– Dừng lại đây nghỉ đã!
Chiếc nốc nhỏ tiến sát vào gần bờ
rồi dừng lại. Trên nốc có 3 người. Một ông lão trạc 70. Một cô gái trẻ và một
con bé chừng 3 tuổi.
Ông lão cắm mạnh cây sào xuống nước
rồi buộc nốc vào. Ông cởi trần. Bộ ngực và các cơ bắp cuồn cuộn ngày nào giờ đã
nhão ra bèo nhèo, chảy sệ quện với thời gian. Làn da mồi nhăn nheo lấp lánh
dưới ánh hoàng hôn đang chuyển sang màu tím tái. Ông ngồi cúi xuống, lấy chiếc
khăn tay nhúng xuống sông rồi đưa lên lau người.Trong khoang, cô gái đang lúi
húi dọn cơm ra mâm. Làn khói mỏng bay lên thơm nức mùi cá nướng. Con bé cầm
chiếc bát ngồi cạnh mẹ mắt ướt nhòe nũng nịu: “Mẹ ơi, con đói lắm!” Cô gái vừa
với tay thắp chiếc đèn bão đang treo ở mui nốc vừa nựng con:
– Ngoan đi con! Con ra mũi ngồi với ông đi! Mẹ bưng cơm
ra ngay đây!
Tợp một hớp rượu, ông lão dướn mắt
nhìn lên những lùm cây um tùm trên bờ rồi đặt chiếc ly xuống mặt ván gỗ nghe
tiếng “kịch”. Ông chùng giọng:
– Hay là ta quay về đi con.
Cô gái đang cầm thìa đút
cơm cho con ăn vội ngước lên nhìn ông khẩn khoản:
– Con xin cha cho con thêm mấy bữa nữa!
– Ta đi tính đến bữa ni là một tháng 6 ngày rồi mà vẫn
nỏ thấy hắn mô cả. Thôi, phải quay về nhà thôi con ạ, mùa lụt sắp đến rồi!
Cô gái vừa nói với cha
vừa sụt sịt khóc:
– Cha, con xin cha rốn cho con một vài bữa nữa, một vài
bữa nữa thôi cha ạ! Biết mô, con Thảo lại tìm được cha hắn. Răng mà con khổ ri
hở trời?
Con bé mếu máo:
– Mẹ, răng mẹ lại khóc? Ông ngoại ơi, ông nói chi mà để
mẹ cháu khóc rứa? Mẹ ơi nín đi, mẹ mà khóc là con nỏ ăn nữa mô!
– Ăn đi con, mẹ nỏ khóc nữa mô!
Vừa đưa tay quẹt nước mắt vừa nựng
con, cô gái lại giục:
– Cha ăn cơm đi, đừng uống nữa! Ăn xong vô nằm ngủ cho
khoẻ. Mai ta lại đi tiếp cha hầy?
Màn đêm bao trùm đặc quánh cả vùng
eo vực Bồng. Mặt sông gờn gợn sóng. Chiếc nốc nhỏ nhoi như lá tre khẽ dập dềnh,
dập dềnh. Chốc chốc lại có con cá lăng, cá ngạnh húng hoắng búng nước nhộp
nhoạp phá tan cái chốn thinh không lạnh lùng, hoang vắng này.
Ông lão đã ngủ. Tiếng ngáy “khoọc...
khoọc...!” đều đều phát ra kèm theo hơi rượu nồng nặc quẩn đặc khắp cái khoang
nốc bé tin hin. Nằm ôm con co ro một góc, cô gái chẳng thể nào ngủ được. Thỉnh
thoảng con bé lại giật bắn mình rồi khóc hu hu tội nghiệp. Cô vội vỗ vỗ vào đít
nó rồi cất giọng ư ử ru như sợ cha mình tỉnh giấc. Lời bài hát ru “Thập ân phụ
mẫu” phát ra nghe méo xệch, không rõ lời. Vậy mà chỉ một lúc sau, con bé lại
ngủ ngon lành. Ngắm khuôn mặt bầu bĩnh của con bé đang ngủ một cách thơ ngây,
hồn nhiên đến nao lòng, nước mắt người mẹ chảy ướt đầm cánh tay co lên làm gối.
Cô khóc. Không biết đây là lần thứ bao nhiêu cô rơi nước mắt vì thương cha,
thương con bé và thương cho cái thân mình.
