng Việt, vì không phân biệt giới tính.

Nhưng tao lưu ý mày khi dùng tiếng “em” với những cô gái nhỏ tuổi chưa quen thân để tránh bị mắng hay bị tình nhân của cô ta cho ăn đòn. Mày phải thêm tiếng “cô” vào và nói: “cô em” mới phải phép. Mày hiểu rõ chưa?

Thằng José vừa cười vừa nói:

- Thiệt là điên cái đầu!

Thịnh chỉ thêm:

- Trong tiếng Việt, người ta còn dùng “nickname” để xác định một nhân vật có thói quen hay cá tính, hoặc tướng mạo đặc biệt khi nói về họ với lòng thương mến hay nhạo báng như: “Anh Ba Nhà Thờ”, “Ông Tám Dê”; “Cô Năm Điệu” ...

Thằng José để ý điều này. Thứ Bảy tuần sau ông Tư trở lại. Khi bấm máy tính tiền và đưa vé số cho ông Tư, thằng José muốn lấy cảm tình, nó áp dụng ngay những điều học được:

- Chào “Ông Tư Vé Số”! Chúc may mắn…

Ông Tư cười vui vẻ, đáp lời:

- Hy vọng như thế!

Lần này ông Tư không tỏ vẻ nghiêm nghị mà nán lại vài phút nói chuyện với José.

Khi ông Tư ra khỏi tiệm, Thịnh nói với José:

- Tao dạy mày, nhưng chưa hết sách. Người ta chỉ dùng nickname khi nói vui với bạn bè cùng lứa tuổi đã có chung những kỷ niệm hoặc nhắc đến cái nickname để dễ nhớ ra một người bạn thân xa nhau lâu ngày. Không nên gọi cái nickname khi nói chuyện trực tiếp với họ. Khi nãy mày nói: “Chào Ông Tư Vé Số” là không phải cách.  “Ông Tư Vé Số” được coi là nickname của ông ta. Nhưng khi mày gọi cái nickname ấy, ông tỏ ra vui vẻ. Như thế là ổng khoái cái tên này. 

Từ đó, cái tên “Ông Tư Vé Số” được thằng José gọi mỗi khi thấy ông Tư vào tiệm. Và cũng từ đó, ông Tư nói chuyện thân mật với thằng José như đôi bạn vong niên tri kỷ.

Một hôm, thấy ông Tư vui, thằng José gợi chuyện:

- Sao ông Tư cứ mua vé số sau ngày xổ? Nếu đã có người trúng thì số tiền bắt đầu chỉ vài chục triệu, nhưng mua trước khi xổ một vài ngày, số người mua số tăng lên, khi trúng lô độc đắc có thể tăng lên năm, bảy chục triệu.

Ông Tư gật gù:

- Ta hiểu! Nhưng ta mua vé số là mua cái hy vọng - mua sau khi xổ số, ta có 7 ngày hy vọng. Còn mua vé số trước khi xổ một ngày, ta chỉ có 12 giờ hy vọng. Nhà ngươi hiểu ý của ta chưa?

Cả hai cùng cười…. Câu chuyện trên được Thịnh kể lại với gia đình trong bữa cơm chiều. Cha Thịnh ngồi nghe, cười tủm tỉm… rồi kể thêm chuyện đời của “Ông Tư Vé Số”:

- Ông ta mua vé số từ khi tụi bây còn để chởm kìa. Bây giờ ông ta “giả dạng thường dân”, chứ trước năm 1975, ông đã có “một thời vang bóng”- từng là một luật sư nổi tiếng ở Sài Gòn, rồi được bổ làm chánh án nhiều năm ở một tỉnh miền Trung dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa - một ông quan tòa công minh liêm chính được mọi người kính trọng.

-------

Đến tháng Tư năm 1975, chính quyền Miền Nam sụp đổ, ông Tư được chế độ Cộng sản “khoan hồng” nhờ cái phẩm hạnh đó, nên chỉ đưa ông vào trại “tập trung cải tạo” - đốn gỗ, chặt giang, kéo xe trâu trên núi rừng Việt Bắc trong vòng 6 năm - rồi thả cho về nhà. 

Sống ở Sài Gòn vài năm, dưới chế độ mới, người ta cai trị bằng “luật rừng”. Ông không chịu nổi trước cảnh bất công, ngang trái… nên năm 1984 ông tìm đường vượt biên và được định cư ở Mỹ. 

Sang đây, như con cá ở trong sông, hồ… bây giờ trôi ra đại dương bao la. Ông chới với! Trước đây, ông sống trong nước chỉ áp dụng “luật rừng”, bây giờ sang một xứ có cả một “rừng luật”- không biết đâu mà lần! Ông bỏ ước mơ đi làm thầy kiện! Tức là trở lại nghề luật sư.

Ông tính chuyển nghề - đi làm thợ! Nhưng than ôi! Sức lực đã để lại nơi núi rừng Việt Bắc. Hiện tại, chỉ còn tấm thân già nua, gầy yếu không làm nổi những công việc nặng nhọc khi làm thợ mộc, thợ nề; cũng không kham nổi lối làm việc dây chuyền trong nhà máy.

Những người như ông, người đời gọi là “thứ lỡ thầy lỡ thợ”! Nhưng ông không nản lòng vì đang được thở hít cái không khí tự do trên một xứ sở có nhiều cơ hội.

Một ngày đẹp trời, ông tìm ra cái nghề không có tên trong tự điển là “nghề cắt chỉ” - cắt chỉ trong các shop may - mỗi ngày lãnh được 20 đô la tiền mặt. Đủ để nuôi thân! Những buổi sáng, đứng đợi xe bus đi đến shop may, trời lạnh căm căm, ông ôm lon guigoz cơm còn chút hơi ấm mà bà vợ mới bới khi sáng, cho đỡ buốt đôi bàn tay. Lúc đó, ông mơ: “Có được chiếc xe hơi, chạy vèo một mạch đến shop may cho đỡ lạnh cái thân già.” Nhưng mỗi ngày chỉ kiếm được 20 đô la. Trong 20 đô la đó phải chi ra nhiều thứ cho con, cho vợ. Vậy thì biết đến bao giờ mới đủ tiền mua được chiếc xe? Ông nghĩ: “May ra... chỉ khi nào trúng số!” Thế là từ đó, mỗi tuần ông mua một tấm vé số Powerball.

Một năm trôi qua, tuy chưa trúng số, ông cũng gom góp mua được chiếc xe Toyota Corolla cũ - tuy cũ nhưng bộ phận điều hòa không khí còn tốt - trời lạnh bật “hít” (heat); trời nóng vặn “e” (air conditioning). Ông đi làm thoải mái bằng xe hơi - chẳng ngại nắng, mưa, nóng, lạnh…

Gần 2 năm sau, ông xin được việc làm trong sở An sinh Xã hội. Lúc này tiền lương khá hơn, ông cảm thấy ở trong căn chung cư (apartment) chật chội mà mỗi tháng trả tiền thuê quá đắt. Ông mơ đến chuyện mua một căn nhà. Nhưng tiền lương mỗi tháng, sau khi trả tiền thuê nhà và mọi chi phí cho gia đình chỉ còn dư vài trăm đô la. Vậy biết đến bao giờ mới đủ tiền đặt cọc (down payment) để mua một căn nhà? Ông nghĩ: “May ra… chỉ khi nào trúng số!” Thế là hằng tuần ông ra tiệm 7- Eleven mua một tấm vé số Powerball. Nhưng 4 năm sau, tuy chưa trúng số, ông vẫn mua được một căn nhà vừa ý: rộng rãi, khang trang... có sân trước, vườn sau nhờ gom góp tiền để dành và tiền của vợ con kiếm được qua công việc làm bồi bàn của con, phụ bếp cho nhà hàng của vợ.

