Cà trong cái nghĩa đầu tiên của nó là một danh từ dùng để gọi một loài thực vật cho quả ăn được. Nhưng trong cái loài quả gọi là cà này cũng còn được phân biệt ra làm nhiều giống: Nào là cà pháo, cà dái dê hay cà tím, cà dĩa hay còn gọi là cà dòn v.v... Ngoài các loại cà vốn được người dân xứ ta trồng để làm thực phẩm từ lâu đời nói trên, còn có một số cà thuộc loại ngoại lai du nhập như cà chua hay có người còn gọi là cà "tô mát" cho có vẻ ta đây cũng rành tiếng Tây, và vài thứ có tên do gọi theo phiên âm mà có tiếng cà nhưng không hẳn là cà như cà rốt, cà phê v.v...
Cà chua cũng là một loại rau quả nhưng chỉ mới xuất hiện ở xứ ta từ lúc có các ông Tây bà đầm qua "khai hóa" cho dân ta và tập cho dân ta làm quen với những món ăn Tây phương, nhờ thế mà dân ta mới biết ăn cà chua và trồng cà chua để bổ sung cho danh sách rau quả bán ở ngoài chợ.
Cà chua ngoài việc được dùng làm thực phẩm như ăn sống, nấu chín, làm thành sốt cà, nước giải khát bổ dưỡng có nhiều sinh tố v.v... còn được xử dụng như là một loại vũ khí tuy không có khả năng sát hại hay gây thương tích cho người bị tấn công nhưng cũng đủ làm sứt mẻ uy tín của người đó. Một nghệ sĩ bất tài, trình diễn bị bể dĩa thì thay vì được khán giả tặng hoa, lại được khán giả tặng cho mấy quả cà chua thối. Mấy chính khách, lãnh tụ tầm cỡ quốc gia có những chính sách, chủ trương, đường lối không phù hợp với quyền lợi hay nguyện vọng của nhân dân một nước khác, hay một tập thể nào đó thì khi công du đến các vùng ấy thế nào cũng có những cuộc dàn chào bằng cà chua thối của những nhóm người chống đối.
Còn như cà rốt cũng là một loại thực phẩm nhưng thật ra cà rốt không phải là loại quả mà chính là một loại rể củ ăn được nhưng vì gọi theo phiên âm tiếng Tây nên vẫn có tiếng cà. Tuy nhiên khi nói đến cà phê thì lại đúng là một loại trái cây nhưng không phải dùng để ăn mà chỉ dùng để lấy hột đem rang cho cháy đen ngòm lên rồi xay nhỏ để chế nước sôi vào tạo thành một loại nước uống có màu đen sẫm và vị thì đắng đắng nhưng lại có mùi hương thơm rất quyến rũ, và khi uống vào thì thấy tinh thần như sảng khoái ra. Món này cũng được các ông Tây bà đầm du nhập vào xứ ta vào thời nước ta bị Phú Lãng Sa đô hộ, tuy nhiên sau đó dân ta cũng rất đông người đâm ra ghiền cái món cà phê này đến nỗi có nhiều người sáng dậy mở mắt ra mà không có ly cà phê để nhâm nhi là không chịu được. Không những thế, hai tiếng cà phê còn được biến hóa thành cụm từ "cà phê cà pháo", một thứ thành ngữ được dùng để chỉ một phương thức xã giao trong đời sống xã hội. Bạn bè gặp nhau vẫn hay có thói quen rủ nhau đi uống cà phê để tâm sự. Dân mánh mung hay người muốn cầu cạnh người khác một điều gì đó thì phải biết lo hối lộ, nhưng lại được nói khéo ra là lo cà phê cà pháo cho kẻ mình muốn nhờ vả thì mới mong đạt được mục đích.
Ngoài những món cà được xem là thực phẩm cho người kể trên, còn có một loại cà gọi là cà dược hay có khi còn gọi là cà độc dược là loại cà dại mọc hoang, cũng có quả nhưng nếu ăn vào thì coi như là đi đoong luôn, tuy nhiên đôi khi lại được người ta dùng để chế biến thành một vài vị thuốc đặc biệt "dĩ độc trị độc" theo kiểu Đông y, không kể cái mục đích dùng làm thuốc độc thật sự.