Cô ngước mắt lên nhìn ra ngoài mui
nốc. Có chút ánh sáng le lói, yếu ớt xiên vào. Bữa ni là ngày mấy mà trăng chừ
mới lò dò lên nhỉ? Cô tự hỏi. Đã lâu rồi ta cố quên đi ánh trăng oan nghiệt,
răng hôm nay trăng lại đến đùa ta? Hình như có tiếng hát lẫn trong tiếng gió hú
từ trên bờ eo vực Bồng. Người hay là ma? Cô rởn người. Cảm giác lạnh buốt chạy
dọc sống lưng. Tiếng hò rờn rợn vẳng ra nghe dài dại: “Trăng lên đến đó em tề/
Hỏi chi thì hỏi anh về kẻo khuya...”
Cô rùng mình bịt tai lại. Mắt nhắm
nghiền. Đôi môi khẽ mấp máy khẩn cầu: “Đừng sáng nữa trăng ơi! Tôi khổ vì trăng
lắm rồi! Tôi xin trăng hãy lặn mau đi! Trăng hãy lặn mau đi! Tôi xin trăng đấy!
Lặn đi trăng!”
Bên cạnh, con bé vẫn say giấc ngủ.
Ngoài cửa khoang, ông lão vẫn đều đều với âm thanh “Khoọc... khoọc!” đứt quãng.
Ánh trăng ma quái vẫn chập chờn.
-------
Đêm 16. Ánh trăng thừa thãi chảy
tràn mặt sông. Nước dòng Lam trong vắt khoe những hòn sỏi trắng phớ đang lúng
liếng đưa tình. Lũ cá mương, cá chày mải mê đùa giỡn dạo đầu cho cuộc truy hoan
cuồng say rạo rực. Dòng sông lấp lóa ánh
bạc níu bờ cát vàng hoang hoải chảy về tít tắp xa xăm. Ánh trăng huyền hoặc mơn
man bông đùa trên từng chiếc lá dâu non. Cơn gió đỏng đảnh lay lay từng ngọn cỏ
trên bãi bồi. Cả bãi dâu xanh mướt ngút ngàn khẽ rên khúc tự tình rầm rì hoan
lạc.
3 cô gái làng Vải đang ngồi cạnh mép
sông. Họ vừa vốc từng vốc nước lên tưới tràn nhữngbắp chân trắng ngần như bột
lọc vừa nhướng mắt về phía bờbên kia chờđợi.
Tiếng Thơm cất lên vẻ
sốt ruột:
– Răng buổi ni họ vẫn chưa đến hè?
Huệ quay sang nhìn Thơm và Hạ rồi
lại nhìn ra mặt sông. Phía bên kia vẫn một màu xanh đậm của lũy tre đang rung rinh trong gió. Bờ đê chạy dài ôm
lấy bờ lở con sông. Huệ tự thắc mắc một mình:
– Chưa có bữa mô lâu như bữa ni. Hay
là họ có chuyện chi rứa hè?
Hạ trấn an mọi người:
– Nỏ có chuyện chi mô! Chắc là bữa
ni họ đi đánh cá ở xa nên về muộn! Ta cứ chờ tý nữa. Nếu bữa ni họ không sang
thì bữa khác họ sang. Lo chi mà lo!
Giọng cô nghe vẻ bình thản nhưng
thực ra lúc này trong lòng Hạ cũng như Huệ và Thơm, Hạ cũng rất mong mấy chàng
trai vạn chài bên kia sông sang đây để được gặp nhau, để họ trả nợ mấy câu hỏi
mà tuần trăng trước họ chưa đáp lại được.
Hạ khẽ reo lên, đoạn cô
kéo áo hai bạn rồi chỉ tay ra xa:
– Họ sang rồi tề! Đây nói có sai mô!
Chiếc nốc nhỏ như một chấm đen đang
từ bờ bên kia dần dần tiến sang bên này. Chiếc nốc lớn dần, lớn dần. Nó lướt
phăm phăm trên mặt nước như thể để bù lại cái khoảng thời gian dài các cô gái
của phường hát làng Vải phải ngóng trông thắc thỏm. Trên nốc, 3 thanh niên làng
Vạn trông dáng to khỏe đang hì hụi chống chèo. Khi cách bờ một đoạn bằng vài
sải tay, họ dừng nốc lại. Một người cắm con sào xuống nước, buộc nốc lại. 3
chàng trai vẫy vẫy tay vào bờ chào các o.
