Monday, September 22, 2025

Huyền Thoại "LON GÔ" Của Miền Nam Một Thời || Hoài Niệm Guigoz - Ký Ức & Kỷ Vật

Hát về Đâu...? - Trầm Vân

Ngày Về - Tôn Thất Phú Sĩ


Cầm tờ giấy ra trại mà tưởng mình đang mơ. Chúng tôi một toán 13 người ngồi quanh trong một cái láng (phòng) lợp tranh nhỏ cạnh bìa rừng. Tên Công An Quản Giáo đang lên lớp:

- Nhân Dân xét thấy trong thời gian Cải Tạo, các anh có vài tiến bộ, học tập chính trị và lao động tốt, nên ngày hôm nay với chính sách khoan hồng của Cách Mạng, các anh được Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa cho các anh về. Các anh về phải trình diện Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố , nơi đây sẽ Quản Lý các anh.

Hành lý chúng tôi mỗi người chỉ có một cái võng, vật dụng linh tinh tự chế như chén, lon, muổng, đũa..., một cái mền cũ và 5 kg khoai mì được nhà nước cấp cho để bồi dưỡng trên đường về. Vì không có áo quần tươm tất, 7 năm khốn khổ đã rách tả tơi, tôi đành phải mặc bộ áo quần Cải Tạo màu nâu, phía sau có hàng chữ đỏ CT.5.2 (Cải Tạo khu 5/Đội 2). Đành vậy thôi, mặc dù có vài Công An Quản Giáo hăm dọa “các anh coi chừng Nhân Dân biết các anh là Ngụy Quân Ngụy Quyền đầy nợ máu, người ta sẽ ném đá các anh”. Tôi nghĩ thầm, dù sao vẫn còn lối thoát, hơn là sống trong tù. Chúng tôi cũng nhiều phần không tin lời tên công an, nhận xét thấy rằng trong thời gian đi lao động, một đôi lần gặp dân, tuy bị cấm ngặt không được liên hệ, họ vẫn len lén vất cho vài củ khoai, vài trái chuối, tuy họ rất lam lũ và quá nghèo. Chúng tôi an tâm phần nào.


Nhìn bao khoai mì (thực phẩm chỉ có vậy thôi), đường về xa thăm thẳm, làm sao nấu nướng, anh Nuôi trại tù, đề nghị mua phần khoai mì này cho heo ăn với giá 6 đồng một kg.Chúng tôi đành phải bán cho nhẹ hành trang. Với 30 đồng chúng tôi có thể ăn được một tô phở không người lái và mua thêm một ổ mì, anh nuôi nói vậy. Lấy gì ăn trên đoạn đường về nhà đây? Thôi thì tới đâu hay tới đó, miễn thoát khỏi chỗ này rồi tính, chúng tôi ai cũng nghĩ vậy. Lần đầu tiên nhìn thấy tiền miền Bắc, (theo luật lệ của trại thì cải tạo viên không được giữ tiền), chúng tôi buồn cười: “Sau hơn 6 năm lao động cho xã hội chủ nghĩa, mình được một số tiền 30 đồng cụ Hồ, biết chừng đâu mình sẽ trở thành Tư sản, rồi lại bị đấu tố thì sao?” Nghĩ tếu cho vui vậy thôi chứ lòng chúng tôi ai nấy cùng hồi hộp, nôn nóng, nghĩ đến chốc nữa đây sẽ được trở về bên mẹ cha, bên vợ con, bên gia đình và lòng lâng lâng một niềm vui khôn tả. 

Tôi đang mơ nhè nhẹ bước vào nhà, mọi người không ai biết... Tôi chợt thấy nước mắt mình ứa ra tự lúc nào, không dám tưởng tượng cái sự thật tôi đang có vì mới cách đây vài giờ tất cả đều ngoài tầm tay. Thực hay mơ, nghĩ cho cùng, có lẽ mình giống như chết đi sống lại. Chiều hôm nay, rừng núi miền Bắc đầy tiếng chim kêu, ánh nắng chiều chan hòa reo vui trong gió. Trong cái ngút ngàn vô cùng tận của đất trời, tôi mơ... mơ những nụ hôn, những vòng tay, những lời chan chứa ân tình của một ngày về:

Trên đường về nhớ đầy;

Chiều chậm đưa chân ngày

Tiếng buồn vang trong mây

Tiếng buồn vang trong mây

Chim rừng quên cất cánh

Gió say tình ngây ngây

Có phải sầu vạn cổ

Chất trong hồn chiều nay

Chất trong hồn chiều nay

Tôi là người lữ khách 

Màu chiều khó làm khuây 

Ngỡ lòng mình là rừng 

Ngỡ hồn mình là mây....

CHIỀU - HỒ DZẾNH

Tôi hát khe khẽ cho tôi nghe bài thơ Chiều của Hồ Dzếnh ai đó đã phổ nhạc như chính lòng tôi đang phổ nhạc.

Theo chương trình, chúng tôi được ăn bửa cơm cuối ngay chiều nay, sau đó xe Công An của trại sẽ đưa bọn tôi xuống núi và cấp vé tàu lửa cho chúng tôi về Nam. Mọi việc đã xong xuôi, khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi tụ họp tại cổng trại, điểm danh một lần cuối, chờ xe của trại chở đi. Xin giã từ tất cả, chào tất cả bạn tù còn lại mặc dù không thấy mặt nhau trong giây phút này vì cổng trại xa quá tầm nhìn về các láng bạn tù đang ở. Tôi nhìn lên cổng trại, lá cờ đỏ sao vàng bay phất phơ, dưới hàng chữ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHIÃ VIỆT NAM- CÔNG AN NHÂN DÂN Tỉnh HÀ NAM NINH và ảnh Hồ Chí Minh. Tôi dơ tay chào và thầm nói "Thôi mầy ở lại, ta đi".

Xui cho tôi, tên công an gác cổng đàng xa, vẫy tay gọi tôi lại:

- Anh kia, lại đây, anh nói gì với Bác đấy?

Tôi lanh trí, trả lời:

- Tôi chào bác tôi về, tôi rất hồ hởi phấn khởi, nhờ ơn bác và đảng khoan hồng cứu xét cho tôi được về sum họp với gia đình.

- Anh lại đây, chờ làm việc.

Tôi đến vọng gác đứng chờ. Khoảng 15 phút sau có 1 công an Quản Giáo ra, đưa tôi vào phòng làm việc. Vẫn câu hỏi “anh nói gì với Bác?” Tôi trước sau như một, cứ một lời ban đầu trả lời. Thế là tôi bị giữ lại, 12 bạn lên xe ra đi. Tôi bùi ngùi nhìn theo, chiếc xe vận tải rú lên và lao đầu về phía trước để lại một đám bụi mờ, mờ như số phận của tôi phải trả, do cái tính hay tếu của tôi cho đời nó vui. Vui đâu không thấy bây giờ lại lo, lo một chút thôi, bởi vì thật ra, cũng liều rồi. Sau đó tôi bị giam cách ly và hàng ngày hàng đêm tôi phải làm tờ tự khai với câu hỏi “Anh đã nói gì với Bác?” Tôi vẫn cứ thế trả lời hàng trăm lần như một lần “Tôi chào bác tôi về, tôi rất hồ hởi phấn khởi, nhờ ơn bác và đảng khoan hồng cứu xét cho tôi được về sum họp với gia đình”.

Cuối cùng sau 2 tuần bị giữ lại, tôi được tha, với lời hăm dọa:

- Tạm tha cho anh, chúng tôi không tin lời anh nói tốt như vậy.

Lần này tôi nhắm mắt đi (không một lời giã biệt Bác). Tôi được trao lại đầy đủ hành lý, kể cả 30 đồng Cụ Hồ. 