Mặc dù khi nói đến cà được dùng làm thực phẩm thì các loại cà như cà tím, cà dĩa thường được đánh giá cao hơn vì có thể chế biến thành nhiều món ăn khoái khẩu như đem xào với thịt ba rọi, nướng chín thoa mỡ hành, nấu với da heo thành món cà bung chẳng hạn, nhưng ăn theo kiểu này thường đòi hỏi khi nấu nướng phải kèm theo vài món phụ hay gia vị hành mỡ hơi tốn kém cho nên phải là những gia đình khá giả một tí thì mới hay ăn theo kiểu đó. Chỉ riêng có món cà pháo là bình dân nhất do cách ăn cũng rất đơn giản và cách chế biến cũng dễ dàng không tốn kém vì người ta có thể dùng nó để ăn sống chấm với tí mắm tôm hoặc thông dụng nhất là đem phơi cho héo rồi bỏ vào nước muối ngâm như kiểu muối dưa cải một thời gian cho cà trở thành chua chua mặn mặn để dành làm món mặn đưa cơm được rồi.
Chính vì vậy mà khi nhắc đến cà thì hầu như người dân Việt nào từng sinh ra và lớn lên ở mảnh đất quê hương tự hào có bốn ngàn năm văn hiến nhưng vẫn quanh quẩn với cái nghèo tất nhiên sẽ nghĩ ngay đến món cà pháo trước tiên, vì nhà nghèo thì thường bữa cơm không mấy khi có thịt cá mà chỉ có món cà pháo muối dưa làm chuẩn. Riêng trong Nam thì nhờ ruộng đồng sông rạch lắm cá nhiều tôm nên người bình dân vẫn có thể sang hơn một tí, vì người ta còn có thể đem cà muối chung với mắm cá thành món mắm gọi là mắm cà để dùng.
Cũng vì cà là món ăn rẻ tiền thông dụng cho nên xưa kia nhiều người tá điền được chủ nuôi cơm mà gặp phải chủ mang trong người dòng máu hà tiện cỡ trùm Sò lại tham công tiếc việc, chỉ muốn cho người làm thật được việc cho mình mà cho ăn cơm thì chẳng có gì khiến cho người làm công nhiều lúc quá bất mãn phải thốt lên:
Làm cho lắm cũng ăn mắm với cà
Làm thấy bà cũng ăn cà với mắm
Vì
cà là một loại cây cho thực phẩm được người ta trồng cho nên công việc
trồng cà cũng có thời vụ. Ca dao có câu nói về thời điểm để trồng cà như
sau:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà...
Không
những cà được trồng có thời vụ mà cái mảnh vườn cà đôi khi còn là bối
cảnh cho những cuộc tình nên thơ của những đôi trai gái miền quê như ca
dao từng có một bài miêu tả một mối tình lỡ làng, với lời lẽ tuy có đượm
màu trách móc nhưng cũng lại rất nhẹ nhàng cảm động thấm thía, khởi đầu
bằng mấy câu:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân...
Trong một bài ca dao khác, cà cũng được nhắc đến một cách khá ngộ nghĩnh hơn:
Thân anh làm rể Chương đài
Một đêm ăn hết mười hai vại cà
Giếng đâu thì dắc anh ra
Kẻo mà anh chết với cà đêm nay!
Thật
ra thì khi đọc bài ca dao này tôi không hiểu cái anh chàng này làm rể
kiểu nào mà một đêm lại ăn hết mười hai vại cà. Thường thì một vại cà có
cả hàng ngàn quả và cà muối thì chỉ ăn độ chục quả là đủ cảm thấy mặn
cả cổ và khát nước khô cả họng rồi mà anh chàng này xơi luôn một hơi
mười hai vại thì tôi không tài nào hiểu nổi.
Không những ca dao
nhắc đến cà mà ngay cả trong văn chương văn học cũng có nhiều câu chuyện
hay giai thoại có liên quan đến cà. Trước đây thi sĩ Tản Đà vốn thích
ăn và sành ăn nhưng chẳng may lại trót sinh ra làm một nhà thơ ở cái xứ
mà "văn chương hạ giới rẻ như bèo" cho nên đồng tiền nhuận bút không cho
phép thi sĩ mua những món ăn như thịt cá, do đó mà bữa cơm hàng ngày
của nhà thơ cũng chỉ đạm bạc với mấy món đắp đổi như dưa chua, cà muối
mà thôi. Ngày xuân, thấy thiên hạ trẩy hội chùa Hương, một nơi thắng
cảnh lại còn nổi tiếng về món rau sắng ngon mà thi sĩ thì rỗng túi chỉ
biết nằm khoèo ở nhà làm thơ, bèn phóng bút hạ luôn mấy câu:
Muốn ăn rau sắng chùa Hương
Đồng tiền ngại tốn, con đường ngại xa
Không đi đành ở lại nhà
Cái dưa thì khú cái cà thì thâm.