Mỗi buổi chiều đi làm về, ngồi dưới bóng cây mát rượi sau vườn, ông cảm thấy tâm hồn thư thái, bình an... Đã qua rồi những ngày âu lo, cơ cực cho bản thân và gia đình. Ông nghĩ, được như thế này là may mắn cho cuộc đời của một người tị nạn.

Những năm làm việc trong sở An sinh Xã hội, ông tiếp xúc với nhiều người tị nạn có hoàn cảnh khó khăn. Ông hết lòng giúp đỡ họ hoàn tất các thủ tục giấy tờ để sớm nhận được những trợ cấp của chính phủ Hoa Kỳ. Ông xem đây là một cách trả ơn cho đời. Đối với những người tị nạn Việt Nam mới sang, ông luôn hỏi thăm tình trạng sinh sống của đồng bào mình ở bên nhà. Ông nghe kể những thảm cảnh ở nhà thương công: hai bệnh nhân nằm chung một giường vẫn không đủ chỗ, phải nằm dưới gầm giường hay nằm la liệt ngoài hành lang. Thuốc men, chữa trị thì những người có tiền, có “phong bì bôi trơn” được chiếu cố, còn dân nghèo thì “được chăng hay chớ...”

Ông Tư xúc động! Ông nhớ lại thời thơ ấu, sống trong vùng Liên Khu 5 do Việt Minh kiểm soát. Thuốc tây rất hiếm, khi đau bệnh người ta thường uống thuốc bắc hoặc dùng thuốc nam. Cha ông làm thầy thuốc bắc nổi tiếng. Dân chúng trong vùng gọi là ông Thầy Hai. Nhiều bệnh nhân ở xa đến ở trọ nhà ông, chờ cha ông bắt mạch, hốt thuốc. Còn thân nhân của họ ở tạm trong căn lều ngoài vườn. Họ sắc thuốc cho bệnh nhân uống tại chỗ. Chờ năm ba hôm, có khi cả tuần lễ, khi bệnh tình thuyên giảm mới đem nhau về nhà.

Những sự việc đó đã đi vào ký ức. Khi lớn lên, ông nhủ với lòng mình - khi có quyền thế hay tiền bạc, điều đầu tiên ông sẽ làm là xây nhiều bệnh viện phục vụ dân nghèo.

Khi được định cư ở Mỹ - ngày tháng trôi qua - 5 năm, rồi 10 năm… cho đến khi tuổi đời đi vào xế bóng mà ông vẫn không có quyền, cũng chẳng có tiền. Niềm ước mơ xây bệnh viện coi như xa vời.

Nhưng ông không nản lòng. Ông vẫn nuôi hy vọng, hy vọng trúng số độc đắc! Thế là ông tiếp tục mua vé số. Ông ước mơ: khi trúng số độc đắc, ông sẽ xây 1 bệnh viện ngay ở quê nhà - đặt tên là “Bệnh Viện Thầy Hai” để tưởng nhớ người cha kính yêu và cứu giúp bà con trong xã, trong huyện..

Qua tuổi 80, ông Tư vẫn chưa trúng số. Nhưng cái “bệnh tưởng” khiến ông nhiều đêm mất ngủ. Ông nghĩ một mai trúng số mà giao tiền cho bọn quan tham xây bệnh viện thì rách việc. Phải thành lập một ban cố vấn cho việc xây dựng và điều hành bệnh viện bởi những người bạn thân tín có bằng cấp chuyên môn, gồm: một kiến trúc sư, một luật sư, một bác sĩ và một người kế toán có bằng CPA. Nhiều đêm thao thức, ông đã chọn đủ người. Nhưng rồi lần lượt hay tin ông bác sĩ quy tiên, ông kiến trúc sư mắc bệnh run tay (parkinson), ông luật sư thì mất trí nhớ (bệnh alzheimer), ông kế toán đã về Việt Nam theo bồ nhí. Thế là cái ban “Tham mưu, Cố vấn” coi như rã đám....

Một hôm tình cờ, Ông Tư đọc một truyện ngắn có tựa đề: “Trúng Số Độc Đắc” của nhà văn Tràm Cà Mau. Truyện kể rằng: “Vợ chồng nhà nọ mua một tấm vé số. Ngày xổ số chưa đến mà vợ chồng đã bàn tính với nhau sẽ cho bên chồng bao nhiêu, bên vợ bao nhiêu. Chị vợ kê một lô tên sẽ cho bên nhà mình và cắt tên những người bà không ưa bên nhà chồng và bắt anh chồng thề sẽ không cho những người bồ cũ của anh ta một xu. Anh chồng thấy bất công, tỏ vẻ không hài lòng. Thế là hai bên cãi nhau. Chị vợ khóc bù lu bù loa và đem những chuyện ngày xửa ngày xưa ra kể tội anh chồng và đòi ly dị. Anh chồng tức quá ra ngoài hút mấy điếu thuốc mới thấy tỉnh táo, rồi vào nhà nói với vợ: Em muốn ly dị thì OK, nhưng khi ra toà, ông quan tòa hỏi lý do gì mà xin ly dị thì trả lời làm sao cho ổn? Chẳng lẽ khai rằng: vì chia tiền không công bằng trên tấm vé số chưa xổ. Như thế người ta cười cho thối mũi... Chị vợ ngước lên nhìn chồng, im lặng... và tỏ ra nhũn nhặn. Anh chồng thương hại, cúi xuống lau nước mắt cho vợ. Chị vợ cảm động, thốt lên: Thôi đừng mong trúng số độc đắc nữa!” Đến đây ông Tư ngưng đọc, lẩm bẩm: “Vớ vẩn! Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng!” Rồi ông nghĩ lại những toan tính của mình đã làm nhiều đêm mất ngủ cũng vớ vẩn không khác gì chuyện hai vợ chồng nhà nọ. Từ đó, vắng bóng Ông Tư ở tiệm 7- Eleven gần khu Phước Lộc Thọ vào những trưa thứ Bảy. Thịnh và José có ý mong chờ...

Khoảng 3 tháng sau, cha của Thịnh cho hay tin: Ông Tư đã vào Viện dưỡng lão. Ông không còn uớc mơ trúng số độc đắc mà chỉ mong khi chết được khoác chiếc áo jacket lính rằn ri và đội cái mũ beret màu xanh đậm mà người bạn tâm giao đã tặng ông, trước khi anh ta đi vào chiến trường An Lộc. Nếu không có hai câu thơ: “An Lộc địa sử ghi chiến tích / Biệt Kích Dù vị quốc vong thân” * của một cô giáo trẻ ở Bình Long vinh danh sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù với những trận thư hùng oanh liệt ở Thị xã An Lộc đã được ghi vào Quân sử Việt Nam Cộng Hòa, thì nhiều người sẽ không biết đến địa danh này.