Một
người bước lên trước vịn tay vào cây sào rồi đánh tiếng với vào bờ bằng một câu
dạo vui tai:
– “Hò... ơ... ơ... Chốn này vui vẻ tưng bừng/ Hạc nghe tiếng
phượng xa chừng tới nơi!”
Thơm khúc khích cười:
– Cuối cùng thì họ cũng đã đến! Chị
Hạ, chị Huệ ơi, các chị hát đi!
Hạ giật nhẹ vai áo Thơm:
– Nhường em hát trước đấy!
– Không, em nỏ hát trước mô, chị Hạ
hát đi!
Huệ vào hùa giục Hạ:
– Đúng rồi, Hạ đáp lại đi!
Hạ lội xuống. Làn nước mát lạnh quấn
lấy bắp chân tròn lẳn. Cô nhìn 3 chàng trai đứng trên nốc vẻ đợi chờ. Hạ cất
giọng đáp lại một câu trong vắt như nước sông:
– “Hò...ơ...ơ... Dừng xa, khoan kéo, ơ phường/ Hình như có
khách viễn phương tới nhà!”
Lập tức phường nam tiếp lời:
– “Đi qua, nghe tiếng em reo/ Nghe xa em kéo, muốn đeo em về!”
Các o phường nữ cũng chẳng kém, họ
đồng thanh lên tiếng:
– “Đêm khuya, trời tạnh, sương im/ Tai nghe tiếng nhạc chàng
Kim tới gần... Hò...ơ...ơ... Mừng rằng bạn đến chơi nhà/ Cam lòng thục nữ gọi
là trao tay!”
Phường nam được dịp bèn thổ lộ nỗi
lòng mình:
– “Đi ngang thấy búp hoa đào/ Muốn vào mà bẻ, sợ bờ rào lắm
gai... Hò...ơ...ơ... Đến đây vàng cũng như son/ Ai ai thời cũng như con một
nhà...”
Các o phường nữ dường như chẳng chịu
nghe những lời bộc bạch tâm tình của phường nam, họ thử tài ứng đối của phường
nam bằng những câu hát đố mượt mà như lụa. Rồi phường nam cũng đối lại không
kém phần sắc sảo:
– “Đến đây hỏi khách tương phùng/ Chim chi một cánh bay cùng
nước non?”
– “Tương phùng nhắn với tương tri/ Cánh buồm một cánh bay đi
khắp trời!”
– “Lá gì không nhánh, không ngành?/
Lá gì chỉ có tay mình trao tay?”
– “Lá thư không nhánh, không ngành/
Lá thư chỉ có tay mình trao tay!”
Cứ thế, tiếng hò câu ví loang loáng
mặt sông. Âm thanh câu hát hòa vào dòng chảy của con nước nghe man mác, ngân
nga. Hết hát dạo, hát mừng, hát chào, hát hỏi họ chuyển sang hát đố. Cả hai
phường hát say sưa đối đáp quên cả thời gian. Hai bên chuyển sang hát mời và
thả những câu xe kết đong đưa. Sương khuya ướt nhòa mái tóc họ mới sực tỉnh,
vội vàng cất lên câu hát tiễn người. Ánh trăng chênh chếch trên cao soi rõ
những ánh mắt khát khao nuối tiếc của những chàng trai, cô gái đang chập chững
bước vào đường yêu.....
Nhờ ánh trăng vằng vặc lấp lóa mặt sông, nhờ những đêm hát phường Vải giao
duyên đậm đà men say tình ái mà Huệ và Thơm lần lượt lên nốc về bên kia sông
cùng người tri kỷ. Chỉ còn Hạ vẫn còn miệt mài bên khung dệt lụa. Hạ mê mẩn với
những chiếc lá dâu, với nong tằm, con kén. Những đêm trăng sáng, Hạ lại dạy các
em gái trong làng hát ví, hát phường vải để thỏa sức giao duyên cùng các phường
hát nam trong vùng.
Cả cái vùng hạ lưu sông Lam này ai
mà chẳng biết cái tên o Hạ. O Hạ vừa đẹp người, đẹp nết, hát hay lại giỏi
giang, tháo vát. Chính o là niềm tự hào của làng Vải.