4 giờ sáng ngày 21/9/81 (tôi gọi là ngày N), tôi quá giang xe anh Nuôi đi chợ. Tài xế chở tôi đến một ga không có tên tuổi gì cả (sau này tôi biết được là Ga Vinh), toàn là người miền núi. Họ nói tiếng của họ, họ hiểu với nhau, tiếng Việt của người dân tộc. Người Quản giáo trao cho tôi tấm vé xe lửa "tàu chợ". Tôi chỉ được cấp vé về đến Qui Nhơn, từ Qui Nhơn về Saigon phải tự túc. Tôi nghe trên loa phóng thanh người ta thông báo xe chạy đến ga Diệu Trì sẽ ngừng để chạy ngược lại về miền Bắc. Suốt thời gian di chuyển, tôi không dám mua một món gì để ăn, dù một củ khoai. Chỉ có 30 đồng, nếu hết thì làm sao xoay xở, trên người không có một cái gì có thể đổi chác được. Tôi uống nước cầm hơi cho qua ngày. Nghĩ ngày về đến Saigon vui quá tôi quên đi cái đói phần nào. Nhưng đến ngày N+3, vừa bước ra khỏi toa xe lửa, tôi muốn xỉu, hoa mắt, nhức đầu, bụng cồn cào ra chất chua. Chợt thấy con chó hoang ghẻ lác đứng gặm khúc xương bên hè mà nước miếng mình chảy dài. Cầm lòng không được, tôi sà xuống gánh hàng rong bán bún, ăn một tô bún to với nước mắm chanh tỏi ớt đường. Những cọng bún trắng tinh, thêm vị chua ngọt mặn trôi dần xuống cổ. Tôi không dám ăn nhanh, chậm chậm thưởng thức cái mùi vị ngàn năm một thuở. Bụng đã no rồi nhưng bụng lại đau khi người bán hàng bảo:

- Cho tớ xin 15 đồng.

Thế là toi đi mất nữa gia tài. Chần chờ tại ga Diệu Trì đến trưa phòng bán vé mới mở cửa. Tôi hỏi vé đi thành phố Hồ chí Minh. Anh cán bộ bán vé trả lời: “Diệu Trì - TP HCM giá 58 đồng”. Tôi yêu cầu cho giá hạng bét, anh ta lạnh lùng trả lời “đây chỉ có một giá thôi, đồng hạng”. Tôi năn nỉ “xin anh giúp cho, tôi chỉ có vỏn vẹn 15 đồng, cải tạo được tha về mà anh”. Với giọng Bắc lạnh lùng hơn nữa, anh ta dứt khoát trả lời “Không là Không”. Tôi đành ở lại Ga Diệu Trì để tìm phương cách khác. Với số tiền còn lại, tôi cầm hơi khoai sắn được 2 ngày thì hết sạch. Ban ngày tôi tìm đủ mọi cách để kiếm tiền vé xe nhưng không có cách nào cả, tối lại treo võng tòn ten ngủ trong sân ga. Thấy tôi mặc bộ đồ tù nên chẳng ai hỏi đến. May thay đến ngày thứ ba, trong lúc không còn một xu để mua thức ăn, có một em bé mặt mũi khôi ngô khoảng 10 tuổi tự nhiên chạy đến hỏi:

- Chú có muốn đi làm kiếm tiền không?

Mừng quá tôi hỏi:

- Làm chuyện gì em?

- Nhà cháu cần người gánh nước, mỗi đôi 1 đồng.

Tôi nhận lời ngay. Em bé dẫn tôi về nhà giới thiệu với bố mẹ. Người ta bằng lòng với điều kiện gánh nước không mặc quần áo cải tạo. Tôi nghĩ điều chi chớ điều này thì quá dễ, mặc quần xà lỏn gánh nước cũng tiện cho tôi. Từ giếng về nhà xa gần cây số, mỗi thùng cỡ 20 lít, cố gắng lắm tôi cũng chỉ gánh được 15 đôi. Ngày đi cải tạo 68 kg, ngày về còn 50 kg, gởi lại 18 kg thịt cho núi rừng Bắc Việt, tôi cảm thấy không đủ sức để gánh nhiều hơn. Tôi nhận 15 đồng để sống qua ngày. Ngày hôm sau người ta không thuê nữa, thế là thất nghiệp. 3 ngày vô vị trôi qua, lòng như lửa đốt, tôi đành chọn phương pháp NHAỶ TAÙ. Đây là phương pháp của những người bán hàng rong đi lậu vé, nếu bị xét vé thì bị phạt nặng. Đối với những người bán hàng rong thì dễ dàng vì người ta là dân, lại quen mặt với những người xét vé, còn tôi là tù vừa được thả, chưa có quyền công dân, lỡ bị xét không có vé có thể đi tù trở lại. Biết vậy nhưng con người đến đường cùng thì phải liều, tôi quyết định nhảy tàu.

Ngày N+6 chuyến tàu Thống Nhất từ Hà Nội vào đúng 8 giờ sáng. Từ đấy về Saigon tàu sẽ ghé mỗi ga. Tôi theo những người bán hàng rong đứng chờ sẵn mỗi toa. Khi còi tàu hú và chuyển bánh chầm chậm, dân nhảy tàu lợi dụng thời gian này, bu theo thành tàu chạy một đoạn rồi nhảy lên, đến ga tới, tàu ngừng thì nhảy xuống. Tại mỗi Ga như vậy, tàu ngừng khoảng 30 phút để hành khách lên xuống, chuyển hàng hóa và soát vé.

Tôi cứ nhảy ga như vậy cho đến ga Tuy Hòa. Trên đường nhảy ga tôi thường giúp đỡ những người bán hàng rong để chuyển dùm hàng hóa lên xuống, do đó tôi chiếm được cảm tình nhiều người và được tặng vài củ khoai, củ sắn, miếng cơm, cái bánh... no lòng trên suốt đoạn đường dài. Từ Tuy Hòa đến Ga Nha Trang, tàu đang chạy ngon trớn, bỗng nhiên ngừng lại. Sợ bị xét vé, tôi vội nhảy xuống, nhưng không phải soát vé mà là có một tai nạn xảy ra. Tàu đang cán phải một người. Hỏi ra mới biết nạn nhân cũng là một người tù mãn án, trên đường về không có tiền mua vé nên phải nhảy tàu, bị tên cán bộ xét vé đẩy té ngã vào đường rầy. Tên cán bộ này đang bị mọi người phẫn nộ đánh hội đồng. Sau đó tàu phải ngưng giữa đường một đêm, để giải quyết sự việc và từ đấy không còn xét vé. Khi tàu đến Ga Mường Mán, Phan Thiết, tôi ngồi lì không thèm nhảy nữa, bình an về đến Ga Bình Triệu đúng 11 giờ đêm ngày N+16.

Gió mát từ sông Saigon thổi vào thành phố. Chợ Bến Thành rộn rịp như ngày tôi đi nhưng tôi vẫn ngỡ ngàng nhìn Thủ Đô ngày nào bây giờ là thành phố đổi tên. 16 ngày đêm trên đoạn đường dài, biết bao kỷ niệm từ Bắc về Nam. Tôi vất hết hành lý, hai tay thọc vào túi áo, thả bộ từ Ga về nhà, trên con đường Trương Minh Giảng quen thuộc, lòng phơi phới nghĩ đến vợ con, đến mái nhà tổ ấm của tôi. Trong niềm tin và hy vọng, tôi chuẩn bị tư tưởng cho một chuyến ĐI XA. Đi thật xa và không bao giờ quay trở lại.


Tôn Thất Phú Sĩ

Lặng Ngắm "Vườn Hoa Địa Đàng" Đẹp Nhất Thế Giới

Khi ghé thăm những vườn hoa này, hẳn du khách sẽ cảm thấy như đang lạc vào "vườn địa đàng".

Nếu là người đam mê các loài hoa và thích đắm mình vào khung cảnh tự nhiên thơ mộng thì hẳn những khu vườn hoa dưới đây sẽ khiến bạn mê mẩn, níu giữ bước chân bạn mỗi dịp ghé thăm.