Gần 60 năm trôi qua, người bạn tâm giao đã nằm lại với An Lộc kiêu hùng. Còn ông Tư đã trải qua bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống, ông vẫn giữ chiếc jacket lính rằn ri với cái mũ bê rê màu xanh đậm mà người bạn tâm giao đã tặng. Ông coi đó như là hai kỷ vật thân thương của ông.

Bây giờ, ông chỉ còn một ước mong - khi lìa bỏ nhân gian, đi vào cõi vĩnh hằng, xin người đời nhớ cho hai kỷ vật này được theo ông về với đất…


*Cô giáo tên Pha - dạy Tiểu học ở một trường trong thị xã An Lộc.


Lê Đức Luận

Em Đã Cho Tôi - Nguyễn Duy Phước

Monday, September 29, 2025

Đúng, Sai - Khánh Trường

Hai hôm trước một cô em, cũng cầm bút, đến thăm, nhân tiện đề nghị, nếu sức khỏe không cho phép tôi gõ chữ thì cô ấy sẽ giúp, tôi chỉ cần nói qua băng ghi âm, cô em chép lại rồi giao cho tôi nhuận sắc.  

Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, qua trao đổi riêng, vẫn nhiều lần khuyên tôi nên viết hồi ký.
   
Theo hai người, do một thời chủ trương tạp chí Hợp Lưu, tôi có điều kiện tiếp cận và rành rất nhiều chuyện của giới văn nghệ sĩ cũng như văn học hải ngoại lẫn trong nước, nếu tôi không làm thì rồi mọi sự cố sẽ trôi vào lãng quên, thiệt thòi cho văn học Việt Nam, uổng lắm.
   
Thực ra dù sức khỏe mỗi ngày thêm tệ nhưng nếu cố tôi cũng có thể tiếp tục bày tỏ mọi chuyện qua bàn phím, ngặt nỗi, vì nhiều lý do, tôi chả còn quan tâm đến bất cứ chuyện gì, nhất là những chuyện đã xảy ra trên dưới ba mươi năm trước. Ba mươi năm, thời gian đủ dài để phần lớn nhân sự đã vùi sâu trong đất, số ít còn lại thì gần đất xa trời hay đã rời bỏ cuộc chơi. Mọi chuyện, từ văn chương nghệ thuật đến thời thế, hướng nhìn… đổi thay từng ngày, từng tháng, huống gì khoảng cách thời gian rộng dài như đã! Ba mươi năm, nhiều thế hệ kế tục ra đời, càng lúc càng gần như không hệ lụy với quá khứ. Khơi lại đống tro tàn đã nguội lạnh, dù chỉ để làm chứng tích, phỏng ích gì?! Thời đại mới, với phương tiện truyền thông hiện đại, mọi sự kiện, sự việc, nhìn từ nhiều phía, chủ quan lẫn khách quan, đầy ngập trên mạng, chỉ vài thao tác giản dị, là ai cũng có thể tiếp cận. Tiếng nói của tôi chẳng những không làm giàu thêm kho tư liệu vốn đã mênh mông, ngược lại, do quan điểm riêng khó tránh khỏi, chỉ tổ làm mọi chuyện vốn đã rối mù càng thêm rối.
   
Lợi bất cập hại!
   
Hơn thế, tôi sống đủ lâu để thấy, như người bạn vong niên của tôi, nhà văn Mai Thảo, đã thấy, mọi chuyện đều “chả ra cái đếch gì”. Tất thảy, từ con người, xã hội, quan điểm, biến cố lịch sử… cuối cùng đều... chả ra cái đếch gì! Trời vẫn xanh, mây trắng vẫn bay, cây vẫn đúng mùa đâm chồi, nở hoa, kết trái, người vẫn hết thế hệ này sang thế hệ khác, thể chế kia tàn, chế độ nọ thay, quân chủ suy vong, tư bản lên ngôi, cộng sản ra đời… Chuyện có thể đúng vài mươi năm, thậm chí vài trăm năm, hay lâu hơn, vài ngàn năm, nhưng rồi sẽ sai vào thời kỳ nào đó. Chúng ta ngày nay ai cũng biết trái đất tròn, thế mà đã có lúc người ta xác quyết trái đất phẳng như cái bánh tráng, ai không đồng ý sẽ lập tức bị đưa lên giàn hỏa! Đâu là chân lý đích thực? Vào thời kỳ quân chủ thiên tử là chủ nhân của giang sơn, dân đen là con cái, ông “con trời” cho sống được sống, bảo chết phải chết. Cũng dưới chế độ quân chủ, đàn ông được quyền năm thê bảy thiếp, đàn bà xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, nếu chửa hoang sẽ bị gọt tóc bôi vôi, ngoại tình sẽ bị bỏ rọ thả trôi sông. Nay, tổng thống nếu lỗi, nhẹ: bị đàn hạch, về vườn trồng rau nuôi gà, hú hí với đấng hiền thê. Nặng: nằm nhà đá nhẩn nha gỡ lịch. Và nam nữ bình quyền, phái “yếu” ngang hàng với các đấng mày râu trong mọi lĩnh vực, đàn bà làm tổng thống, thủ tướng, tư lệnh quân đội, chuyện thường. Tôi đã đọc đâu đó ý này: Điều duy nhất thường hằng là lẽ vô thường, mọi chuyện đã, đang và sẽ đổi thay. Cũng có nghĩa không có gì đúng hoặc sai vĩnh viễn, đúng sai tùy thuộc vào quan niệm, phong tục, tập quán từng vùng miền, từng dân tộc, từng thời điểm, từng bối cảnh…
   
Ở Tây Tạng, đàn bà được quyền có nhiều chồng, em trai sẽ thay vị trí của anh nếu ông ta qua đời. Phong tục này bắt nguồn từ quan niệm không muốn tài sản của gia tộc rơi vào tay người khác, Ở Alasca, khách đến nhà nếu ngủ lại đêm, vợ sẽ chung giường với khách. Lý do: thời tiết nơi này rất khắc nghiệt, luôn dưới độ âm, vợ là cái “mền da” giúp khách “lên mây” để sau đó mệt nhoài say giấc trong vòng tay ấm áp của nữ gia chủ. Tại một vài bộ lạc ở Châu Phi, trẻ gái buộc phải cắt âm hạch, để sau này lớn lên khỏi tò te rí ré, hoặc không được xem là trưởng thành nếu chưa mất đi cái mà một thời mọi dân tộc, không loại trừ Đông Tây cực kỳ coi trọng, ví như bảo vật giá đáng nghìn vàng: tiết trinh! Đại Hàn, một trong hai con rồng của châu Á, chỉ đứng sau Nhật, được xem là quốc gia văn minh tiến bộ về mọi mặt, thế nhưng ở nhiều làng mạc nông thôn chuyện anh em  chú bác thành phu thê là chuyện “thường ngày ở huyện”, dù qua truyền thông, báo chí, sách vở, kể cả giáo dục học đường người ta đã cảnh báo hôn nhân cận huyết có thể mang đến nhiều hậu quả tai hại, trẻ chậm phát triển, thậm chí xác suất dị tật, quái thai rất cao. Tại một quốc gia Trung Đông nhỏ bé tôi không nhớ tên, dân số chỉ trên một triệu hai trăm ngàn, rất giàu có và tiên tiến, nhờ tài nguyên dầu mỏ, GDP bình quân đầu người cao ngất ngưởng (nếu tôi nhớ không lầm hình như trên 50.000 đô một năm). Hầu hết công dân có mức sống no đủ trên trung bình, y tế và giáo dục miễn phí, di chuyển trên những chiếc xe hơi đắt giá cáo cạnh, ngụ cư trong những ngôi nhà trần cao cửa rộng, tiện nghi hiện đại, máy điều hòa không khí hoạt động quanh năm, mùa hè mát lạnh, mùa đông ấm áp, do chính phủ cấp miễn phí, hoặc chỉ trả tượng trưng một đô la. Đất nước này xem chuyện dựng vợ gã chồng trong quan hệ cận huyết là chuyện tất nhiên, không việc gì phải bàn cãi lôi thôi. Ngay tại Giao Chỉ ta, vào thời nhà Trần, để duy trì quyền lực của dòng họ hầu không lọt vào tay ngoại tộc, hôn nhân cận huyết cũng được chấp thuận. Đức Trần Hưng Đạo mà hậu thế tôn xưng là bậc Thánh vì đức độ và võ công tái thế, hai lần chiến thắng giặc Nguyên, lấy cô ruột của mình làm vợ. Ngày nay nhiều dân tộc thiểu số ở miền cao miền xa vẫn xem hôn nhân cận huyết là tập tục cần phải duy trì, anh em ruột được quyền lấy nhau thoải mái.
   
