Đó là một thời kỳ lạ
xuất hiện sau năm 1975 ở miền Nam vì chưa bao giờ diễn ra như vậy. Cuộc sống
khó khăn ập đến, hiện diện mỗi ngày trong từng gia đình. Mọi nhu cầu đều phải
co lại, chỉ còn ưu tiên ăn và mặc.
Thời đó, sợ nhất là bị
trộm quần áo. Phơi đồ trên dây sát hàng rào luôn phải trông chừng không chút
nào ngơi vì có thể bị móc trộm. Nhà nào có được cái quần jean từ nước ngoài gửi
về mà bị mất là méo cả mặt. Loại quần này bận đến bạc phếch vẫn đẹp, rách vẫn
có thể tận dụng vải để may nón, túi xách, không bỏ chút gì. Áo sơ mi bận lâu bị
sờn cổ hay bị ố vàng vì mồ hôi, sẽ có người nhận lộn cổ áo lại nhìn như mới,
hoặc đem nhúng vào dương giấy cho có màu xanh lơ thay vì màu vàng cũ do giặt
bằng xà bông đá 65 phần dầu.
Vài cô thợ may nhận vá
mông quần của khách bị rách bằng những đường chỉ tạo thành hình vuông hay tròn
đồng tâm rất khéo, rất nhuyễn. Nhà nào trong nhà còn trữ đồ lính Việt Nam Cộng
Hòa do cha anh để lại thì rất may mắn cho mấy cậu con trai. Quần đem sửa lại
cho vừa, nhuộm đen, vừa đẹp vừa bền. Chỉ có điều bất tiện, khi giặt phải để
riêng, nếu không màu nhuộm sẽ loang ra quần áo khác, và khi ủi xong phải lau
mặt bàn ủi cho sạch màu đen.
Học trò đi học, sau
khi dùng nát mấy cái cặp da, cặp giả da từ mấy năm trước của cha anh bỏ lại,
giờ đi học bằng túi vải may từ vải bố. Anh nào giữ thói quen mang khăn mùi xoa
trong túi quần thì nhờ người thân cắt miếng vải vuông từ lưng áo cũ, may viền bốn
cạnh là có cái khăn lịch sự thỉnh thoảng móc ra chậm mồ hôi trên trán lấy le.
Ai giữ được vài xấp vải xoa Pháp, tergan hay dacron là yên tâm để nếu cần đem
ra may bận đám cưới, hoặc có thể bán ra mua gạo mà ăn.
Còn ăn uống thì có gì
ăn nấy từ số lương thực phân phối, là bột mì, bo bo, khoai mì, khoai lang... ăn
không nổi thì đem đổi gạo dù phải chịu thiệt. Mọi gia đình tìm đủ cách xoay xở
cho bữa cơm gia đình. Vai trò của phụ nữ trong nhà nổi lên, khi đàn ông vắng
nhà đi học tập cải tạo, hoặc thất nghiệp.
Những người đang bước
vào tuổi 60, ai cũng có câu chuyện của mình khi đã trải qua thời gian đó. Câu
chuyện của anh Hùng, bạn tôi trong một buổi họp mặt khiến mọi người như trở lại
thời mình mới hơn 10 tuổi mà dư vị của một thời quá đậm đà không quên được.
Hùng kể căn nhà của
anh ở Bà Quẹo lúc đó có tới 13 người,ba mẹ và các con.Trong đó, chỉ có vài
người anh chị của Hùng đi làm công nhân viên với lương và nhu yếu phẩm bèo bọt.
Ba đang lái xe buýt thì sau 1975 bị thất nghiệp vì không còn xăng. Má bán ngoài
chợ nhỏ, xoay xở đủ mọi cách để có bữa ăn cho 13 miệng ăn.