1. Khu vườn Butchart, Canada

Tọa lạc tại thành phố Victoria, khu vườn Butchart (Butchart Gardens) là điểm du lịch hấp dẫn nhiều du khách yêu thích thiên nhiên trên thế giới. Trải rộng trên diện tích 20ha, Butchart Gardens là tổng thể gồm nhiều khu vườn tuyệt mỹ (vườn hồng, vườn kiểu Ý, vườn kiểu Nhật...) khiến du khách liên tưởng tới cảnh thần tiên của "vườn địa đàng".


Dường như, tất cả mọi loài hoa trên thế giới đều hội tụ khoe sắc nơi đây, từ những bông hoa hồng, thược dược, cúc nhỏ và giản dị... đến những bông hoa lan, hướng dương vươn cao đón ánh Mặt trời.





Một điểm đặc biệt nữa là dù cho có dịp ghé thăm Butchart vào bất kỳ thời điểm nào, bạn cũng sẽ choáng ngợp bởi cảnh sắc 
"không bao giờ ngủ" của những sắc hoa nơi đây. Mùa xuân, hè đến là lúc để hàng ngàn bông hoa ở Butchart khoe sắc, tạo thành một vườn hoa rực rỡ sắc màu.





Mùa thu sang, sắc vàng của những tán lá cây khiến du khách choáng ngợp. Còn mùa đông, Butchart cũng không hề ngủ, hàng trăm loài thực vật khác vẫn tiếp tục vươn lên mạnh mẽ, tỏa hương sắc tuyệt diệu.

2. Vườn Exbury, Anh



Nằm ở công viên quốc gia New Forest, Hampshire, Anh, khu vườn nổi tiếng Exbury thuộc sở hữu của gia tộc Rothschild có sức quyến rũ kỳ lạ đối với bất cứ ai yêu sự lãng mạn và rực rỡ của những bông hoa sắc màu.





Mỗi khi hè sang, khu vườn Exbury lại rực rỡ với sắc hồng, đỏ của hoa đỗ quyên, hoa trà... bao phủ cả một khoảng không gian rộng lớn. Trải dài trên một vùng có diện tích khoảng 81ha, khu vườn Exbury không chỉ là một điểm du lịch yêu thích của nhiều người mà còn là khu nghiên cứu thực vật của các nhà khoa học.

3. Vườn Keukenhof, Hà Lan



Nằm tại Lisse, một thị trấn nhỏ ở phía Nam Amsterdam (Hà Lan), vườn Keukenhof được nhiều người biết đến là một trong những vườn hoa tulip đẹp nhất trên thế giới. Với khoảng 7 triệu hoa tulip thuộc 100 giống khác nhau, vườn Keukenhof đủ sức lay động, làm mê mẩn bất cứ du khách nào có dịp ghé thăm nơi đây.





Thời gian đẹp nhất để ngắm hoa tulip là vào cuối tháng 4 và đầu tháng 5, đây cũng là thời điểm diễn ra lễ hội hoa Keukenhof lớn nhất thế giới trong tiết trời tuyệt đẹp của mùa xuân châu Âu.





Với những ai yêu thích tulip, nếu có dịp hãy một lần ghé qua Keukenhof - thiên đường hoa tulip để cảm nhận vẻ đẹp muôn màu của hàng ngàn loài hoa được trồng xen kẽ, tạo thành những bức tranh nghệ thuật đáng kinh ngạc.

4. Vườn Nong Nooch, Thái Lan

Tọa lạc ở Pattaya, Thái Lan, Nong Nooch là một trong số ít công viên thực vật nhiệt đới lớn của Đông Nam Á. Ban đầu, đây chỉ là một khu đất hoang nhưng được vợ chồng bà Nong Nooch mua lại năm 1954 để làm khu trồng trọt. Tuy nhiên, sau một chuyến du lịch nước ngoài, bà đã quyết định biến nó thành khu vườn nhiệt đới với cây cảnh, hoa.



Sau nhiều năm xây dựng, Nong Nooch đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn, và được mở cửa đón khách từ năm 1980 với tên chính thức là Suan Nong Nooch. Trong khuôn viên vườn hiện nay có đến 20.000 họ cây nhiệt đới được sưu tầm từ hơn 50 quốc gia khác nhau.





Các khu vực cây cảnh được sắp xếp tỉ mỉ và tỉa gọt đẹp mắt, công phu. Hình dạng, kích thước của các loài cây đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo, rất riêng cho khu vườn.


5. Vườn bách thảo Singapore
Được thành lập vào năm 1859 và kể từ đó, vườn bách thảo Singapore thu hút hàng triệu lượt khách du lịch ghé thăm mỗi năm bởi vẻ đẹp tinh khôi của nó.



Với diện tích 54ha, vườn bách thảo Singapore là nơi hội tụ của nhiều loài hoa cỏ nhiệt đới quý hiếm, đặc biệt là phong lan với gần 60.000 bông hoa lan đủ mọi sắc màu đua nở. Hàng năm, nhiều cây lan lai ghép có màu sắc rực rỡ và độ bền cao liên tục được bổ sung vào bộ sưu tập đầy ấn tượng này.





Đặc biệt, vườn bách thảo Singapore cũng là trung tâm nghiên cứu lai tạo các giống cây công nghiệp cho thế giới như hoa hồ di hay cao su ba lá...

Anh Thập chuyển

Giả & Thật

Có một cụ ông dùng rất nhiều tiền tiết kiệm của mình để sưu tầm đồ cổ. Vợ của ông qua đời sớm, để lại cho ông 3 đứa con, nhưng con cái ông lớn lên đều ra nước ngoài định cư sinh sống. Còn ông thì có một cuộc sống của riêng mình. 

Con cái không bên cạnh, may thay lúc già, ông có một người học trò theo ông học sưu tầm đồ cổ, cận kề bên ông. Nhiều người cho rằng: “Nhìn cậu thanh niên này, công việc của bản thân không làm, mà ngày nào cũng bên cạnh ông cụ, nhìn có vẻ rất hiếu thuận”. Hẳn rằng, thanh niên này chỉ vì tiền và khối gia sản của ông.

Con cái ông cũng thường xuyên gọi điện từ nước ngoài về, nhắc nhở ông phải cẩn thận, đừng để thanh niên kia lừa. 

- Ông nói : “Ba đương nhiên biết mà. Ba cũng đâu có ngốc”. 

Cuối cùng vào ngày ông qua đời, khi luật sư tuyên bố di chúc, ba người con từ nước ngoài về, người học trò cũng đến. 

Sau khi di chúc tuyên phán, mặt ba người con đều biến sắc, VÌ HẦU NHƯ TOÀN BỘ TÀI SẢN ÔNG ĐỀU ĐỂ LẠI CHO CẬU HỌC TRÒ CỦA MÌNH.


Trong di chúc ông viết rằng: 

“Tôi biết rằng có thể người học trò này vì tham tiền của tôi, nhưng trong lúc già yếu, thật chỉ có cậu ấy bên cạnh tôi. Cứ cho là con cái tôi yêu thương tôi thật lòng, nhưng cũng chỉ là nói trên miệng, đặt trong lòng, lại không đến chăm tôi, như thế yêu thật lại thành giả. 

Ngược lại, coi như người học trò này của tôi đối với tôi đều là giả, giả dối đến mười mấy năm, nhưng một câu oán trách cũng không có, luôn kề cận cùng tôi và cuối cùng giả lại như thật" .


Sưu tầm

AI , Người Bạn Kỳ Diệu Hay Con Dao 2 Lưỡi - Cậu Chấn



Lời trần tình của Cậu Chấn

Dạo này, đi đâu mình cũng gặp “AI”.

Bạn già thân quen, người trẻ mới gặp – ai cũng hào hứng bàn chuyện ChatGPT, vẽ hình, làm thơ, sửa hình, ghép ảnh, làm video, viết nhạc, dịch sách, viết bài tự động, v,v, …

Mình cũng vậy.

Chỉ mới làm quen với AI chưa đầy một tháng, tò mò thử vài câu, chẳng tốn kém mấy.

Không ngờ – càng thử, càng mê, vì AI làm được những điều trước đây mình chỉ dám… mơ.