Lụa làng Vải bao đời nay đã trở
thành một thương hiệu nổi tiếng khắp nơi.Tương truyền rằng, những bộ y phục của
vua, hoàng hậu và các quan đại thần trong triều đình xưa được may bằng những
tấm lụa được dệt từ làng Vải. Để tỏ lòng tri ân với vị thánh mẫu đã ban cho
làng Vải nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa nên hằng năm,ở đây lại tổ chức hội
thi tài để tìm ra những tay dệt giỏi và động viên con cháu gìn giữ nghiệp tổ
của làng. Năm nào Hạ cũng giành giải dệt lụa nhanh nhất, đẹp nhất. Người già
hân hoan phấn khởi. Người trẻ ao ước, khát khao. Không ít nhà gần xa bóng gió
muốn xin Hạ về làm dâu nhưng Hạ chỉ bẽn lẽn cười cười ra chừng như o chưa ưng
ai. Trai trong vùng khối kẻ mơ ước được xe duyên kết tóc cùng Hạ nhưng Hạ vẫn
hồn nhiên như cơn gió mải mê vui đùa bờ bãi ven sông. Và cũng chẳng hiểu sao
những câu hát nặng tình của các chàng trai làng Vạn vẫn chưa thể lay động được
trái tim o. Hạ đã làm biết bao gã trai phải khốn đốn, mất ăn mất ngủ thẫn thờ.
Cha mẹ Hạ cũng rất phiền lòng vì con gái chẳng chịu nghe lời ông bà. Đã nhiều
đêm bà nhỏ to thủ thỉ, tâm tình cùng con gái bằng tình mẫu tử sâu nặng và sự
trải nghiệm của một người mẹ. Rằng đời con gái như giọt mưa sa, nó ngắn ngủi vô
cùng. Cha mẹ xin con hãy đừng kén cá chọn canh kẻo đến lúc hoa tàn nhuỵ héo, duyên
phận lỡ làng thì khổ cực trăm bề. Chỉ mong con hãy thương lấy cha mẹ, thương
các em mà nhanh chóng tìm cho mình một tấm chồng để khi cha mẹ nhắm mắt xuôi
tay cũng được yên lòng. Bà sụt sịt khóc, nước mắt mẹ ướt đầm vai áo Hạ. Nằm
cạnh mẹ mà lòng Hạ như dao cứa. Nước mắt Hạ lưng tròng. Nào Hạ có muốn làm trái
ý cha mẹ đâu. Hạ cũng là con người, cũng biết yêu thương, khao khát một mái ấm
gia đình lắm chứ. Nhưng không hiểu sao trái tim Hạ vẫn chưa một lần thổn thức?
Liệu trái tim Hạ có nghe được tiếng gọi của tình yêu hay không?Tại sao chuyện
chồng con đối với Hạ lại vô cùng khó khăn đến vậy? Hạ có phải là một người bình
thường như bao người con gái làng Vải này không? Càng nghĩ, Hạ càng thấy buồn.
Hạ rúc đầu vào ngực mẹ rồi khẽ hứa với mẹ sẽ lấy chồng để cha mẹ yên lòng. Thực
tình, Hạ chẳng muốn xa cái làng Vải, xa khung dệt lụa, xa bãi dâu xanh và khúc
sông chất chứa biết bao kỷ niệm này. Hạ chỉ muốn được quẩn quanh nơi đây để
ngày ngày miệt mài làm việc, đêm trăng sáng lại cất lên tiếng hát vang vọng
sông quê bằng những câu hò, câu ví nao lòng. Những giọt nước mắt Hạ lăn xuống
thấm ướt chiếc gối thêu đôi chim bồ câu đang rủ rỉ tâm tình.
Ngoài kia, sương rơi ướt đẫm mảnh
sân nhỏ. Thỉnh thoảng tiếng côn trùng khe khẽ thở than. Gió lạnh kéo ánh trăng
khuya len lỏi ùa vào căn nhà nhỏ ven sông.....
Hạ đã tìm được ý trung nhân. Một
người hoàn toàn xa lạ. Hạ vẫn không tin đó lại là sự thật bởi tình yêu đến quá
bất ngờ.
Lại một đêm trăng sáng. Hạ dẫn các
em trong phường hát nữ ra bờ sông để hát đối cùng trai làng Vạn.
Trăng thanh. Gió mát. Nước chảy hững
hờ. Những câu ví đầy ngẫu hứng bay bổng ngân nga vang lên say đắm lòng người.