Sau
khi Tản Đà cho đăng bài thơ này lên báo thì có một bậc nữ lưu độc giả
bỗng nhiên đâm ra thương cảm cho hoàn cảnh của thi sĩ bèn tự mình đi
viếng chùa Hương rồi mua rau sắng về và đem gửi biếu cho thi sĩ kèm theo
bài thơ họa như sau:
Này đây rau sắng chùa Hương
Đồng tiền khỏi tốn, con đường khỏi xa
Không đi, xin gửi lại nhà
Thay cho dưa khú, với là cà thâm.
Không
biết nhà thơ cảm kích tấm lòng từ hậu của người nữ độc giả này như thế
nào nhưng bài thơ họa đó đã được nhà thơ đưa lên báo, nhờ thế mà văn học
có thêm được một giai thoại về ăn của nhà thơ sành ăn này.
Truyện Lưu Bình Dương Lễ cũng nhắc đến cà. Lưu Bình và Dương Lễ vốn là đôi bạn đồng môn rất thân nhau từ thủa nhỏ. Dương Lễ nhà nghèo nên vẫn thường được Lưu Bình giúp đỡ, nhờ thế mà Dương Lễ mới có thể tiếp tục dùi mài kinh sử cho đến khi thi đỗ và được ra làm quan giàu sang danh vọng.
Lưu Bình vốn nhà giàu nên không mấy chuyên tâm vào việc học hành nên thi rớt rồi lại xoay ra ăn chơi cờ bạc phung phí chẳng mấy chốc gia sản của cha mẹ để lại khánh kiệt. Nhớ lại người bạn nghèo thân thiết ngày xưa mà nay đã trở thành giàu sang phú qúy, Lưu Bình bèn tìm đến để mong có chỗ nương thân.
Dương Lễ biết bạn mình vì ham ăn chơi không chịu học hành nên nghĩ rằng nếu mình cưu mang bạn theo kiểu thường tình thì không bao giờ giúp bạn tiến thân được bèn nghĩ ra cái kế làm bộ không thèm tiếp, lại còn sai lính dọn bố thí cho Lưu Bình chén cơm hẩm với quả cà thâm. Lưu Bình hận lắm bèn bỏ đi.
Sau đó Dương Lễ mới cho gọi
người vợ thứ ba của mình là Châu Long lên giải bày mối ưu tư của mình
với người bạn cũ và muốn nhờ Châu Long thay mình trực tiếp đứng ra săn
sóc cho Lưu Bình để giúp cho anh ta có cơ hội làm lại cuộc đời. Châu
Long nhận lời nên Dương Lễ bèn giao tiền nong cho Châu Long đi tìm Lưu
Bình đem về nuôi, khuyên giải và khuyến khích cho Lưu Bình học hành.
Lưu Bình từ khi giận Dương Lễ vô ân bạc nghĩa đối với mình thì cũng mong có cơ hội rửa cái mối hận này cho nên khi gặp được Châu Long tự nguyện đứng ra chăm sóc bảo bọc mình thì cũng thay đổi lối sống, chuyên tâm học hành cho nên đến kỳ vua lại mở khoa thi thì Lưu bình cũng ứng thí và đã thi đỗ. Lưu Bình vinh qui trở về, lòng tràn ngập hân hoan mong gặp Châu Long để cùng nàng xe duyên vợ chồng. Thế nhưng khi về đến nhà thì chẳng thấy bóng dáng Châu Long đâu nữa cả.