Ví dụ :

Ai quen cậu đều biết, mình chẳng biết một nốt nhạc làm thuốc, trong mắt mình, bản nhạc chỉ như đàn chim đậu loạn xạ trên dây điện.

Vậy mà, đêm đầu tiên thử AI, mình đã sáng tác được một ca khúc hoàn chỉnh để: “Nâng Bi Bà Xã”

Mợ Chấn nghe qua – “ứa nước mắt”.

Không chỉ vì lời hát, mà là lần đầu, ông xã đã sáng tác một bản tình ca riêng cho mình.

Bài hát do AI sáng tác thật hoàn hảo – từ lời văn chải chuốt, melody dịu dàng, ca sĩ nổi danh, hoà âm, nhạc cụ thật chỉnh chu.

Không biết một nốt nhạc, mình chỉ viết lên vài dòng tâm sự, thế là chỉ 1 phút sau một công trình nghệ thuật đã làm xiêu lòng người vợ thương quí.

Thế mới thấy, “làm sao mà ai chẳng mê AI?”

AI thực sự là một người bạn kỳ diệu – nếu ta dùng đúng cách.

Nhưng rồi... nỗi lo bắt đầu xuất hiện.

Bữa nọ mình phát hiện mối ưu tư về AI:

Mình có đứa cháu trai đang nạp hồ sơ đại học, cháu muốn ngành toán-lý-hóa để sau này làm cho hãng xe hơi.

Cháu khoe mấy bài luận văn, essay gửi cho các trường danh tiếng – văn phong cực hay, kiến thức sâu. Mình rất mừng, thầm tin cháu sẽ đậu.

Muốn thử tài cháu, mình đưa cho nó một bài toán hình học lớp 12… cháu ấp úng. Và rồi...cháu “tự thú trước bình minh”:

“Dạ mấy bài essay, cháu nhờ AI viết giùm.”

Không nhớ lúc đó mình cười… hay bật khóc.

Bữa khác, đọc tin sốc trên mạng –

Một bà già, nhận điện thoại, thằng John, cháu cưng của bà, học ở xa. Cháu mới bị đụng xe, giọng thằng nhỏ thân quen của bà, khóc lóc thảm thiết, y chang tiếng nó khóc, lúc còn bé trèo cây té.

– “Cháu đi với thằng Tâm, con bà Hai Khuê ở gần nhà ngoại. Tụi cháu vẫn đến thăm bà lúc nghỉ hè đó. Cháu bị gẫy chân, phải bó bột, Thằng Tâm chỉ bị thương nhẹ. Nhờ có nó nuôi cháu hổm rày. Cái xe bị lật, hư hại hoàn toàn, xe thì không có bảo hiểm, cháu cần gấp 3 ngàn đóng tiền nhà thương.

Bà ngoại khóc mếu, lật đật sang nhà bà Khuê nhờ Zelle tiền cho thằng Tâm và thằng John. Nghe chuyện, bà hai Khuê nói, thằng Tâm nhà con đang nghỉ spring break, ở nhà, nó có đi đâu mà bị đụng xe với cháu bà. Bà ngoại gọi phôn cho mẹ cháu hỏi lại, thằng John vẫn khỏe như voi. Thế là bà ngoại không bị lừa mấy ngàn bạc tiền già.

Kịch bản này rất quen, xẩy ra mỗi ngày. AI biết số điện thoại của mỗi người nhà, clone tiếng nói lớn, bé, già trẻ, dùng điện thoại lừa gạt mọi người, hàng ngày.

Và Đó là điều rất đáng sợ.

Đây chỉ là chuyện nhỏ nhưng, làm sao tránh khỏi những tin tình báo, đâm bị thóc, thọc bị gạo, tin giựt gân, khủng bố. Khủng hoảng từ lục đục trong gia đình đến chuyện quốc gia đại sự, và rộng đến Thế giới đại sự. Bây giờ khi đọc một bản tin trên mạng xã hội chúng ta tin được bao nhiêu phần trăm ?

AI không hồn, không xác, không xấu. không tốt. Nó chỉ là một công cụ.

Quan trọng là người dùng – có đủ lương tri, tỉnh táo và hiểu biết để sử dụng hay không.

– Học sinh dùng AI để hiểu thêm bài, không phải để gian lận.

– Người viết dùng AI để gợi ý, không phải để đánh tráo giá trị.

– Xã hội dùng AI để tiến bộ – không phải để lừa gạt nhau bằng fakenews và giọng giả.

Mình xin khép lại bài viết bằng câu nói thấm thía chính mình trải nghiệm những ngày qua:

"Hãy cứ dùng AI, nhưng đừng để AI dùng lại chúng ta."

Nếu bạn cũng mới “làm quen với AI”, mời bạn chia sẻ bài viết này.

Biết đâu, một lời tỉnh thức nhỏ… sẽ lan thành ngọn lửa lớn.

 

Cậu Chấn

Khát Khao Định Thần - Đỗ Công Luận

Sunday, September 21, 2025

Những Giọt Nước Mắt, Những Tiếng Thở Dài - Từ Thức

 

André Gide nói ‘’ C’est avec les beaux sentiments qu’on fait de la mauvaise littérature ‘’  ( Với những tình cảm tốt, người ta làm văn chương dở ) (1) . Tiểu Tử là một nhà văn đã chứng minh ngược lại, có thể viết hay với những tình cảm tốt. Trong tác phẩm của ông, hầu như chỉ có những tình cảm tốt , chỉ có tình người.

Một nhân vật nói về một nhân vật khác trong truyện ngắn ‘’Made in Vietnam’’ : người chi mà tình nghiã quá héng ? ‘’ . Độc giả nghĩ tới câu đó mỗi lần lại gần những nhân vật của Tiểu Tử. Người chi mà tình nghiã quá héng.

Độc giả chai đá tới đâu, đọc Tiểu Tử cũng không cầm được nước mắt. Người ta khóc, nhưng sau đó thấy ấm lòng, vì thấy trong một xã hội đảo lộn, vẫn còn đầy tình người, vẫn còn đầy thương yêu, vẫn còn nghiã đồng bào vẫn còn những người tử tế . Và thấy đời còn đáng sống.

Một nhà văn Pháp nói văn chương, trước hết là xúc động. Trong truyện ngắn của Tiểu Tử, sự xúc động hầu như thường trực, chan chứa.


MIỆT VƯỜN 

Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam.

Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên. Tiểu Tử không ‘’ làm văn ‘’ .  Không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách. Ông viết với tấm lòng. Không có ưu tư văn chương, đó là mộ Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên. Tiểu Tử không ‘’làm văn‘’.  Không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách. Ông viết với tấm lòng. Không có ưu tư văn chương, đó là một nhận xét gây tranh cãi sôi nổi về các nhà văn miền Nam trên một tờ báo văn học Sài Gòn trước 75. Nhưng nếu Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc viết như kể chuyện, Sơn Nam - với Hương Rừng Cà Mâu- và sau này, Nguyễn Ngọc Tư- với Cánh Đồng Bất Tận –có văn phong riêng, độc đáo. 

Văn chương, trước hết là ‘’ style ‘’. Có hai loại nhà văn : có văn phong hay không . Tiểu Tử thuộc loại nhà văn thứ nhất.

Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp , Giáng Hương, như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My , Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm , bà Năm Chiên, bà Năm Cháo lòng.

Các địa danh cũng đặc Nam kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hoà, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa danh rất ‘’miệt vườn’’, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương, lạ tai, ngồ ngộ. Âm thanh như câu vọng cổ ai ca bên bờ rạch.