Hạ đứng nhìn các em say sưa đối đáp trao tình cùng cánh trai làng Vạn. Lòng Hạ
rộn lên niềm vui nguyên lành như thể đang cùng Huệ và Thơm ngất ngây trong
phường hát năm nào. Bây giờ Huệ và Thơm về bên kia sông không biết có vì cuộc
sống tất bật mưu sinh mà nhớ tới cô bạn Hạ làng Vải này không? Huệ ơi, Thơm ơi!
Các bạn có nghe mình gọi không?
Hạ bỗng bừng tỉnh khỏi những âm
thanh rạo rực. Cô quay mặt nhìn lên phía trước. 1 chiếc nốc lạ từ thượng nguồn
đang lững thững trôi xuống. Trên nốc, một người đàn ông đang nhẹ nhàng vung mái
chèo khua nước. Ai rứa hè? Răng lại đi có một mình? Có phải là phường hát
không? Hạ dán mắt theo dõi. Đám gái trai hai làng vẫn đang mải mê hát và vục
nước đùa nhau.
Chiếc nốc lạ cắm sào nằm cạnh nốc
của phường hát làng Vạn. Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Người thanh niên có thân
hình lực lưỡng, mái tóc húi cao, hàng cúc áo phanh ra để lộ bộ ngực săn chắc.
Hạ nhìn kỹ khuôn mặt anh ta. Người lạ. Khá điển trai. Anh ta vừa gài lại cúc áo vừa hướng ánh mắt vào Hạ rồi cất
vang giọng dạo đầu: “Hò..ơ...hò... Bấy lâu nghe hết tiếng nàng/ Bên anh nức
tiếng đồn vang đã từng/ Nghe tin anh cũng vội mừng/ Vậy nên chẳng quản suối
rừng anh sang”.
Anh ta vừa dừng tiếng hát, cả đám
gái trai phường hát sững sờ nhìn nhau. Hạ ngạc nhiên đến không ngờ. Ôi, giọng
hát sao mà nghe mạnh mẽ, trong trẻo đến hút hồn rứa nhỉ? Hạ đã thuộc nhiều làn
điệu dân ca, đã hát đối rất nhiều với các phường hát nam nhưng chưa có chàng
trai nào có giọng hát vừa khoáng đạt vừa mang đậm hồn thơ tiếng nhạc đến vậy.
Người ơi, chàng là ai? Chàng từ mô đến? Chàng chỉ đến đây để hát thôi ư? Mà
răng chàng lại hát “Bấy lâu nghe hết tiếng nàng/ Bên anh nức tiếng đồn vang đã
từng”? Chàng muốn nói ai trong số các cô gái làng Vải đêm nay? Phải chăng đây
là thiên định cho cuộc nhân duyên của mình? Những câu hỏi cứ vẩn vơ trong đầu
Hạ. Một cảm giác run run chạy qua sống lưng nàng. Lấy hết can đảm, Hạ lội xuống
nước nhẹ nhàng đung đưa lời dạo qua môi: “Hò... ơ... hò... Bấy lâu thức nhắp mơ
màng/ Bên rèm tiếng gió, đầu giường bóng trăng...” Rồi Hạ mơ màng: “Bóng trăng
em tưởng bóng đèn/ Bóng cơn em tưởng bóng thuyền anh xuôi.”
Người lạ mạnh dạn thổ lộ nỗi lòng
bằng lời ca da diết con tim: “Nước chảy cho bè
anh trôi/ Ai bắt bè anh lại kết nên đôi vợ chồng... Hò...ơ...hò... Chờ em nửa
tháng ni rồi/ Ôm đờn bán nguyệt, dựa ngồi cung trăng...”
Cả đám bạn hát hai làng lặng im ngơ
ngác nghe Hạ và người lạ đối đáp cùng nhau. Tiếng hát của chàng trai đầy ma lực
khiến Hạ như lạc vào mê cung tình ái rồi gặp được người tri âm để bày tỏ nỗi
lòng. Giọng hát có khi êm đềm như dòng nước mùa xuân chan chứa tình đời. Khi
thổn thức cõi lòng của người cô đơn. Rồi lại dồn dập như những con thuyền đang
tất tả ngược xuôi qua lại. Cũng có khi nó khựng lại, chộn lên như con nước đang
chảy mạnh bỗng dưng gặp phải tảng đá chắn ngang. Cả cái không gian mênh mang như
chìm đắm trong men say chuếnh choáng tương phùng.
Mặt trăng viên mãn rạng ngời....