Còn nhiều nữa những quốc gia thuộc châu Phi, châu Á, Trung, Cận Đông… cho đến bây giờ vẫn nhất định bảo lưu những tập quán mà chúng ta xem là lạc hậu, phi đạo đức, phản khoa học.

Tóm lại, phong tục, tập quán thường phát sinh do điều kiện xã hội, thổ nhưỡng, khí hậu, thời điểm...  Nếu dùng cái nhìn của vùng miền hay lãnh thổ này phê phán phong tục tập quán của đất nước nọ e sẽ khiên cưỡng.
   
Đâu là chân lý bất di?
   
Dân tộc ta và nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á như Trung Hoa, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân, Indonesia… xem cơm là món chính trong bữa ăn. Chủ yếu của dân Mễ là các loại đậu và bắp. Phương Tây là bánh mì làm từ lúa mạch và thịt gia cầm, tôm cá. Món mắm tôm, mắm nêm, mắm cái đối với chúng ta sao mà thơm… bát ngát, ăn bún riêu nếu thiếu tí mắm ruốc nào khác chi đóng thùng sơ mi cà vạt quần tây bảnh chọe nhưng lại lết thết đôi dép râu cụ Hồ! Đặc sản mắm Bò Hóc của Campuchia người phương Tây nghe mùi đã bịt mũi nôn ọe, hét toáng, sao thối thế!
   
Tiêu chuẩn nào để đánh giá chuyện đúng, sai, phải, trái?
   
Những câu hỏi đã, đang và sẽ không bao giờ có giải đáp thỏa đáng.
 

Khánh Trường

https://vietbao.com/p316377a316686/9/dung-sai

Video Chuyến Đi Hè Tháng 09 2025 - Phần II - Thành Phố Arcachon

Trong phần này sẽ trình bày hình ảnh của thành phố Arcachon ghé qua ở thêm 5 ngày sau khi rời Anglet, từ 10/09 đến 15/09/2025.

Đây là một thành phố của giới trưởng giả nằm trong vịnh Arcachon, dọc Đại Tây Dương và cách Bordeaux khoảng 70km. Thành phố được mệnh danh « Thành phố của bốn mùa » và có những bãi biển rộng với cát trắng mịn nên thu hút rất nhiều du khách vào mùa hè. Vịnh Arcachon là nơi chuyên về nghề chài cá cùng nuôi hào, đồng thời có nhiều thắng cảnh thiên nhiên như đồi cát Pilat v.v...

#532 - Vì Sao Người Việt Dễ Bị Đột Quỵ? Cách Ngừa Là Gì? BS. Phạm Hiếu Liêm

Đậu Hũ Thạch Cao Có Hại Không? - Vũ Thế Thành

Tàu hũ, đậu hũ đều là món ăn vặt có chứa ít nhiều thạch cao. Thạch cao có hại không? Mặc kệ! Tàu hũ nước đường mật mía gừng, thơm mùi lá dứa là món ăn không thể nào quên.

Vũ Thế Thành


Thạch cao có tên hóa học là sulfate caclium. Trong tự nhiên, thạch cao tồn tại ở hai dạng: loại ngậm hai phân tử nước (CaSO4. 2H2O) và loại khan (CaSO4) hoặc ngậm 1/2 phân tử nước.

Thạch cao công nghiệp, đa số là loại ngậm 1/2 phân tử nước (CaSO4. 0,5 H2O) để khi trộn với nước, tạo thành vữa và đông cứng lại. Thạch cao công nghiệp được sản xuất từ thạch cao tự nhiên (nung nhẹ), hoặc từ khói của nhà máy nhiệt điện hay xi măng (loại bỏ sulfur), hoặc là sản phẩm phụ trong quá trình sản xuất acid phosphoric từ quặng phosphate. Nói chung, tạp chất trong thạch cao công nghiệp là chuyện đáng ngờ, mức độ lành dữ tùy công nghệ sản xuất ra nó.

Thạch cao dùng trong thực phẩm là loại ngậm 2 phân tử nước (CaSO4. 2H2O) Thực ra, chỉ có loại sulfate calcium này mới được gọi là thạch cao (gypsum), còn các loại khác chỉ gọi bằng tên riêng, hoặc bằng tên hóa học, kèm theo đặc tính ngậm nước, hoặc cấu hình alpha, beta,..gì gì đó. Nhưng thiên hạ cứ gọi bừa chung hết là thạch cao, nên bài này cũng phải gọi… bừa theo cho tiện.

Thạch cao có hại cho sức khỏe không?

Thạch cao được phép dùng thoải mái trong thực phẩm, thậm chí không quy định ngưỡng sử dụng tối đa. Cơ quan An Toàn thực phẩm Châu Âu (EFSA), qua những nghiên cứu trên người đã đánh giá tính khả dụng sinh học của calcium từ thạch cao trong nước khoáng cũng chẳng khác gì so với calcium có trong sữa. Thậm chí, gốc sulfate cũng không ảnh hưởng gì đến việc bài tiết calcium qua đường tiểu.

Thạch cao không chỉ dùng làm đậu hũ, mà còn dùng làm mứt trái cây, phó mát thực vật, bánh nướng, ủ bia,…

Vấn đề là phải dùng thạch cao cấp thực phẩm, chứ không phải loại thạch cao công nghiệp.

Cứng mềm bở mịn một phần tùy tay người

Thạch cao được dùng trong nhiều loại thực phẩm. Bột (mì) nhào làm bánh thường bị nhão và dính, thêm chút thạch cao vào sẽ quánh đặc hơn.

Trong làm mứt, muối trái cây hay rau quả, calci của thạch cao có thể kết dính với nhóm carboxylic có điện tích âm của pectin trong rau quả làm chúng rắn chắc và giữ nước tốt hơn

Thạch cao dùng trong đậu hũ thường là loại ngậm hai phân tử nước, tinh chế từ thạch cao thiên nhiên. Gốc calcium và sulfate của thạch cao kết hợp với protein tan trong sữa đậu nành, làm biến tính chúng và tạo kết tủa. Lọc lấy chất kết tủa này đem vào khuôn ép thành đậu hũ. Dùng thạch cao làm chất đông tụ, thì đậu hũ vừa mềm vừa “cứng”, hay bở tùy cách làm.