Sau đó Lưu Bình được bổ ra
làm quan. Nhớ mối hận năm xưa, Lưu Bình tìm đến thăm Dương Lễ mong rửa
hận nhưng khi vừa đến nơi thì Dương Lễ đã vội cho gọi Châu Long ra chào
hỏi rồi kể rõ ngọn ngành cho Lưu Bình biết, nhờ thế mà Lưu Bình mới
hiểu tấm lòng tốt của Dương Lễ. Thì ra nhờ Dương Lễ khôn khéo biết dùng
quả cà thâm như một hình thức sỉ nhục để đánh thức lòng tự ái của Lưu
Bình mà cuộc đời Lưu Bình đã chuyển hóa sáng sủa trở lại.
Tuy cà pháo không phải là món ngon vật lạ và xét về mặt giá trị dinh dưỡng thì cà pháo còn có nhiều độc tính nữa vì ăn cà thường gây nhức mình, da dẻ đâm ra sần sùi ngứa ngáy v.v... Tục ngữ cũng có câu: "Một quả cà là ba thang thuốc" không phải một quả cà bổ bằng ba thang thuốc mà người đang bệnh hay yêu yếu trong người mà ăn cà vào thì thế nào bệnh cũng nặng thêm. Thế nhưng cà pháo cũng có đặc tính làm cho người ăn quen có thể trở thành ghiền. Ca dao có câu:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Vào
cái thời mà dân ta dù có đi đâu đi nữa thì cũng chỉ giới hạn trong cái
mảnh đất từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu thì câu ca dao trên có lẽ cũng
chỉ để nói lên cái lòng quyến luyến hương vị quê hương nghèo khổ của
những người dân quê bỏ xóm làng quen thuộc để đến một địa phương khác
tìm kế sinh nhai. Tuy nhiên từ khi có cuộc "cách mạng giải phóng dân
tộc" giúp cho người dân Việt một cơ hội từ bỏ cái đầu óc bám víu lấy
mảnh đất quê nghèo đầy ải để tung mình đi xa khắp bốn bể năm châu thì
người ta mới càng hiểu thấm thía cái tình quê hương thắm thiết trong câu
ca dao ấy.
Có rất nhiều người qua xứ người sinh sống, được ăn các món ngon vật lạ đầy bổ dưỡng kiểu Tây Tàu mãi cũng đâm chán nên lâu lâu lại thèm món cà pháo. Chính vì thế mà người ở quê nhà mới chế ra cái món cà pháo đóng lọ xuất khẩu. Dĩ nhiên Tây Tàu Mỹ Mễ chả ai đụng đến cái món cà muối này bao giờ, nhưng đám dân Việt lưu lạc xứ người khi bất chợt thấy giữa hàng đống thực phẩm đóng hộp mang đủ thứ nhãn hiệu quốc tế chen chúc nhau trên kệ hàng siêu thị có cả bóng dáng lọ cà muối xen vào là mắt mũi sáng lên, cứ như thể là đã tìm thấy cả bầu trời quê hương nằm gọn trong cái lọ cỏn con ấy.
Không biết có phải từ nguyên thủy tiếng cà được dùng để gọi loài cây quả không mấy giá trị cho nên khi tiếng cà được ghép vào với những tiếng khác để tạo thành những cụm từ nhằm diễn tả cách thế, hình thái, đặc tính của sự vật và con người, thì hình như tiếng gì kết hợp với tiếng cà cũng chỉ nhằm diễn tả cái mặt xấu, dở, yếu kém, hay có nhiều khiếm khuyết của một sự vật chứ không có tiếng cà nào nhằm diễn tả sự hay ho, sung mãn hoặc tốt đẹp cả.
Khi đánh giá sự vật hay con người thì loại dở dở ương ương được người ta gọi là loại "cà mèng" hay còn gọi là "cà là mèng". Người có vẻ như mất thần, không tập trung tư tưởng thì được gọi là "cà lơ". Chân bị đau khiến cho đi đứng cứ khập khiểng thì gọi là "cà nhắc". Chân mà bị cà nhắc có khi còn được gọi là "cà thọt" hay là "xi cà que".
Người nghèo ăn uống thiếu dinh dưỡng thì thân thể thường ốm "cà tong cà teo", hình dáng trông cứ như là que củi "cà khẳng cà kheo". Do cái bệnh ốm đói kinh niên cho nên đi đứng làm việc lúc nào cũng có vẻ uể oải theo kiểu "cà rịch cà tang", và thường thích "kề rề cà rà" chứ không xông xáo. Đường sá quê nghèo thì lồi lõm ổ gà, lỗ chân trâu, khiến cho xe chạy không lăn bánh êm ả như trên xa lộ mà hay bị dồi xóc nên gọi là "cà tưng". Những người đi đứng không chững chạc mà lúc đi lúc nhảy như con dê non thì gọi là "cà tửng".