Chị của Hùng kể lúc ra
phía Lăng Cha Cả có gặp một chị bạn hồi trung học lang thang ngoài đó bán khoai
lang luộc, đi cùng một cô bạn. Chị ấy trước năm 1975 đang học đại học Luật, gia
đình sống trong cư xá dành cho sĩ quan cảnh sát ở Phú Nhuận. 2 chị đó đi bán mà
không ai mua, buồn tình đi ngắm chợ trời, ở đó có bán đủ thứ món của Sài Gòn tư
bản lấy ra từ các nhà người Mỹ bỏ đi trước ngày 30 tháng 4, hoặc chính người
trong nhà đem ra bán để đổi lấy gạo hay quần áo, có từ cái đồng hồ Nhật, Thụy
Sĩ đến tủ bàn ghế, máy Akai, dĩa hát, xe đạp, dụng cụ nhà bếp... Chị ấy kể
nhiều bữa phải ôm rổ khoai lang bán ế thất thểu ra về, bụng 2 chị em đói meo mà
không dám mua món gì để ăn.
Ở nhà Hùng, má xoay đủ
mọi cách để có bữa cơm tạm được cho cả nhà. Má mua đầu cá thác lác về kho với
nước dừa, ngon và béo ngậy, rất hao cơm. Hôm nào chị Hai mua được đầu tôm càng
về kho tàu (thân tôm để xuất khẩu) là càng tốn cơm với đám con đang lớn. May là
có vườn nhà bà Năm kế bên, hôm nào thiếu thức ăn chỉ cần làm tô nước mắm kho
quẹt, ra vườn hái mớ rau để chấm là đủ bữa cơm. Ngon nhất là rau càng cua, đem
vô rửa sạch trộn với dấm và trứng luộc xắt khoanh mỏng. Đến Tết, nấu được nồi
thịt kho thì bỏ vô nhiều đợt trứng cho thấm hết chất nước giàu đạm và béo, đến
khi cạn nước mới thôi.
Kế bên nhà của Hùng có
một khoảnh vườn nhỏ của bà Năm, người trong dòng họ. Bà Năm ở xa nên nhờ ba má
Hùng trông giùm khoảnh vườn này. Ở đó, má trồng bông huệ, bông vạn thọ đợi lớn
đem ra chợ bán, xoay đủ kiểu để kiếm tiền lo 3 bữa cơm. Ba không khỏe, các anh
chị lớn đều đi làm nên không thể khai thác được miếng vườn nhiều hơn. Vườn tược
trở nên hoang sơ, tối gió thổi lồng lộng vào nhà, đầy tiếng mèo hoang hơn chục
con kêu gào từ đó vọng vào.
Một hôm, Hùng vừa bước
vào bếp bỗng thấy cả đám mèo từ bên vườn dò dẫm bước qua gian bếp. Trong tủ
bếp, má để dĩa cá cho chị Hai đi làm ca về trễ ăn bữa cơm tối muộn. Hai ba con
mèo tinh quái dùng tay khều cái chốt tủ gạc-măng-giê, mở toang cửa và lôi con
cá ra thật nhanh. Hùng chạy tới thì cá đã bị mèo ngậm mang đi. Tối đó, ba và
mấy ông anh ngồi tính toán bàn với nhau. Mấy con mèo phá quá, kêu gào, ăn vụng
đủ thứ. Đang lúc khan hiếm chất đạm, thịt mèo cũng là loại thịt ăn được, thì
phải tính. Thế là vài hôm sau ông anh lớn mang về một cái bẫy bằng lưới kim
loại, nhìn giống bẫy chuột nhưng lớn hơn. Chỉ cần chút mồi là bắt được một con.
Mấy anh em xúm lại nhổ lông làm thịt. Món ragout, xào, rô ti... nấu bằng thịt
mèo khá ngon, thịt mèo ngọt, ăn ngon khi còn nóng. Có người hàng xóm còn qua
xin gan mèo về làm phá lấu ăn với bánh mì, cho con ăn chữa bệnh suyễn.
Đợt ăn thịt mèo hoang
đó diễn ra khoảng năm 1980. Anh em nhà Hùng ăn mấy đợt, lúc đầu thấy ngon miệng
nhưng ăn riết cũng ngán. Nhưng nhờ vậy cả nhà đỡ hốc hác vì thiếu dinh dưỡng.