Ngoài thạch cao, còn nhiều chất khác có thể làm đông tụ đậu hũ.

   * Glucono delta-lacton (GDL), chất này khi tan trong nước có tính acid làm ra đậu hũ mịn như thạch, còn gọi là đậu hũ lụa (silky), và có mùi thơm nhẹ.

    * Giấm (acid acetic) hoặc chanh (acid citric). Dùng 2 chất này nếu không khéo tay, sẽ làm đậu hũ có mùi vị… chanh chua như bản chất của chất làm đông tụ.

    * Muối clorur magnesium, người Nhật gọi là muối Nigari, cho ra đậu hũ mềm và mịn. Dân Bắc Mỹ dùng muối clorur calcium làm chất đông tụ.

    * Ngay cả nước biển cũng có thể làm đông tụ đậu hũ, nhất là nước biển vùng Thuận Hải chứa nhiều sulfate calcium.

Trên thị trường, người ta trộn hai hoặc hơn những chất trên lại với nhau để tạo ra chất làm đông tụ tofu hàng hiệu, khai thác những điểm mạnh của từng loại chất làm đông tụ, đáp ứng khẩu vị đa dạng của người dùng. Loại có trộn thêm gelatin có thể dùng để làm tào phớ.

Cấu trúc đậu hũ mềm, mọng, dai, dòn, cứng, bở,… tùy thuộc vào dùng chất đông tụ nào, và cũng tùy thuộc đôi tay người làm, nén chặt hay nén hờ.

Nếu không kể nước, thì đậu hũ đa số là protein, chất béo (khoảng 1/3 so với protein), toàn là protein và chất béo tốt lành. Cũng phải kể thêm cả khoáng calcium của thạch cao “ăn theo” nữa.

Thạch cao phi là gì?

Thạch cao phi mua ngoài tiệm thuốc Bắc là loại thạch cao ngậm 1/2 phân tử nước hoặc khan, tùy mức độ rang sao.

Có người nói thạch cao phi làm từ mai mực, người nói từ thạch cao mỏ, sao vàng lên, nói chung đó là kiểu “bí quyết” của mấy ông chủ tiệm thuốc Bắc. Nhiều người than giá thạch cao phi đắt tới cả trăm ngàn/kg. Giá thế vẫn còn rẻ. Thạch cao làm đậu hũ (Tofu Coagulant Gypsum) được chào giá trên mạng khoảng 12,95 USD/ bao (12 oz), tính ra khoảng 800.000 đồng/kg. Nếu thạch cao phi chế từ mai mực hoặc mỏ, thì có thể chấp nhận được, nhưng thạch cao loại này được sản xuất thủ công, nhỏ lẻ ở các tiệm thuốc Bắc, chưa đủ cơ sở để đánh giá đạt cấp thực phẩm hay không.


Phương Tây thích dùng đậu hũ thạch cao hơn, vì đó là nguồn bổ sung calci rất tốt, mặc dù năng suất đông tụ có thể kém so với muối Nigari của Nhật.


Vũ Thế Thành

https://vuthethanh.wordpress.com/2023/10/09/dau-hu-thach-cao-co-hai-khong/

Vạn Lý Sầu - Đỗ Công Luận

Một bản nhạc đang hot trên mạng.

Xin cảm tác cùng chia sẻ...

Trần Ai Chuyện Bếp Núc ! - Người Phương Nam



Từ ngàn xưa, không biết ai đã đặt ra cái luật bất thành văn rằng chuyện bếp núc nấu ăn là bổn phận của đàn bà con gái. Đàn ông con trai mà vô bếp là bị mang tiếng làm mọi vợ hay đội vợ trên đầu, ngóc đầu lên không nổi thì làm sao dám chường mặt ra với đời. Vì lẽ đó cho nên, tất cả những người đàn ông trong gia đình đều tin chắc như đinh đóng cột rằng họ được quyền “miễn dịch” hỏa đầu quân, không cần lăn vô bếp nhưng vẫn được ăn, mỗi ngày cứ tới bữa ăn là sẽ có sẵn mâm cơm tươm tất trên bàn chờ họ. Nếu chưa có vợ thì do mẹ hay chị nấu, còn nếu đã lập gia đình thì dĩ nhiên là vợ nấu chớ còn ai vô đây, chẳng lẽ là người đẹp trong tranh hay sao?


Với “truyền thống” đó mà 45 năm nay từ khi cưới vợ, ông Tân cứ “ngồi mát ăn bát vàng” theo kiểu gia trưởng, mỗi ngày cứ tới giờ cơm là ung dung chễm chệ ngồi vào bàn cầm đũa.  Lúc ở VN, bà vợ không đi làm thì không nói gì nhưng sống ở hải ngọai, vợ ông cũng ra ngòai mưu sinh như ông, cũng sáng xách giỏ đi tới mặt trời gần lặn mới về nhưng chiều vừa về tới nhà, quăng cái giỏ xuống là bà phải nhào ngay vô bếp bắc liền nồi cơm, rồi sau đó mới từ từ lôi mớ đồ trong tủ lạnh ra nấu nướng chiên xào trong lúc ông Tân điềm nhiên an tọa coi TV hoặc đọc báo hay chạy ra vườn vui thú điền viên.

Bà Tân trót sinh vào cái thế hệ tùng phu thờ chồng, đã in trí rằng công việc bếp núc là bổn phận người vợ cho nên không cảm thấy đó là bất công. Bà cứ cái nền nếp vậy mà theo, không biết làm reo, không biết sanh nạnh, một năm nấu đủ 365 ngày không một ngày nghỉ bởi vì ông Tân ăn uống quá kỹ, không chịu đi ăn tiệm hoặc mua thức ăn nấu bên ngòai. Bà sẵn sàng chìu ý ông mỗi  ngày mỗi vô bếp nhưng phải chi ông dễ dãi, nấu gì ăn nấy thì đỡ cực cho bà biết mấy. Đàng này có nhiều lúc ông không chịu ăn giống mọi người trong nhà mới là rắc rối cuộc đời. 

Năm khi mười họa, có khi làm biếng quá, bà đề nghị kêu pizza ăn đỡ một bữa thì ông nói pizza nhiều cheese, ăn vô bị cholesterol có ngày bị heart attack. Bà nói vậy thôi take away bún bò Huế hay phở về ăn thì ông nói bà thích thì bà ăn đi, còn tui, tui ăn cơm. Thế là phải nấu cơm và làm chút gì cho ông ăn, rốt cuộc cũng phải nấu, thật chán phèo, thành ra bà đành dẹp pizza, bún bò Huế để ăn cơm với ông luôn cho rồi. 

Mấy chục năm trời ngày nào cũng một điệp khúc lập đi lập lại, nấu cơm, nấu canh, lặt rau, rửa cải, xắt thịt, lột tép, thái hành, vắt chanh, cắt ớt, xịt xì dầu, nước mắm gì nhứt nhứt cũng một tay bà, ai thấy cũng ngán ngẩm dùm. Bà cũng đã oải, đã mệt mõi lắm rồi nhứt là càng ngày càng lớn tuổi sức khỏe yếu kém, đau nhức cùng mình nên nhiều lúc bà rất muốn nghỉ ngơi, bớt được ngày nào hay ngày đó nhưng trong gia đình không ai chịu cho bà "nghỉ hưu". Mà thật ra trong thâm tâm, bà cũng rất mâu thuẩn, một mặt thì nói muốn nghỉ ngơi, mặt khác lại sợ cảnh ăn không ngồi rồi vô dụng khi còn có thể giúp ích được chút gì cho con cháu. Cứ như vậy mãi mà không buông bỏ được.