Còn nhỏ mà không được đi học thì chỉ thích chạy "cà nhỏng" ngoài đường. Người lớn mà vô công rồi nghề không biết làm gì thì thường hay "la cà" chỗ này chỗ nọ. Gặp nhau chuyện gẫu hoài nhiều khi không còn biết chuyện gì để nói đành phải nói theo kiểu "cà kê dê ngỗng". Do cái tật cà kê dê ngỗng mà sinh ra tật nói "cà rởn" tức là nói chơi nói dỡn cho vui. Tuy nhiên đôi lúc vui quá cũng dễ sinh ra mất lòng gây bất hòa nên đâm ra "cà khịa", có nghĩa là nói thọc ngang, nói xóc hông người khác. Nếu tự ái của người nào đó bị xúc phạm quá nặng thì người đó có thể lên cơn giận đột xuất làm cho hệ thống thần kinh không còn làm chủ được cái lưỡi phát âm khiến cho nói không nên lời, mà cứ lắp ba lắp bắp vấp váp thành ra "cà lăm". Đúng ra thì cà lăm chính là tên gọi của một khuyết tật về nói bẩm sinh nơi một vài người mà khi sinh ra đã được trời ban cho họ một bộ máy phát âm không hoàn chỉnh, còn người bình thường thì chỉ cà lăm tạm thời rồi hết một khi cơn tức khí xung thiên đã qua đi.
Mặc dầu đã có nhiều tiếng được ghép với tiếng cà để diễn tả cái dở cái yếu kém nơi sự vật hay con người như đã nói trên, nhưng còn một tiếng nữa đáng nói đến nhất là tiếng "cà chớn". Thật ra thì tôi cũng không biết định nghĩa tiếng cà chớn này như thế nào vì tôi không có khả năng làm tự điển, nhưng thường thì tiếng này được dùng để nói về người và cứ xem trong mối tương quan xã hội của mọi người đối với nhau thì người bị cho là cà chớn là người hay có những thái độ bốc đồng, những cách hành xử như ưa thọc gậy bánh xe hay phá thối những công việc chung, ăn nói thì lời lẽ tiền hậu bất nhất v.v...
Anh nào mà xây mộng ước với một cô nàng cà chớn là có ngày bị leo cây. Một ông chồng hiền lành mà rước được một bà vợ cà chớn là coi như cuộc đời và sự nghiệp cũng tiêu tùng. Bà vợ nào mà lấy phải một ông chồng cà chớn là chỉ ôm hận. Làm ăn với người cà chớn có ngày vỡ nợ. Kết bạn với người cà chớn có ngày mang họa vào thân hoặc bị bán đứng. Đất nước mà được lãnh đạo bởi các chính khách cà chớn thì dân chúng chỉ có nước bị gậy ăn mày.
Tôi cũng không biết cái tiếng cà chớn này bắt nguồn từ thời nào nhưng trước đây tiếng cà chớn có lẽ chỉ mới thông dụng ở miền Nam chứ người miền Bắc hình như không biết. Chính vì thế mà khi quân Bắc Việt mới vào chiếm Sài Gòn sau khi chế độ miền Nam sụp đổ, người ta mới bắt đầu truyền tụng cho nhau câu chuyện vui như sau:
Một hôm có một anh công nhân Sài Gòn ngồi nhâm nhi ly cà phê buổi sáng ở quán cóc thấy anh bộ đội Bắc Việt lảng vảng gần đó bèn mời uống cà phê và nói chuyện. Anh bộ đội miền Bắc vì đã học tập thấm nhuần chủ trương chính sách của Đảng nên không bỏ lỡ cơ hội nào để làm công tác tuyên truyền đề cao xã hội miền Bắc. Còn anh công nhân miền Nam thì bao lâu nay bị "Mỹ Ngụy đầu độc" về đời sống khốn khổ của nhân dân miền Bắc nên nay có cơ hội gặp người anh em của xã hội chủ nghĩa miền Bắc bằng xương bằng thịt thì cũng muốn tìm hiểu thêm cho rõ trắng đen. Câu chuyện bắt đầu bằng câu hỏi của anh công nhân miền Nam về cà phê miền Bắc hương vị ra sao rồi bắt qua hỏi thăm về các loại cà này cà nọ. Bất cứ nói đến thứ cà gì cũng được anh bộ đội trả lời là miền Bắc có nhiều hơn, to hơn, ngon hơn hoặc tốt hơn trong Nam. Khi hỏi đến "cà rem" thì anh bộ đội vì muốn chứng minh sự giàu mạnh của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa miền Bắc nên không ngần ngại khoe ngay là cà rem thì không những ăn không hết còn được phơi khô để xuất khẩu nữa.