Tiểu Tử , 88 tuổi, kỹ sư dầu khí, tác giả nhiều tập truyện ngắn (Những Mảnh Vụn, Bài ca Vọng Cổ, Chuyện Thuở Giao Thời ) học ở Marseille, hiện sống ở ngoại ô Paris,  nhưng văn của ông không lai Tây một chút nào. Rất Việt nam, đúng ra rất Nam Việt, với lối viết như người ta kể chuyện bên ly la de, bên tô hủ tíu, với những chữ nghen, chữ héng, chữ nghe..’’. ‘’ Cần gì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà ..’’.Dưới ngòi bút của một tác giả người Bắc, người Trung, gọi người đàn bà là con Huê, con Nhàn có vẻ hỗn, ở Tiểu Tử, nó chỉ có sự thân ái. Ở ngoài đời cũng vậy, nghe ông gọi ‘’ con nhỏ '' này, con nhỏ kia, người nghe chỉ thấy chỗ thân tình

Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Tiểu Tử đã chứng tỏ ngôn ngữ địa phương, cách diễn tả địa phương làm giầu cho văn hoá dân tộc. Cố gắng bắt chước lối diễn tả Hà Nội là một lầm lỗi, nó chỉ làm cái vốn văn hoá của ta nghèo đi. ( Và đó là nói về Hà Nội ngày xưa, HN của ngàn năm văn vật. Hà Nội ngày nay không còn gì là nơi văn vật, cái gì cũng ‘’ đéo ‘’, như câu đối thoại ở một sạp báo, không biết có thực hay chỉ là chuyện tếu:  ''Còn báo Nhân Dân không ? - Đéo còn nhân dân, chỉ còn Người Hà Lội '' )


 NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT

Văn chương là hư cấu, nhưng đọc Tiểu tử, người ta thấy cái chân thực, có cảm tưởng không có chi tiết nào là kết quả của tưởng tượng. Tất cả đều là những chuyện tác giả đã sống, hay đã nghe kể lại . Vả lại, ở Việt Nam, thực tế vượt xa tưởng tượng. Cái đau đớn, cái thảm kịch mỗi người Việt Nam đã, đang sống, không có người viết văn nào, giầu óc tưởng tượng tới đâu, có thể bịa ra. Orwell, Kafka sống dậy cũng chào thua, thấy óc tưởng tượng của mình có hạn.

Trong ‘’ Thầy Năm Chén ‘’, ông thầy thuốc, suốt đời làm việc nghiã, bị cách mạnh hành hạ, chuẩn bị cho con vượt biên. Khi giã từ con, ông đưa cho con, thằng Kiệt, ‘’ một cái gói mầu đỏ đã phai màu, cột làm nhiều gút’’  , nói : ‘’cho con cái ni (ông già người gốc Huế ). Con giữ trong người để hộ thân.’’ Kiệt đến Cannada an toàn, một ngày dở cái gói của cha cho ngày vượt biển. Trong đó có … ba cái răng vàng. Thầy Năm Chén, nhờ ơn cách mạng, trở thành vô sản,  đã cạy ba cái răng vàng cho con làm của hộ thân đi tìm đường sống ở xứ người. Độc giả hiểu tại sao từ ngày con đi, ông Năm Chén chỉ húp cháo. 

‘’ Chiếc Khăn Mùi Xoa ‘’ có thể coi là điển hình cho truyện ngắn Tiểu Tử , trong đó có sự xúc động cao độ, đẫm nước mắt, với những nhân vật nhân hậu, giầu tình nghiã, những chi tiết éo le như một cuốn phim tình lãng mạn, nhưng đơn giản, chân thực. 

Một người Việt tị nạn ở Pháp về thăm nhà, gặp những người bạn học cũ, trong đó có nhân vật chính, ‘’ con Huê ‘’, sự thực là một người đàn bà đã đứng tuổi. Ông ta kể lại :  ‘’Con Huê tiễn tao ra cổng, đứng ngập ngừng một lát rồi bỗng nói một mạch, là lạ, như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ : Anh qua bên Tây , gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh . Nó nói rồi bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay quệt nước mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê, nói với tao : Anh biết không, chị Huê thương anh Cương từ hồi còn nhỏ lận .  Người con gái ở quê mình nó thật thà, trung hậu đến mức độ mà khi trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là tự nhiên , phải có nước lớn nước ròng ‘’. 


Tiểu Tử viết chuyện tình âm thầm của người đàn bà từ ngày còn đi học, tới ngày nay đã bạc đầu, với người bạn trai ngày xưa tên là Cương, nhưng sóng gíó 75 đã khiến người đàn ông bỏ nước đi lánh nạn. Người con gái của ông Cương, đang sống ở Bruxelles, đọc truyện, cho tác giả hay bố mẹ đều đã qua đời. Trước khi chết, Cương dặn con gái : ‘’ Con ráng tìm cách về Nhơn Hoà, Cầu Cỏ, trao cái này cho cô Hai Huê, nói ba không quên ai hết ‘’.  Chữ '' ai '', đặc Nam kỳ, dễ thương chi lạ. ‘’Cái này ‘’ là một bao thư, trong đó có chiếc khăn mùi xoa cô Huê đã tặng Cương thời trẻ. Người con gái thấy thương bố, thương cô Hai Huê không cùng. Cô gái đi Việt Nam, một xứ xa lạ, tìm về Nhơn Hoà, Cầu cỏ, tìm người đàn bà tên Huê để trao lại kỷ vật của người đã qua đời. Cô Hai Huê xỉu đi khi nghe tin người bạn xưa đã chết. Hai người đàn bà, một già, một trẻ ôm nhau khóc. Cô gái mang cô Hai Huê sang Bỉ, sống với nhau như mẹ con. Người chi mà…Nếu bạn là người tưởng mình có tâm hồn sỏi đá vì đã sống, đã chứng kiến đủ mọi thảm kịch của đời sống, nhất là đời sống của một người Việt Nam, bạn sẽ ngạc nhiên thấy mình đang lau nước mắt


KHÔNG ĐIÊN CŨNG KHÙNG

Thế giới truyện ngắn của Tiểu Tử xoay quanh hai đề tài chính: những kỷ niệm về một Miền Nam hiền hoà, chất phác, nhân hậu ngày xưa, với những trò vui đùa, nghịch ngợm của đám bạn bè trẻ, những mối tình mộc mạc của những người dân quê và, sau đó,  những đảo lộn sau 75, khi tai họa trên trời giáng xuống. ‘’ Tất cả đều bị xáo trộn, bị nghịch lý đến nỗi tao sống trong đó mà lắm khi phải tự hỏi : làm sao có thể như vậy được ‘’. Một xã hội vô tư, kể cả vùng quê, hiền hòa, trở thành địa ngục. Chỉ còn hận thù, phản trắc, gian sảo, cướp đoạt, dối trá.

Những nhân vật của Tiểu Tử không còn cười đuà, vui chơi, dễ dãi nưã. Đó là những nhân vật đầy ưu phiền như ông Tư, như bà Hai, như thầy Năm Chén, như anh Bẩy, như bà Năm Cháo lòng. Một xã hội đổ nát, rách bươm. ‘’Những người ‘’cách mạng’’ xông vào nhà, ngang nhiên hùng hổ, như một bọn cướp. Họ ‘’bươi ‘’ từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ sau ra trước…giống như gà bươi đống rác.Gặp gì kiểm tra nấy. Vậy rồi…hốt hết. ‘’

Sau 75 , người ta truyền nhau một câu ca dao mới : Thằng khôn thì đã vượt biên. Những thằng ở lại không điên cũng khùng. Các nhân vật của Tiểu Tử, vốn là những người miền Nam hiền lành, dễ tin, yêu đời, nhiều người đã hết lòng với ‘’kháng chiến ‘’, sau ''cách mạng’’, đều bị đàn áp, gia sản bị cướp đoạt trắng trợn trong những chiến dịch ‘’ đánh tư sản mại bản ‘’ trở thành không điên cũng khùng. 