------
Tĩnh làm nghề buôn gỗ. Nhà mãi trên
mạn ngược. Anh bảo, muốn lên nhà anh thì trước tiên phải đến phố huyện. Từ
đường cái bắt đầu đi đò dọc mất 3 ngày 4 đêm mới đến được bản của anh. Nếu chèo
đò ngược sông Lam lên có khi phải mất cả tháng trời mới đến nơi. Hạ không sợ
điều đó. Tuổi thơ anh đã phải chịu nhiều mất mát, thiệt thòi. Cha mẹ bị nước lũ
cuốn trôi khi đang vớt củi trên sông. Khi đó Tĩnh mới tròn một tuổi. Tĩnh được
gia đình ông bác họ cưu mang nuôi nấng. Năm Tĩnh 15 tuổi thì bác qua đời. Gia
đình bác chuyển đi nơi khác. Không họ hàng, anh em. Tĩnh sống nhờ vào sự đùm
bọc thương yêu của bà con làng xóm nên mới khôn lớn đến bây giờ.
Nghe những lời tâm sự xót xa của
Tĩnh, nước mắt Hạ tuôn rơi. Hạ thương Tĩnh vô cùng. Hạ rất muốn được bù lại cho
Tĩnh những mất mát buồn đau bằng chính cả cuộc đời mình. Đi bên nhau trên bãi
cát dài cạnh mép sông, ánh trăng soi tỏ khuôn mặt hai con người đang ngất ngây
hạnh phúc. Vòng tay ôm Hạ, Tĩnh thủ thỉ:
– Hạ ạ, hoàn cảnh của anh thì em đã
rõ rồi đấy! Anh thấy nghề buôn gỗ bây giờ cũng gặp thật nhiều khó khăn, bất
trắc. Anh không muốn mình phải luôn đối mặt với sự nguy hiểm, anh chỉ muốn một
cuộc sống yên bình, vợ chồng sớm tối có nhau...
Hạ quay sang hỏi lại vẻ
thắc mắc:
– Nghĩa là răng hả anh?
– Bây chừ, ở trên quê anh cũng không
còn ai thân thích. Anh muốn xin phép cha mẹ em được ở lại đây, được cùng em làm
nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Anh sẽ quyết tâm học được nghề của quê em.
Anh đã tích cóp được một lưng vốn tàm tạm, vợ chồng mình sẽ mở rộng sản xuất,
cuộc sống của chúng mình sẽ khấm khá phải không em?
– Anh..!
Hạ định nói nhưng cổ họng ngắc ngứ.
Hạ cảm thấy lâng lâng vui sướng. Ánh mắt cô long lanh nhìn Tĩnh. Mãi một lúc
sau Hạ mới nói nên lời:
– Rứa thì còn chi vui hơn phải không
anh? Em tin là cha mẹ sẽ đồng ý. Cha mẹ em rất vui khi có được một chàng rể
tương lai như anh!
Đột nhiên Tĩnh cúi xuống bế bổng Hạ
lên chạy vào vườn dâu đang rung rinh trong gió. Hạ vẫy vùng rồi nũng nịu đấm
vào ngực Tĩnh thùm thụp. Tĩnh và Hạ nằm dưới gốc dâu. Ánh trăng hau háu khát
thèm. Trong vòng tay ghì chặt của Tĩnh, Hạ cảm giác như cả đất trời nghiêng
ngả. Hạ thấy mình đang bồng bềnh trôi trên dòng sông quê. Những cơn gió cứ mơn
man, mơn man cơ thể Hạ. Bên tai Hạ vẳng nghe đâu đây câu ví vỗ về. Bỗng dưng
con thuyền chao đảo rồi lao xuống ghềnh thác. Con thuyền húc vào những tảng đá
lởm chởm sắc nhọn. Hạ lịm đi. Cô cảm thấy hình như có một viên đá găm vào cơ
thể mình đau nhói. Hạ hoảng hốt khẽ kêu lên rồi choàng tỉnh. Máu! Tĩnh lò cò
ngồi dậy rồi dìu Hạ xuống bờ sông. Cả hai ngâm mình dưới làn nước mát lạnh. Hạ
vừa cảm thấy xấu hổ, sợ sệt nhưng cũng vừa được trải qua những cảm giác ngọt
ngào của tình yêu. Cô khoát nước vào mặt Tĩnh rồi giục Tĩnh nhanh chân quảy đôi
thùng gánh nước kĩu kịt về nhà. Con đường cát nhỏ thân thuộc chạy từ bến sông
vắt lên bờ đê để về làng hôm nay sao mà ngắn thật. Hạ ước giá như con đường này
bây giờ thật dài, thật dài để hai đứa được đi bên nhau thật lâu, để Hạ được
thỏa thuê ngắm nhìn, trò chuyện cùng người mình yêu thương. Trăng lên cao soi
rõ bóng hai người liêu xiêu bên bờ cỏ. Hai chiếc bóng có lúc nhập vào nhau làm
một, có lúc lại tản ra rồi lại nhập vào như trò ú tim. Phải chăng hạnh phúc đến
từ những điều bất ngờ nhất chứ không phải là một sự sắp đặt hoàn hảo? Hạ thầm
cảm ơn dòng sông, cảm ơn ánh trăng và câu hò đã cho Hạ tìm được hạnh phúc của
riêng mình. Một hạnh phúc thật đơn giản nhưng
vô cùng ý nghĩa mà không ai dễ gì có được.