Nghe đến đây anh công nhân Sài Gòn hiểu ngay là anh bộ đội này đúng là thứ cà chớn bèn bồi luôn một câu hỏi nữa là ở miền Bắc có cà chớn không? Anh chàng bộ đội ngố từ lúc sinh ra có lẽ cũng chỉ được nếm có mỗi một món cà pháo, vừa lớn lên thì lại được Đảng dạy cho ăn uống phải theo chế độ tiêu chuẩn tính theo "cà ram" cho từng đầu người của chế độ cọng sản ưu việt, sau đó thì bị lùa đi cầm súng làm "nghĩa vụ giải phóng miền Nam", bao nhiêu năm chỉ biết lặn lội trong rừng sâu hoặc là nằm dưới hầm để tránh đạn "cà nông" cho nên giỏi lắm cũng chỉ mới học thêm được tiếng "cà mèn" là món vật dụng bằng kim khí dùng đựng cơm của lính nên nay về thành phố, được nếm mùi cà phê sao mà thơm ngon quá cho nên tuy chẳng biết cà chớn là cái gì nhưng đinh ninh cà chớn chắc phải là một món gì đó cao quý lắm nên không ngần ngại đáp luôn là cái gì chứ cái thứ cà chớn thì ê hề, ở miền Bắc đâu đâu cũng có.
Tuy câu nói của anh chàng bộ đội miền Bắc chỉ là phản ảnh sự ngây ngô kém hiểu biết của một kẻ phải sống dưới một chế độ quen bưng bít, nhưng vô tình đó cũng là một câu nói phơi bày ra cái hiện thực bi đát của bất cứ xã hội nào mà con người chỉ sống quanh quẩn với ngu dốt đói nghèo nhưng lại hay khoe mẽ.
Không biết có phải những hiện tượng cà chớn đó đều có chung một căn nguyên do độc tố của cà gây ra vì ăn cà rồi dần dà biến thành một căn bệnh có khả năng di truyền hay không, vì nhìn kỹ thì hầu như cái bệnh cà chớn này không phải chỉ thấy xuất hiện nơi người dân Việt sinh sống ở trong nước mà ngay cả trong số người dân Việt đã bỏ xứ ra sinh sống ở đất nước người, ăn những loại thực phẩm bổ dưỡng tinh khiết hơn, vẫn có nhiều người còn mang căn bệnh cà chớn mạn tính trong người. Không tin thì cứ nhìn vào các cộng đồng của người Việt ở hải ngoại sẽ thấy không thiếu gì những hiện tượng cà chớn vẫn xảy ra trong các hội đoàn từ hội ái hữu nhỏ địa phương cho tới tổ chức chính trị, kinh tế to lớn, khiến cho người dân Việt chưa bao giờ thật sự xây dựng cho mình thành một khối hùng mạnh. Không nhưng thế, trong những khuôn mặt từng đại diện cho những kẻ từng sợ ăn cà pháo, từng cho rằng mình không có mang độc tính cà pháo trong giòng máu, từng hùng hổ tuyên bố chống tới cùng những kẻ chủ trương nuôi dân bằng cà pháo, nay bỗng nhiên lại đâm ra có kẻ nhớ cà, thèm cà theo kiểu rất cà chớn là "Ăn cơm nhà nọ kháo cà nhà kia" để rồi ca bài "cà pháo muôn năm" làm cho nhiều người nghe xong đều chưng hửng.
Ôi! Không biết đến bao giờ dân ta mới trừ khử được cái nọc độc cà chớn này trong giòng máu để cho dân ta trở thành những con người lành mạnh hầu có sức tranh đua với thế giới năm châu và làm rạng rỡ con Rồng cháu Tiên?
Đoàn Văn Khanh
No comments:
Post a Comment