Ông Tư ( trong IM LẶNG ) là người có gia sản ở Saìgòn, đã bí mật đóng góp tài chánh cho ‘’Giải Phóng’’. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, không những không được trả ơn, mà bị hành hạ, gia sản bị cướp sạch. ‘’ Bỗng nhiên ông Tư nhận thức rằng tất cả những gì thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ cuả ông đang chờ đợi ông ở nhà ‘’. Nhưng bà vợ tiếc cuả, uất hận vì bị cách mạng lưà gạt, suốt ngày đay nghiến, trách móc chồng. Rốt cuộc hai vợ chồng tìm được cách chạy sang Pháp, nơi con trai ông đã được bố mẹ gởi đi du học, đã thành đạt, có nhà cưả sang trọng. Ông con hỏi bố ở chơi bao nhiêu ngày. Ông Tư nói ở lại luôn. Ông con nói, giọng đặc ‘’Việt kiều yêu nước’’ : ‘’ Ủa, sao lại ở luôn. Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên cổ mình hết; vậy mà ba má bỏ qua đây luôn. Thiệt là vô lý ‘’. Ông Tư trở thành một người câm, không nói gì với ai nưã. Cho đến một hôm ông lầm lũi lội xuống biển cho nước cuốn đi. Ông Tư là một ‘’ thằng khôn’’ đã vượt biên, nhưng cái đau đớn bám ông già cho dù có trốn ở cuối chân trời, cuối cùng chỉ có nước biển mới rửa sạch. 

Bà Hai ( trong Thằng Đi Mất Biệt ), con cái chết, gia tình tan nát, suốt ngày ngồi chờ đưá con trai còn lại bị đưa đi cải tạo. ‘’ Khi trời nắng ráo, bà đi tuốt ra ngoài vàm rạch, lên ngồi trên môi đất có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy,  "khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông, mình cũng nhìn ra đươc nó liền hà".

Thầy Năm Chén, phòng mạch bị chiếm, con trai phải bỏ đi vượt biển. ‘’Chia tay nhau mà hai cha con không dám ôm nhau. Sợ người ta để ý. Thầy không đưa con ra cổng nghiã trang. Sợ người ta để ý. Thầy không dám để rơi một giọt nước mắt. Sợ người ta để ý. Thầy chỉ thở dài. Thời buổi bây giờ chỉ thở dài là không ai để ý. Bởi vì ai cũng thở dài hết ‘’. 

Ông già bới rác ( truyện cùng tên ) là một ông già có công với ‘’cách mạng’’, bi cách mạng cướp hết không còn manh giáp, trở thành khùng, suốt ngày lang thang ngoài đường bới rác, ‘’tao bới rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng tao đã nuôi trong nhà ‘’

Trong Những Mảnh Vụn , người yêu ‘’đi chui bán chánh thức‘’, nghiã là đi vượt biển do cán bộ tổ chức, biệt tăm, chắc mất xác vì tầu quá cũ bị chìm , anh Bâỷ suốt ngày, như một người mất hồn, đi qua lại tất cả những nơi ngày xưa hai người vẫn hẹn hò. ‘’ Bẩy không biết mình đang đi lượm những những mảnh vụn của cuộc tình. Nếu không có cái ‘’ngày cách mạng thành công ‘’ đã thật sự thành công trong nhiệm vụ đập nát tất cả những gì của miền Nam, kể cả những gì nhỏ bé nhứt, tầm thường nhứt như tình yêu của chàng trai và cô gái đó ‘’.

Bà Năm cháo lòng ‘’ vẫn bán cháo lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng con mà giống như bà chửi cả nước ‘’

Mỗi truyên ngắn Tiểu Tử thể hiện sống động một giai đoạn lịch sử, tóm tắt trong câu thơ mà người ta gán cho Bùi Giáng, vì trong cái điên loạn của xã hội, người điên tỉnh hơn cả người tỉnh : Đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào. Đánh cho chết mẹ đồng bào miền Nam. 

NHỮNG NỤ CƯỜI

Đọc Tiểu Tử, người ta không thể không xúc động. Nhưng văn Tiểu Tử cũng đầy nét khôi hài, những nhận xét ngộ nghĩnh. Phòng mạch của Thầy Năm Chén ‘’bịnh nhơn cũng vắng. Làm như người ta sợ quá rồi…quên bịnh. Trái lại, bên phía chuà thì lại đông người lui tới và ngày nào cũng có người. Làm như người ta chỉ còn biết …dựa vào Phật ‘’.

Qua vài nét chấm phá, ông ghi lại những cảnh trái tai gai mắt, những cảnh lố bịch của những người thắng trận. Những cảnh không biết nên cười hay nên khóc diễn ra trước mắt, mỗi ngày, chỉ cần ghi lại, không cần thêm thắt, bình luận. André Gide : Plus un humouriste est intelligent, moins il a besoin de déformer la réalité pour le rendre significative ( Một nhà khôi hài càng thông minh, càng không cần bóp méo sự thực để làm cho nó có ý nghiã ). Tiểu Tử không cần bóp méo sự thực, chỉ việc cúi xuống lượm, ghi lại những cái lố lăng, đảo lộn luân thường diễn ra mỗi ngày, trước mắt. Nói như vậy, sự thực không dễ. Phải tinh tế, nhạy cảm mới biết ‘’ lựa ‘’ cái gì, trong một cửa hàng ê hề là xã hội VN những năm sau 75. 

Muốn hiểu lịch sử, hay xã hội trong một giai đoạn lịch sử, không gì hơn là đọc các nhà văn. Hơn là những sử gia, những nhà biên khảo, nhà văn, trong vài chữ, vài nét, cho thấy mặt thực của xã hội.

Salman Rusdhie nói ông viết văn, bởi vì đó là cách hay nhất ông tìm thấy để hiểu thế giới chung quanh.

Văn chương đi vào trái tim, trong khi biên khảo chỉ đi vào trí óc. Không có xúc động, rất khó có cảm thông. Không có cảm thông, không sống với người trong cuôc, làm sao hiểu được ? Staline : ‘’ một người chết là một bi kịch, một triệu người chết chỉ là một con số thống kê ‘’.

Nhà văn không làm thống kê, chỉ ghi lại bi kịch của mỗi nhân vật, của tôi, của anh , của mỗi người. Mỗi câu chuyện là một bi kịch ; hay bi hài kịch - farces tragiques-của một thời đảo điên.


KÝ ỨC CỦA MỘT XÃ HỘI TỬ TẾ

Truyện ngắn Tiểu Tử, với lối hành văn bình dị, linh động là một cuốn tự điển sống của ngôn ngữ miền Nam thời chưa loạn. Đó là kho tàng quý; trong khi ở hải ngoại, chữ Việt càng ngày càng lai Tây, lai Mỹ; trong nước càng ngày càng lai Tầu, với những chữ, những lối nói ngớ ngẩn, đôi khi kỳ quái, khiến tiếng Việt không còn là tiếng Việt, báo hiệu một ngày người Việt không còn là người Việt. Và, từ đó, nước Việt không còn là nước Việt. Nguyễn Văn Vĩnh : tiếng Việt còn, nước Việt còn…

Truyện ngắn Tiểu Tử là những giọt nước mắt, những tiếng thở dài, nụ cười đùa cợt trong những ngày bình an và ngay cả, nhất là, trong cơn đớn đau cùng cực. Ông là một nhân chứng quý báu của một giai đoạn bi thảm của một thuở giao thời. ‘’Chuyện Thuở Giao Thời ‘’ là tựa tập truyện sau cùng của tác giả. Nhưng chữ thuở giao thời còn nhẹ quá. Phải nói là một cuộc đổi đời ghê rợn nhất trong lịch sử dân tộc Việt, một dân tộc vốn đã quen ăn nằm với máu và nước mắt .  


Độc giả trân trọng với truyện ngắn Tiểu Tử , có lẽ bởi vì đó là một tài liệu quý . Một cuốn phim sống động về một xã hội tử tế đang phá sản, đặc biệt là phá sản về luân lý , về tình người.

Cái xã hội tử tế tử tế đó càng xa dần, càng biệt tăm, rã rời, và biến mất, người ta càng xúc động, như một chiều rảnh rỗi, không cầm được nưóc mắt khi coi lại những tấm hình cũ, thật đẹp, thật thơ mộng, của chính mình ngày xưa ( 2 )

 

TỪ THỨC ( Paris )

1 . A.Gide muốn nói muốn viết văn, phải đi vào tận cùng tâm khảm của con người. Và nếu đi tới cùng, sẽ thấy nhiều cái xấu, cái lở lói. Bản chất con người phức tạp, đời sống phức tạp, cái xấu cái tốt lẫn lộn. Văn chương phải lột trần được cái sự thực đó.