Sương khuya ngấm vào da thịt nghe
lành lạnh. Tiếng gà gáy sang canh lục tục cất lên. Hai chiếc bóng cứ nhỏ dần,
nhỏ dần rồi khuất hẳn vào bụi tre đầu làng Vải.
------
Hạ cũng không thể nào lý giải được
nguyên nhân vì sao Tĩnh bỏ làng Vải ra đi lâu như vậy. Trước hôm đi, nằm bên
cạnh vợ, Tĩnh thủ thỉ muốn về trên quê ít ngày để làm giỗ cho cha mẹ, xong việc
anh xuống ngay. Hạ xin đi nhưng Tĩnh can ngăn. Tĩnh bảo, sang năm hãy về, con
còn nhỏ quá chưa thể về được. Hạ thương chồng vất vả lặn lội đường xa, cô bỏ
vào túi chồng một ít tiền làm lộ phí để Tĩnh lên đường về quê.
2 năm sống cùng nhau trong ngôi nhà
của cha mẹ vợ, Tĩnh là một chàng rể siêng năng, cần cù và khéo tay. Hạ đã sinh
được một bé gái xinh xắn đặt tên là Thảo. Thảo là thảo hiền, hiếu thảo với cha
mẹ. Tĩnh bảo vậy. Cha mẹ vợ vui mừng ra mặt vì có một chàng rể tốt tính, khỏe mạnh,
tháo vát, ăn ở biết điều. Hạ thì khỏi nói. Cô luôn tự hào vì có được một người
chồng như Tĩnh. Đã mấy lần Hạ hỏi han, bàn với chồng đưa con về thăm quê nội,
để được ra mộ thắp hương cho cha mẹ chồng bởi từ hồi lấy nhau tới giờ Hạ cũng
chưa một lần được về trên đó. Tĩnh lảng đi và nói rằng cứ để con lớn lên chút
nữa rồi anh sẽ đưa em và con về cũng được. Quê anh xa lắm, mãi trên mạn ngược.
Ở đâu? Cứ qua Dừa, qua Lạng, đi đò ngược sông Lam 7 ngày nữa mới tới nơi, anh
chưa muốn em và con phải khổ. Nghe anh đi! Đành vậy. Hạ chịu thua.
Sau 2 năm chẳng quản nắng mưa, khó
nhọc, Tĩnh đã nắm được những bí quyết cơ bản của nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt
lụa mà người vợ thương yêu truyền cho. Đó là những bí quyết giúpHạ luôn chiến
thắng trong các cuộc thi tài của làng Vải trước đây. Những tấm lụa với những
sợi tơ vàng óng ánh mê hoặc mọi người bây giờ cũng đã được Tĩnh dệt nên chẳng
kém vợ bao nhiêu. Hạ vui mừng vì đã chọn được một học trò đặc biệt để truyền
nghề. Người học trò đó sẽ theo Hạ suốt cả cuộc đời này và cùng nhau tạo dựng
nên một cuộc sống no đủ bên những đứa con ngoan. Nghĩ vậy, Hạ vui lắm.
------
Chiếc nốc nhỏ vẫn lầm lũi đi lên
phía trước. Đi mãi. Không biết qua bao nhiêu eo, bao nhiêu vực xoáy trên dòng
Lam hùng vĩ này. Cha chống, con chèo, miệt mài hết ngày này qua ngày khác. Ông
lão sức đã tàn, hơi đã kiệt. Có lúc ông lại uể oải ngồi xuống giương đôi mắt
đục mờ nhìn ra xa. Vẫn rừng xanh tiếp núi thẳm. Tìm người như ri thì biết khi
mô mới tìm được? Chiếc nốc như một kẻ độc hành phiêu lưu trên sa mạc, không
biết đâu là đích của mình.