Sau khi gả con gái, bà tưởng đâu sẽ được nhàn nhã thảnh thơi lắm, ai dè sau đó phải babysit hai thằng cháu, nấu ăn luôn cho con cho rể đi làm. Bà than phiền với ông, bà nói thấy người ta cở tuổi mình ai cũng rảnh rang, có giờ enjoy life còn mình sao cứ đầu tắt mặt tối, ngày tối ở miết trong nhà, hết coi cháu tới nấu ăn như là osin thì ông tỏ vẻ không vui, mặt mày đen thui đen thủi với bà vì ông chỉ có một đứa con, muốn  gặp gỡ thấy mặt tụi nó thường xuyên như lúc con ông còn ở chung trong nhà. Một mình ông ăn đã khó, cử mỡ cử đường, cử muối lung tung, rồi bây giờ thêm hai thằng cháu tấn lên mỗi đứa thêm một ý nữa làm bà muốn điên luôn vì cái “miếng tồi tàn” nhưng không có thì không sống được.

Người không ăn cá kẻ kiêng bò
Đứa thì tuyên bố ghét thịt kho
Kẻ cử đường, người cao máu mỡ
Biết liệu làm sao thiệt phát khờ!

Mà phải chi ông bị ba cao nặng nề gì cho cam, chỉ vừa chạm mức thôi là đã "hạ chỉ" kêu bà vợ phải bớt muối bớt đường không thôi tôi chết sớm cho bà ở góa đó. Đã vậy còn thêm cái nạn phải tránh né các loại thực phẩm nhập cảng từ Trung quốc và Việt Nam vì thấy trên internet người ta nói có chất độc gây ung thư chết người. Ông Tân hay yếu bóng vía nghe một sợ mười nên biểu bà phải dẹp hết làm bà càng bí lối hết đường xoay sở. Tờ thực đơn gắn trên tủ lạnh của bà trước kia rất phong phú, dài nhằng bây giờ đã bị cắt bớt chỉ còn lưa thưa có vài món thấy mà rầu.  Đâu phải bà tùy tiện muốn nấu gì nấu, không biết nghĩ tới sức khỏe cho gia đình nhưng có nhiều món ăn không thể tránh được một vài sản phẩm của Việt Nam hay Trung quốc. Thí dụ như muốn ăn gỏi cuốn thì phải có tương, bún, bánh tráng. Bánh tráng thì dĩ nhiên sản xuất từ Việt Nam. Bún cũng từ Việt Nam hoặc Trung quốc. Tương cũng vậy. Nếu không dám ăn ba thứ đó thì món gỏi cuốn không thành, chỉ là ăn tép luộc thịt luộc khơi khơi, lấy gì ngon. Và nếu phải loại bỏ tất cả những thực phẩm dính líu tới Việt Nam hay Trung quốc thì coi như phải đọan tuyệt với đồ ăn Á châu nói chung và Việt Nam nói riêng mà người mình đã gắn bó cả đời, cái hương vị tình quê đó đã chan hòa thấm đẩm trong xương trong máu liệu có dễ cho mình dứt bỏ hay không!

Càng ngày thực phẩm Việt Nam và Trung quốc càng lan tràn khắp nơi trên thế giới, không chỉ shop thực phẩm Á châu mới bán hàng Trung quốc và Việt Nam mà ngay cả trong các siêu thị Mỹ Úc Âu cũng nhan nhản thực phẩm khô và đồ đông lạnh từ Trung quốc và Việt Nam chớ tốt lành gì, điển hình là cá Basa, tôm đông lạnh, mì, bún, các lọai bột làm bánh, các lọai đậu vv… Hoặc nếu món nào đó cho dù có made in Australia hay USA đi nữa nhưng cũng là “from imported ingredients” thì cũng vô đó thôi. Ai dám bảo đảm những nguyên liệu đó không nhập cảng từ Trung quốc. Ai dám chắc 100% an tòan? 

Mỗi khi đi chợ, Bà Tân như kẻ mất hồn, ngơ ngơ ngẩn ngẩn đi từ đầu chợ tới cuối chợ rồi đi ngược trở lên vẫn chưa biết phải mua cái gì. Ăn thịt thì sợ mỡ bao tim. Mua cá bắt dưới biển thì sợ cá nhiễm thủy ngân, cá nuôi trong hồ thì sợ kích thích tố "vỗ béo". Ăn chay ăn tào hủ thì sợ thạch cao gây sạn thận. Rau cải lèo tèo lắn quắn thấy không muốn mua chê già chê dai, còn mơn mởn tươi tốt quá lại sợ bị tưới thuốc tăng trưởng, thử hỏi biết mua cái gì! Gặp bà nào thì cũng nghe than thở y như nhau: 
      - Không biết ăn cái gì nữa, cái gì cũng sợ bệnh. Thời bây giờ ăn để chết chớ không phải ăn để sống như thời xưa. Nói ăn đồ Việt Nam Trung quốc bị ung thư chớ thực phẩm sản xuất tại Úc tại Mỹ cũng đâu phải hòan tòan vô hại. Từ thịt thà, cá, trứng, sữa tới rau cải trái cây thứ nào cũng không tránh khỏi bị ô nhiễm hóa chất, hóa chất trong thức ăn nuôi gia súc và trong phân bón trồng trọt. Coi như "tứ bề thọ địch" Không có thứ gì mà chạy khỏi độc tố!

Có lần đứng chờ trả tiền, bà Tân nghe một bà đứng trước mình nói với chủ shop: 
      - Nấu ăn thiệt là trần ai! Ngày nào cũng phải tính tóan suy nghĩ muốn bể cái đầu. Một mình mình thì dễ, nấu cho ổng mới mệt óc. Biết vậy hồi đó ở giá cho rồi thì bây giờ khỏe thân biết mấy!    

Lúc còn đi làm, ông Tân có ông bạn đồng nghiệp “ăn cơm tay cầm” tư niên mãn mùa. Ngày nào tới giờ ăn trưa ông bạn cũng ra tiệm bánh mì thịt nguội mua một ổ ăn trưa. Chiều tan sở lại mua thêm 5 ổ đem về, hỏi mua chi vậy sao không về nhà ăn cơm thì ông ta nói  ai nấu đâu mà ăn. Con vợ tui nó không chịu vô bếp. Đi làm về thì take away về ăn, cuối tuần đi ăn tiệm, ăn quán, bữa nào sang thì nhà hàng. Nhiều khi tui thèm món gì mà ngoài quán không có, nói bả nấu cho tui, bả biểu “ông muốn ăn thì ông nấu đi”.

Vợ con người ta vậy đó, một món cũng không nấu cho chồng, còn bà, chẳng những ngày  nào cũng vô bếp mà còn kỹ lưỡng cân nhắc lợi hại tốt xấu chi ly, vậy mà ông còn chưa yên bụng, trước khi ăn còn “điều tra” coi tôm cá rau củ này xuất xứ từ đâu khiến bà phát nổi sùng: 
      - Ông làm như tui muốn đầu độc cả nhà vậy đó. Vậy thì ông hãy tự mình lăn vô bếp đi cho biết tui khổ sở tới cở nào.    