2. Trên đây là bài nói chuyện nhân dịp ra mắt sách của Tiểu Tử ở Paris, ngày 03/01 /2015 . Những đoạn văn được trích dẫn từ ba tuyển tập truyện ngắn : Những Mảnh Vụn , Tiếng Ca Vọng Cổ, ChuyệnThuở Giao Thời. Điạ chỉ e-mail liên lạc : :Tiểu Tử, vanvovan9@gmail.com

Những Cảnh Đời Nghiệt Ngã - Nguyễn Duy Phước

Anh Hai Tiểu Tử Của Tôi - Tiểu Thu

Vĩnh Biệt Nhà Văn Tiểu Tử (1930 – 2025)

Lời tác giả:  Hôm qua nhận được tin anh Tiểu Tử qua đời TT buồn quá, lục lại bài viết về Anh Tiểu Tử rất lâu rồi, gửi cho TK. Nhờ TK đăng lại như một nén hương lòng tưởng niệm người anh Hai trên văn đàn rất đáng yêu đáng kính mà TT đã có duyên gặp gỡ trong đời.

*****

       Khi nhận được thư của nhà văn Việt Hải mời góp mặt trong cuốn sách vinh danh nhà văn Tiểu Tử, tôi hơi ngại ngùng vì biết mình chỉ là một cọng cỏ dại nhỏ bé giữa một rừng cây cổ thụ trong làng văn học hải ngoại. Nhưng nghĩ cho cùng, viết hay hay dở thì cũng ráng bày tỏ tấm lòng kính yêu của mình đối với người "Anh Hai" trong nhóm Tình Viễn Xứ của chúng tôi.

          Tôi được may mắn làm quen với  nhà văn Tiểu Tử qua lời giới thiệu của nhà văn Việt Hải vào năm 2006. Trước đó, chúng tôi (một nhóm bạn ở thành phố Montréal) có chuyển cho nhau đọc truyện ngắn "Bài Ca Vọng Cổ" của nhà văn Tiểu Tử. Thú thật lúc đó bút hiệu này còn xa lạ với chúng tôi, tuy rằng ông đã xuất bản tập truyện ngắn đầu tiên và đã có tiếng trong làng văn học. Đọc truyện ngắn "Bài Ca Vọng Cổ" tới đâu lòng tôi nghẹn ngào tới đó. Văn phong ông bình dị, không chải chuốt cầu kỳ mà xúc động, lôi cuốn biết bao. Trích:

...Hắn xòe hai tay đưa ra phía trước, lật qua lật lại:

        - Bên nội của con là nằm ở bên ngoài này nè.

          Rồi hắn để tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ về phía trái tim:

       - Còn bên ngoại nó nằm ở bên trong. Ở đây, ở đây nè bác.

          Bỗng giọng hắn nghẹn lại:

        - Con lai Việt Nam thiệt mờ bác! Ngoài thì đen thui chớ bên trong vàng khè hà bác ơi.

          Đó, văn ông mộc mạc như cuộc sống hiền hòa của những con người chơn chất miền Nam ngày nào. Những người dân miệt sông nước Tiền Giang, Hậu Giang với đồng ruộng cò bay thẳng cánh, cây trái sum xuê và nhứt là mê những câu hò và thích ca vọng cổ. Trích:

          - Nhớ Sàigòn quá nên con hay ca vọng cổ cho đỡ buồn. Hồi nãy bác lại đây là lúc con đang ca bài "Đường về quê Ngoại" đó bác.

          - Bác không biết ca, nhưng bác rất thích nghe vọng cổ.

          Giọng nói của hắn bỗng như hăng lên:

          - Vọng cổ là cái chất của miền Nam mà bác. Nó không có lai Âu lai Á gì hết. Nó có cái hồn Việt Nam cũng như cá kho tộ, tô canh chua. Bác thấy không? Bởi vậy không có gì nhắc cho con nhớ Việt Nam bằng bài ca vọng cổ hết.

          ...Trên máy bay, tôi miên man nghĩ đến "thằng Jean" rồi tự hứa sẽ gặp lại nó thường. Để cho nó bớt cô đơn. Và cũng để cho tôi bớt cô đơn nữa.

          Bây giờ viết lại chuyện thằng Jean mà tôi tự hỏi: "Trong vô số người Việt Nam lưu vong hôm nay, còn được bao nhiêu người khi nhìn trong gương vẫn nhận ra mình là người Việt Nam? Và có được bao nhiêu người còn mênh mang trong lòng bài ca vọng cổ, để thấy hình ảnh quê hương vẫn còn nguyên..."

          Đúng là đọc văn ông, ta không khỏi không suy gẫm những ý tưởng thâm thúy ẩn chứa bên trong...

              Sau đó chúng tôi tìm đọc những truyện ngắn của ông đăng rải rác trên các website. Truyện nào cũng hay, cũng xúc động vô bờ. Xuyên qua những nhận xét tinh tế trong những mẫu truyện ngắn của ông, chúng ta thấy giữa cái xã hội nhiễu nhương, lừa đảo, băng hoại của những năm sau bảy lăm vẫn còn có tình người và cũng còn không ít những con người tử tế. Nhất là ở một góc độ nào đó cuộc đời vẫn đáng trân trọng!

          Vậy thì được làm quen với nhà văn Tiểu Tử là một hân hạnh to tát đối với chúng tôi. Ông là bác của nhà văn Việt Hải và của một cậu em văn nghệ nữa tên Trần Trọng Nhân. Đáng lẽ luận theo tuổi tác, vai vế thì tôi phải gọi ông là chú. Nhưng với bản tính xề xòa, dễ dãi, ông cho phép chúng tôi được gọi ông là anh. Đơn giản vì cả hai cùng họ Tiểu. Ông nói “Tiểu Tử là anh hai của Tiểu Thu thì đúng quá rồi còn gì nữa!”

          Bắt đầu từ đó chúng tôi, gồm có anh hai Tiểu Tử, kế đến các anh chị Thanh-Ngọc Anh, Thanh-Dung, Duy Thiện, Tiểu Thu, Trọng Nhân, Nguyên Nhung, Nguyễn thị Thanh Dương và sau này còn có nhà văn Phạm Tín An Ninh và nhà thơ nữ Bạch Liên...lập ra nhóm Tình Viễn Xứ. Anh chị em chúng tôi liên lạc nhau qua email hằng ngày. Trao đổi nhau những câu chuyện vui, những kinh nghiệm sống, những sáng tác mới...vv..và...vv...nhưng quan trọng nhất là gửi cho nhau những tiếng cười rộn ràng để đầu óc được thanh thản.

          Cho đến một hôm, ông báo tin sẽ qua thăm vợ chồng cô con gái đang cư ngụ tại thành phố Montréal. Chao ơi, chúng tôi rất náo nức được gặp ông, người Anh đầu đàn mà trước giờ chỉ biết mặt nhau qua Internet. Chúng tôi hẹn anh chị ở tại quán ăn của cô cháu gái.

            Lần đầu gặp gỡ cảm động xiết bao. Vừa mới thấy mặt, anh phán liền “ Tiểu Thu đây ha? Ở ngoài coi còn “ngộ” hơn trong hình” làm “con nhỏ Thu” vừa mắc cở vừa…sung sướng! So với tuổi tác, phải công nhận anh rất trẻ. Mái tóc còn đen lắm (hổng biết có ăn gian hay không nữa!), cái miệng móm móm cười rất có duyên. Phần chị thì mái tóc muối nhiều hơn tiêu, gương mặt thật hiền lành phúc hậu. Chị ngồi nghe anh nói chuyện với chúng tôi chỉ cười cười, nhưng cặp mắt không dấu được một trời tình yêu sâu đậm dành cho anh. Sau này nghe anh kể rằng Anh và Chị có một mối tình tuyệt đẹp khi anh là ông giáo sư trẻ tuổi, đẹp trai còn chị là một nữ sinh Trung học ngây thơ, xinh đẹp. Con  gái rượu của một ông Hội đồng danh tiếng miệt Vĩnh Long.