Trời vừa xế chiều. Ánh nắng quái vẫn
còn soi xuống mặt sông rồi hắt lên mặt người từng bóng nước rung rinh. Chiếc
nốc đang đi qua một eo nhỏ có tên là eo Bớp. Hai bên rừng núi âm u tĩnh mịch.
Đã thấm mệt. Hạ vừa nhanh tay chèo vừa nhủ thầm phải đi qua cái eo rùng rợn này
đã rồi mới nghỉ lấy sức được. Nghĩ vậy, cô đưa tay quệt những giọt mồ hôi chảy
tràn trên mặt vừa cúi lưng khua mạnh mái chèo. Vừa qua khỏi eo Bớp, trời đất
bỗng nhiên quang đãng lạ thường. Không còn cảnh núi rừng âm u mà thay vào đó là
những bãi bồi chạy dài tít tắp. Những nóc nhà nhỏ nép mình dưới bụi vầu, bụi
nứa đẹp như tranh vẽ. Bỗng nhiên Hạ hét to:
– Cha ơi, nhìn tề!
Ông lão vịn sào đứng dậy nhìn theo
hướng tay Hạ chỉ. Phía xa xa, 1 vườn dâu xanh ngắt nằm bên mép sông. Càng đến
gần, vườn dâu càng kéo dài lên phía trước tầm mắt của hai cha con. Ông lão ngạc
nhiên thốt lên:
– Răng lại giống cảnh quê mình hè?
Hạ nói nhỏ:
– Rứa là đúng rồi cha ạ!
Ông lão quay lại:
– Đúng cái chi?
– Dạ...! Con biết rồi cha ạ!
Hai cha con cho nốc vào sát gần bờ
rồi cắm sào dừng lại. Trên bãi dâu có nhiều người đang lúi húi hái lá chất đầy
vào chiếc sọt sau lưng. Nắng đã tắt hẳn. Cơn gió mát rượi thổi bay bay mái tóc
Hạ. Cô vẫn chăm chú nhìn lên bờ. Đám người trong vườn dâu lục tục kéo nhau về.
Hạ run rẩy kêu lên: “Cha ơi!” Tĩnh và một người đàn bà vừa bước ra
khỏi vườn dâu, sau lưng họ là hai chiếc sọt đầy lá xanh rờn. Hai người vừa bước
nhanh chân về làng vừa nói cười với nhau, vẻ mặt rờ rỡ rạng ngời. Một lúc sau,
một thằng bé chừng 8 tuổi chui ra từ những lùm dâu. Nó vừa chạy vừa gọi toáng
lên: “Cha mẹ ơi, chờ con với!”
Hạ ngã khuỵu xuống nốc. Nước mắt
chảy ướt đầm vai áo. Nước mắt thấm vào môi, vào miệng nghe đắng đót vô cùng. Cô
muốn hét thật to nhưng lúc này bỗng dưng có cái gì ứ nghẹn, uất ức không thể
bật lên thành tiếng. Hạ cảm thấy mình như vừa bị một cơn gió độc xô ngã mà
không thể nào dậy được. Thấy vậy, ông lão vội chui qua mui rồi nhanh tay đỡ lấy
con gái. Ông nghẹn ngào vuốt mái tóc Hạ rồi vỗ vai nhỏ nhẹ:
– Thôi, đừng khóc nữa con! Bây chừ
cha con ta quay về đi, nước lụt sắp về rồi con ạ! Về đi kẻo không kịp!
Hạ nấc lên, đôi vai run
bần bật, 2 tay bíu chặt mạn nốc:
– Cha ơi!
Ông lão chui sang, nhổ sào, chống
nốc ra giữa dòng rồi từ từ trôi xuôi.
Trăng bắt đầu nhú lên. Cả cái khối
vàng vọt kia ngọ nguậy bước ra khỏi đám mây bợt bạt. Dòng sông man mác thẫn
thờ.
Hạ ngồi nhìn trân trân vào bãi dâu
cho đến khi chiếc nốc bắt đầu chui vào eo Bớp tối thui.
Trong khoang, con bé Thảo vẫn ngủ
ngon lành...
Lê Mạnh
Thường