Năm 1980, Hùng thi đậu vào đại học cũng nhờ ăn đủ chất, có sức thức khuya.
Cuộc sống có lúc như
vậy, nhưng khó khăn vẫn hoàn khó khăn. Một hôm, chị Hai của Hùng đi làm về đến
nhà, chở phía sau poọc ba ga xe đạp của chị 1 cái bao rất lớn nhưng có vẻ nhẹ
bổng. Mấy đứa em háo hức mở ra, ỉu xìu ngay vì trong đó chỉ là những cụm bông
gòn phế phẩm xỉn màu mà chị xin ở công ty Bạch Tuyết nơi làm việc. Chị Hai mỉm
cười, bảo để yên cho chị. Tối đó, chị giở tờ báo Khoa học Phổ thông mượn của ai
đó, cắm cúi đọc trong ánh đèn điện leo lét của những năm thời bao cấp, may là
hôm ấy điện không bị cúp.
Cuối tuần, chị Hai lần
dò sang vườn bà Năm kế bên nhà. Trên sàn xi măng, chị trải một lớp bông gòn
xuống và rắc một lớp meo nấm rơm mà chị đã mua sẵn. Cứ một lớp bông gòn lại đến
một lớp meo, xong dùng vải đậy lại cho kín. Đợi một thời gian, mở ra thấy một
lớp như màng nhện màu trắng nổi lên là biết thành công, chỉ đợi nấm chui ra.
Đến ngày rằm, chị thu hoạch nấm và đem ra chợ bán. Sau, không biết có ai chỉ,
vài người thương lái từ Chợ Lớn gặp chị và đề nghị cho đến nhà chọn nấm để mua.
Năm 1983, cả nước còn
ăn độn mà chị Hai làm nấm một vốn tới 6 lời, giá 1 ký nấm mắc hơn 1 ký
thịt. Nấm được người ta đưa đi bán nhiều lần, riết mà thành thương hiệu “Nấm Bà
Quẹo” một cách tự nhiên mà ai cũng biết là của chị. Bà con gần đó thấy làm ăn
được quá, đến xin học nghề. Chị Hai không trồng trực tiếp nữa mà chuyển sang
dạy nghề, bán meo, bán gòn. Hãng bông Bạch Tuyết biết chị Hai lấy bông gòn phế
phẩm làm meo nấm, làm ăn khá nên họ chỉ bán, không cho lấy nữa. Nhờ chuyện làm
nấm của chị mà cả nhà có một khoảng thời gian cả năm sống tươm tất hơn, bữa cơm
đỡ ăn độn và có thịt có cá.
Bây giờ nhớ lại, Hùng
bảo có cho vàng cũng không dám ăn thịt mèo. Nhưng câu chuyện một thời như vậy,
cần phải được nhớ và kể lại cho những thế hệ sau về cách cha anh họ đã tận dụng
mọi cách để tồn tại, đã vượt qua khốn khó thế nào...
Phạm Công Luận
(2) THỜI TẬN DỤNG… Phạm Công Luận Đó là... - Việt Luận - Viet's Herald | Facebook
Đau đớn thay ! Không phải chỉ một gia đình mà cả miền nam (cả nước) sống trong cảnh lầm than như vậy.
ReplyDeleteNên có vài ngưởi mĩa mai nói : sống xhcn có nhiều niềm vui nhỏ. Hôm nay loa kêu mỗi hộ khẩu mua được 5 kg gạo. Thế là chạy băng băng đi xếp hàng đem 5 kg về trong lòng vui mừng vì có cái ăn được vài bửa. Rồi hôm khác loa kêu cho mua 200 g đường, hôm khác 30 g bột ngọt, hôm khác một bắp cải. Vậy là cứ nghe loa kêu là có được niềm vui nho nhỏ. Chứ "trước 75" muốn mua thứ gì cũng có, bao nhiêu cũng được thì không có niềm vui 😄