Hình chụp tại nhà TThu 2007

Hình chụp tại đám cưới con gái TThu năm 2007


               Những lần họp mặt tại nhà chúng tôi hay nhà anh chị Thanh- Ngọc Anh đều rất vui nhộn, hào hứng. Anh nói chuyện vui, pha trò duyên dáng, ý nhị  y như văn phong của nhà văn Tiểu Tử trong các tác phẩm. Nghe anh kể chuyện chúng tôi cứ cười bò ra. Anh kể đủ mọi thứ chuyện, từ thuở thiếu thời cho đến khi đi du học bên Pháp. Trở về Việt Nam dạy ở Trung học Pétrus Ký và cuối cùng là Giám Đốc hãng xăng Shell Việt Nam cho đến khi mất nước. Nhờ vào chức vụ này, anh và một người tài xế quanh năm dong ruổi khắp các tỉnh miền Nam. Từ Huế dài tới Cà Mau, nơi nào cũng có dấu chân anh. Và không bao giờ quên mang về cho chị những đặc sản ngon nhất của vùng đất anh đã đi qua.

Hình chụp nhà AC bạn Thanh- Ngọc Anh (trong nhóm TVX)

 

           Mùa thu năm sau anh trở lại Montréal. Chúng tôi lại gặp nhau tại nhà anh chị Thanh-Ngọc Anh. Lại chuyện trò râm ran và những tiếng cười giòn tan không dứt. Anh kể cho chúng tôi nghe giai thoại anh đi học ca vọng cổ. Chuyện là anh đến ghi danh tại một lò luyện cổ nhạc để học ca. Anh khai là thơ ký của Giám đốc hãng xăng Shell. Học được mấy buổi, bất ngờ cô thơ ký thứ thiệt (của anh) xuất hiện. Thì ra cô ta  đang ôm mộng trở thành đào hát cải lương. Tất nhiên là cô thơ ký phải rất lính cẩn chào xếp lớn của mình trước cặp mắt kinh ngạc tột độ của vị giáo sư âm nhạc (khỏi nói đến sự lúng túng của ông sếp và cô thư ký!). Kết quả là anh bị... đuổi học vì đã cố tình khai gian! Phải công nhận anh có một giọng hát tuyệt vời. Mạnh và ấm. Anh ca vọng cổ cũng mùi mà hát tân nhạc cũng hay. Bằng chứng là tháng 9 năm 2007 nhân dịp đám cưới con gái chúng tôi, nghe tin anh sang thăm con, chúng tôi đã gọi điện thoại mời anh chị đến chung vui (chỉ còn có mấy ngày). Không ngờ anh chị đã vui vẻ nhận lời. Trong buổi tiệc, anh lên hát La Vie En Rose để tặng các cháu trước sự ngạc nhiên thích thú của quan khách.

            Nhưng sự bất ngờ nhất đối với chúng tôi, khi đến nhà con gái anh để đón anh chị đi dùng cơm, là những bức tranh sơn dầu và những bức tranh sơn mài ký tên anh treo trên tường. Thì ra anh còn là một họa sĩ nhà nghề, dù chẳng tốt nghiệp từ bất cứ một trường mỹ thuật nào, chỉ học qua sự chỉ dẫn của bạn bè. Ôi, sao lại có một người tài ba đến như vậy! Theo lời chị kể thì anh Tiểu Tử đã có nhiều cuộc triển lãm tranh ở Paris và tác phẩm của anh bán đắt như tôm tươi.

          Năm đó anh hứa mùa thu sang năm sẽ đem dụng cụ vẽ sang Montréal. Hai anh em sẽ lang thang ngắm và vẽ lá vàng. Nhưng những năm sau đó vì lý do sức khỏe, anh chị không sang chơi được nữa.

Hình chụp tại Paris 2009 (Thu Tao Ngộ do anh Đỗ Bình tổ chức)


          Mùa thu năm 2009, chúng tôi có dịp sang Paris để ra mắt tuyển tập Món Ăn Theo Bước Chân Di Tản. Tuyển tập được một số nhà văn ở Mỹ, Canada, Đức, Pháp viết chung với nhà văn Hồ Trường An. Một cuộc RMS thật thú vị vì có sự hiện diện của hầu hết những cây bút góp mặt trong tuyển tập như nhà văn Nguyễn thị Ngọc Dung (Tam Cá Nguyệt Cỏ Thơm), nhà thơ Dư thị Diễm Buồn, nhà văn Tôn Nữ Mặc Giao, nhà văn Duy An Đông, nhà văn Vũ Nam...Anh Hồ Trường An cũng đến trên chiếc xe lăn. Nhà thơ Đỗ Bình đã cùng một số anh chị em nghệ sĩ vùng Paris tổ chức cho chúng tôi một buổi RMS thật trang trọng, tưng bừng và người tham dự đông không đủ chỗ ngồi. Chúng tôi nhận thấy tinh thần yêu nghệ thuật ở xứ Pháp cao không đâu sánh bằng. Nhân cơ hội này, chúng tôi được gặp mặt và dùng cơm tối trong một nhà hàng danh tiếng trên đại lộ Champs Élysée với những cây đại thụ trong giới âm nhạc như giáo sư Lê Mộng Nguyên, nhà thơ, họa sĩ kiêm Thư pháp danh tiếng lẫy lừng Vũ Hối, nhạc sĩ Lê Trạch Lựu...vv...Những ca sĩ giúp vui hôm đó cũng là những tên tuổi sáng chói trong làng văn nghệ Paris. Và sự có mặt của "Anh Hai" khiến tôi cảm động vô cùng.


               Mấy ngày sau cả gia đình chúng tôi được anh chị đãi cơm. Một kỷ niệm vui vui khiến tôi nhớ mãi. Số là tôi có một đôi dép vừa đẹp vừa rất êm chân. Lần nào đi du lịch cũng mang theo. Hôm đến thăm và dùng cơm cùng anh chị, lúc rời xe métro, tôi vô ý để rơi 1 chiếc dép xuống đường rầy. Tôi đành mang chiếc còn lại, đi cà nhắc đến nhà anh chị. Anh Tiểu Tử và cậu con trai ra trạm métro đón chúng tôi, thấy tình cảnh này cũng không nhịn được cười. May quá, chị Tiểu Tử có một đôi giày da mới toanh chưa dùng, lại vừa chân tôi như in mới là may mắn. Đôi giày đó tôi vẫn trân trọng giữ gìn như một kỷ vật quý giá của anh chị hai Tiểu Tử.

    

         Những năm tháng sau này, anh Hai vì lý do sức khỏe nên không thể sang Montréal thăm con cháu, phần tôi vì bận rộn trông cháu nội nên không còn nhiều thì giờ lên Net chít chát như xưa. Chỉ đành thỉnh thoảng hỏi thăm sức khỏe của Anh Chị. Tuy không gặp, nhưng Anh chị có một vị trí thật quan trọng trong lòng tôi.

          Anh Hai ơi, em mãi mãi là "con nhỏ Thu" của anh chị. Người anh hiền hòa, vui vẻ, bao dung mà bất cứ người nào đã có dịp gặp qua đều yêu mến. Hạnh phúc tuyệt vời của anh chị luôn là kim chỉ nam cho chúng em noi theo. "Con nhỏ Thu" xin cầu chúc Anh chị sống lâu trăm tuổi. Riêng anh Hai vẫn còn nghị lực sáng tác đều đều. Vì theo em biết, độc giả khắp Năm Châu lúc nào cũng mong đợi và nồng nhiệt đón nhận những đứa con tinh thần của nhà văn Tiểu Tử.


Em của anh Hai

"Con Nhỏ Thu"