Đã nói là chạy trời không khỏi nắng, tránh được phần nào chớ không tránh được tất cả. Vả lại, bệnh tật hay sống chết là phần số của mỗi người, đâu phải ai cũng vì ăn mà chết. Dưới bầu trời này, mọi người vẫn ăn, vẫn sống vui vẻ, vẫn cười nhăn răng, sống thọ còn hơn cả cổ nhân. Người xưa thất thập cổ lai hy, hiếm ai thọ tới bảy mươi tuổi, nhưng thời nay thiên hạ sống đến tám chín mươi là thường, sống chật cả trái đất. Sách có câu “Khôn chết, dại chết, biết thì sống”. Người cho mình là khôn thì cứ khư khư lo bảo vệ sức khỏe, kiêng cử đủ thứ, một miếng không dám ăn, rốt cuộc tới số thì cũng chết như ai. Kẻ dại thì ăn vô tư, ăn bừa, ăn xả láng chừng nào bệnh mới tính, chết hẳng hay. Còn người thông minh thì biết uyển chuyển, ăn làm sao vừa có thể tránh được phần nào bệnh tật, lại vừa không cần phải hy sinh oan uổng cái đệ nhất khoái trong tứ khoái của con người. 

Lời kết cho bài viết này là xin quý ông gia trưởng hãy thấu hiểu dùm nỗi khổ của những bà nội trợ khi phải bao thầu chuyện bếp núc từ ngày này qua ngày nọ đến suốt cả cuộc đời mà đừng quá khó khăn, kén chọn, đòi hỏi. Bữa nào có lỡ mặn ngọt gì chút đỉnh cũng làm ơn vui vẻ mà ăn chớ đừng ca cẩm cái điệp khúc ăn mặn lên tension đứt gân máu hay ngọt  nhiều làm mù mắt cụt chân.  

Tuy rằng nấu ăn làm việc nhà chỉ là một công việc tầm thường, là thiên chức của người phụ nữ trong gia đình nhưng trong thời buổi mà thực phẩm nơi nào cũng bị kỹ nghệ hóa gây bệnh tật thì muốn có một bữa ăn ngon, lành mạnh, khả dĩ an tòan thật là trần ai, chẳng khác nào một bài toán hóc búa nan giải hết sức khó khăn đến thành khủng hoảng tinh thần.
  
 Người Phương Nam

Sunday, September 28, 2025

Mưa Rơi Tan Tác - Nguyễn Duy Phước

Mơ Một Ngày Về - Cao Hoài Sơn

 
Hình minh họa

Một góc chợ, một góc trời đã trải

Bóng người xưa giờ biết đã về đâu?

Cố hương ơi, hãy giữ dùm ta nỗi nhớ 

Tuổi hoa niên, từng lối nhỏ Chợ Lầu...

Đêm rộn rã lao xao ngàn chuyện kể

Những mắt thơ tròn, mê mãi dõi thời gian

Những thanh gươm, vua chúa, những cung vàng

Những hiệp khách, giai nhân về loáng thoáng...

Bao ký ức chôn trong mùa ly loạn

Góc trời quê yên ả cũng đâu còn.

Dáng mẹ sầu in bóng bước hoàng hôn

Chiều lữ thứ... Nghe sương mờ phủ lạnh...

Sẽ ấm lại bước chân người viễn xứ

Góc trời êm, quê mẹ sẽ thanh bình

Giữa hai bờ thăm thẳm một trùng dương

Vẫn qua lại một vầng mây vĩnh cửu....

Trời vào thu se lạnh, từng cơn gió mạnh thổi đám lá Phong đỏ vàng rơi lả tả uốn lượn nhẹ nhàng đảo mình rơi xuống đất, như có bàn tay vô hình vô tình nâng nhẹ. Trên cành khẳng khiu còn lủng lẳng vài chiếc lá xanh run rẩy như chẳng nỡ xa lìa cành. Trời Thu hiu hắt xứ Mỹ càng làm khơi dậy nỗi nhớ âm thầm trong tâm trạng kẻ xa quê...

6 năm tù CS, gần 10 năm chật vật mưu sinh dưới ách tham tàn, rồi sau đó là cuộc đi xa, xa nhất trong đời tôi, bắt đầu cuộc sống tha hương của một HO. 

26 năm biền biệt xa xứ, bước chân phiêu lãng của tôi chỉ một lần tìm về để nhìn lại làng quê một trời đầy kỷ niệm, mà những dấu tích còn in đậm trên mỗi bước chân đi. Từng kỷ niệm hiện về như vẫn còn y đó, nó chập chờn ẩn hiện trong tâm thức.

Đây nơi cút bắt, đạp lon, nhặt cành lá, kìa nơi vật lộn kéo co.Hiên nhà ai vẫn còn đó trong những đêm tối trời, đám trẻ sát bên nhau tìm hơi ấm nghe tôi kể chuyện xưa, những câu chuyện đủ loại mà tôi đọc được từ các kho sách và kể lại cho các bạn cùng trang lứa nghe như một thú vui của bọn trẻ ở quê làng. Và dòng sông mát êm đềm này đã từng rửa sạch mồ hôi chảy trên lưng trần nắng cháy sau mỗi trận đá bóng trên sân làng đầy sỏi đá.... Bạn bè 10 đứa nay còn một, với nhiều số phận, tất cả đã bỏ đi tứ tán, làm vắng lặng hoang phế cả những lối mòn xưa. Sau 10 năm tha hương, tôi đã có lần về thăm mẹ già và mong tìm lại chút hơi ấm của kỷ niệm thời niên thiếu. Nhưng ngay lúc ấy, tôi còn nhớ rất rõ một cảm giác cay nồng trên đôi mắt mờ nhạt trước bao dâu biển tang thương do VC gây ra.

Quê hương thay đổi quá nhiều, bị biến dạng một cách dị hợm. Con đường đất xưa mát mẻ yên bình nay được tráng mớ nhựa đường loang lổ, đây không hề là dấu hiệu văn minh. Thời xã nghĩa nên mạnh ai nấy chiếm, con đường làng thành nơi phơi lúa bít cả lối đi, ngôi chợ cũ đã trở thành huyền thoại. Bước chân tôi trở thành như kẻ xa lạ ngập ngừng trên mọi lối đi. Sau 40 năm từ ngày “giải phóng”, quê hương tôi sao vẫn nghèo nàn, lạc hậu, cũng vẫn con trâu kéo cầy giữa trời hanh nắng. Từng đoàn cô gái lom khom cắm từng ngọn mạ trên ruộng nước lầy lội bùn đen.

Trên Quốc Lộ 1 những chiếc xe lao vút với tốc độ kinh hoàng, coi mạng người như cỏ rác, tiếng rít nghe lanh lảnh chói tai. Vẫn còn những ngôi nhà 40 năm chưa được sửa sang bám đầy bụi đất thời gian. Chỉ khác một điều những cơ quan công quyền, cổng chào thì mọc lên rực rỡ xa hoa như những gái đĩ về chiều cố tô vẽ cho mình một nhan sắc kệch cỡm. Nhà tù, đồn Công An mọc lên như nm trong khi trường học xập xệ với thời gian... Cộng Sản VN luôn rêu rao rằng đất nước giờ đã tiến bộ, bước ra biển cả sánh với Năm Châu. Ôi toàn những lời láo khoét mị dân. Đâu đâu cũng thấy ăn mày với những em nhỏ cùng người già bán vé số để mưu sinh. Vậy mà có quan chức VC ca tụng đấy là một nghề ổn định có thu nhập cao. Đâu đâu cũng nghe thấy thanh niên nam nữ cố tìm đường cho được đi "xuất khẩu" lao nô, Osin, một nghề mới mà thời VNCH không bao giờ có. Quê hương tôi đó giờ như thế, những người có chút đầu óc, nhanh chân đã bỏ xứ ra đi về chốn thị thành, để tìm cho mình một công việc khá hơn cho cuộc sống.

Tôi thở dài ngao ngán nhìn quê mình trong cảnh tang thương. 40 năm qua rồi nhưng tôi vẫn nhớ in từng dấu tích. Đây nơi hai người Lính Nghĩa Quân đã ngã gục vì đạn thù của VC trong Tết Mậu Thân 68, những dấu tích của chiến tranh vẫn còn đó như những nhát chém vào tim, dấu đồn lính cũ mà tôi từng trú đóng vẫn còn đó, những bao cát biến dạng với thời gian. Ký ức đã nhạt nhòa trong từng hơi thở, tôi đứng lặng nhìn về Sông Mao, nơi ấy tôi đã sống hào hùng với đời lính chiến VNCH, trong đêm đen tôi vẫn còn mơ thấy ánh hỏa châu cháy chập chờn. Quê hương tôi đó vẫn một màu đen kịt dưới bàn tay giặc thù.

Có người bạn cũ là chiến binh một thời, nhưng không may mắn được ra đi đã hỏi tôi chừng nào mới trở lại thăm quê, nơi ấy còn bóng mẹ già đang mong đợi, bạn bè dăm đứa đầu đã bạc, mong một lần gặp mặt để hàn huyên. Gặp được nhau chắc vui lắm, bên chai rượu nhớ những ngày sát cánh, cùng bên nhau bảo vệ quê nhà. Với giọng trầm buồn tôi đã nói với anh rằng tôi không về được vì cộng nô còn đó. Nhìn bộ mặt ghê tởm của chúng, máu trong tim như muốn chực trào. 40 năm rồi đất nước càng tan hoang, trong tay lũ Việt gian bán nước. Có một điều tôi còn ngại chưa nói thẳng cho anh rõ là tuy ở nơi chân trời góc biển, tôi cũng làm chút gì đó cho đất nước quê hương, hơn là về để mang mối hận mà không làm gì được với cả một bộ máy tham tàn đang đủ quyền lực và vũ lực sẵn sàng trấn áp. Thế hệ trẻ sinh sau đẻ muộn, bị VC bưng bít tin tức, chúng không dám cho mọi người biết hiện trạng của xứ VN nó như thế nào. Dân trong nước nghèo cực lo miếng ăn đã đủ khổ, càng thiếu sự hiểu biết về thế giới. Không còn cây súng, tôi đã có một trang Facebook mà tôi đã dày công xây dựng từ hơn nhiều năm qua, chuyển những tin tức, những sự kiện trong nước và khắp nơi mà dân VN cần phải biết. Và tôi đã tìm được một lối thoát cho nỗi ray rức của mình, không cam tâm làm một HO chết mòn trong yên ổn xứ người, dùng thời gian còn lại của tuổi già để cùng công luận vạch mặt cộng sản, cổ vũ dân chủ, khơi dậy ý thức tự do...

Có vài tên Việt Cộng cứ hỏi tôi sao không dám ở Việt Nam mà chống cộng, giờ theo Mỹ để chống phá Việt Nam? Tôi trả lời tôi không chống VN, nơi đó là quê hương của tôi yêu dấu. Tôi chống đảng cộng sản một lũ tham tàn bán nước, hơn ai đó miệng nói bô bô yêu thương cờ vàng nhưng không chống cộng, chỉ chống cái ác. 40 năm rồi từ ngày chúng cướp được miền Nam, chúng đã làm được gì cho đất nước? Ngoài việc trả thù người lính VNCH và dân chúng miền Nam. Qua 3 lần đánh tư sản, đổi tiền, thu toàn bộ ruộng đất, nhà máy, ghe thuyền vào tay chúng. Với quyết tâm tiến lên thiên đàng cộng sản, đưa đất nước xuống địa ngục trần gian. Nhờ nhìn lại đất nước thua cả Miên Lào, ôi nhục nhã không sao chịu được. Đảng là cái thá gì mà ta không chửi được? Chúng đâu phải là đất nước quê hương, chúng chỉ là một loài sâu bọ ngày đêm gậm nhấm trên từng thể xác quê hương.

Trong những đêm dài tôi mơ thấy quê mình, những anh nông dân, chị bán hàng rong, đang gục ngã mọi nẻo đường đất nước. Chị công nhân làm trong công xưởng với lương bèo rẻ mạt không đủ nuôi thân, khác gì thân phận kẻ nô lệ của những thế kỷ trước. Cộng sản VN một phường giả dối, chúng chuyên xuất khẩu lao nô đĩ điếm ra nước ngoài, nhưng chúng tự hào cho đó là kỳ công của chúng. Rồi còn nữa..... Những thai nhi bị vất bên đường, bờ đê, suối cạn, ven rừng, vì người mẹ biết rằng không đủ sức nuôi con. VC ngày nay tạo ra một loại người chỉ biết hưởng thụ, đó là lũ công an và bộ đội cụ hồ, cán bộ đảng viên. Chúng đứng đường trắng trợn chận xe, cướp cạn của dân đen từng đồng bạc. Người ta nói côn đồ với công an là đồng bọn. Bắt vào đồn là từ chết tới đui què, đất nước tôi bệnh viện là chốn địa ngục ô tỳ, lũ thầy lang là bầy lang sói. Y đức với chúng là đồ bỏ, chỉ có tiền chúng mới cứu mạng người.

Tôi muốn nhắn với những tên VC hỏi tôi sao không dám về VN đương đầu với CS rằng: Tôi từng là quân nhân được đào tạo trong trường võ bị VNCH, từng lăn lóc chiến trường, từng đối mặt với VC và từng quét sạch chúng ra khỏi những làng quê tôi trấn giữ. Người quân nhân không thể không am hiểu thời thế để chọn phương thức hành động. Không có binh pháp nào lại cổ vũ sự liều mạng tuy với một kẻ thù đang mục ruỗng và thối nát, không có chiến thắng nào đến với sự đương đầu chưa có tổ chức chính danh, không có chiến thắng nào vững bền khi chưa khai mở được lòng dân. Vũ khí mới của tôi là ngọn bút thông tin, không ngừng cùng mạng xã hội đánh vào sự thối nát và dối trá của VC, để mong toàn dân thức tỉnh đứng lên, cùng chung tay diệt bầy lang sói…

Tôi nhất định sẽ về, tại sao không? Khi quê hương không còn bóng tham tàn, và tôi không hề có chút hổ thẹn nào với tư cách một quân nhân VNCH vì tôi đã chưa bao giờ thôi chiến đấu để góp sức vào cuộc lật đổ tham tàn bằng cách này hay cách khác !!


Cao Hoài Sơn