Monday, April 7, 2025

Y Sĩ Biệt Cách Dù Lôi Hổ - Y Sĩ Trung Úy Bùi Cao Đệ YKH-4

Tưởng nhớ hương hồn Y Sĩ Trung Tá Bửu Trí, Trung Úy Sĩ Quan Trợ Y Ngọc.

-------

Tôi tuy thuộc vào hạng nhỏ con và thường bị bạn bè gọi là “Sữa” nhưng lại rất thích binh chủng Nhảy Dù. Thường mơ ước rằng khi ratrường sẽ là một Y Sĩ Nhảy Dù. Đọc truyện Y Sĩ Tiền Tuyến của Bác Sĩ Trang Châu tôi lại càng thêm mơ mộng. Tôi thích đi nhảy dù vì thích bận đồ rằn ri,đội nón đỏ, có huy hiệu nhảy dù trên ngực áo. Thấy các quân nhân Nhảy Dù chiều thứ 7 dạo phố với các nữ sinh thiệt là thơ mộng. Cũng vì thích màu áo mà tôi sém chút nữa là hòm gỗ cài hoa! Tuổi trẻ có những tư tưởng lạ lùng mà sau này về già suy nghĩ lại mới biết sợ, không nên “giỡn mặt tử thần,” đúng là “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ.” 


Tôi nhập ngũ vào cuối năm 1971 khóa 13 Y sĩ trưng tập thụ huấn quân sự tại trường Bộ Binh Thủ Đức. Trong thời gian này, thỉnh thoảng có một số Y Sĩ Nhảy Dù về thăm các bạn YK Sài Gòn. Ui nón đỏ, bộ đồ trận rằn ri, trông thiệt là oai phong lẫm liệt. Tôi thầm hy vọng là khi chọn nhiệm sở sẽ có 1-2 chỗ Nhảy Dù. Rồi thời gian thụ huấn quân sự và Hành Chánh Quân Y cũng trôi qua và ngày chọn nhiệm sở cũng đến. Các bạn Dược Sĩ Trưng tập được chọn nhiệm sở trước Y Sĩ trưng tập 2 ngày. Tình cờ tôi gặp Dược Sĩ Sơn cùng khóa 13. Anh cho biết là anh chọn Nha Kỹ Thuật/TTM. Sơn cho tôi biết là Nha Kỹ Thuật đồn trú ở Phú Thọ, Sài Gòn. Khi tôi nói là tôi chỉ thích đi Nhảy Dù thì Sơn nói đây cũng là Nhảy Dù Lôi Hổ, tôi hỏi thêm chi tiết và có ý định chọn NKT. Đến ngày chọn đơn vị tôi nhìn lên bảng đen thì thấy có một chỗ NKT và một chỗ Sư Đoàn Nhảy Dù và tôi được xếp hạng 16 trong số gần 100 Y Sĩ trưng tập. Tôi không hề để ý đến các chỗ như Tổng Y viện, Quân Y Viện hay Bịnh Viện Dã Chiến, Bịnh Viện Tiểu Khu mà chỉ cầu mong là đến phiên mình chọn đơn vị sẽ còn có NKT hay Sư Đoàn Nhảy dù. May thay, các bạn trước tôi chỉ lo chọn QYV, TYV, hay BVTK, đến phiên tôi vẫn còn chỗ NKT. Tôi vội vã chọn NKT sau khi được Y Sĩ Đại Tá Châu xác nhận là có nhảy dù ở NKT. Thế là tôi đi mua ngay nón đỏ và bộ đồ rằn ri. NKT/TTM là danh xưng ngụy trang của 1 đơn vị gọi là Bộ Tư Lệnh Chiến Tranh Ngoại Lệ, ngang hàng cấp Sư đoàn Tổng Trừ Bị với cấp số Thiếu Tướng làm Tư Lệnh. NKT gồm nhiều đơn vị khác nhau, nhưng trong phạm vi bài viết này tôi chỉ nêu ra hai đơn vị quan trọng nhứt đó là: 

1- Sở Liên Lạc (Lôi Hổ): Bộ Chỉ Huy đồn trú tại Sài gòn, gồm 3 Chiến đoàn Xung kích 1, 2, 3.

2- Sở Công Tác (Hắc Long): Bộ Chỉ Huy đồn trú tại Sơn Trà, Đà Nẵng gồm 5 Đoàn Công Tác 11, 68, 71, 72, 75. Các Chiến Đoàn Xung Kích và Các Đoàn Công Tác có nhiệm vụ thả Toán thám sát vào các mật khu Cộng Sản để thâu thập tin tức tình báo, phá hoại các mục tiêu trọng yếu của địch.


Trước năm 1970, nhiều Toán Thảm Sát Đặc Biệt Xâm nhập Bắc Việt bằng không vận hay hải vận để do thám. Vào thời tôi được tăng phái đến NKT thì các toán chỉ hoạt động ở miền Nam mà thôi. Mỗi Toán có khoảng 6 người được trang bị vũ khí đến tận răng. Các hoạt động của NKT được giữ bí mật cho nên nhiều khi các quân nhân phục vụ trong NKT cũng không biết nhiệm vụ của các đơn vị bạn. NKT có 1 Đại đội Quân Y đóng tại Phú Thọ Chợ Lớn, Y Sĩ Thiếu Tá Bửu Trí làm Y Sĩ Trưởng. Ngày tôi về trình diện thì ĐĐQY gồm có Bác Sĩ Trí, BS Ân, BS Nguyễn Văn Hưng và tôi. Ngoài ra còn có 4 Dược Sĩ, 2 Nha  Sĩ, và 4 Sĩ Quan Trợ Y. Bác Sĩ Trí gốc Huế, người hoàng tộc rất hiền lành dễ thương, luôn bảo vệ và che chở cho đàn em, được sự quý mến và kính nể của thuộc cấp. 

Sau khi trình diện đơn vị, tôi đi học nhảy dù ở trung tâm Long Thành, nhảy chuồng cu ở trại Hoàng Hoa Thám Sư Đoàn Nhảy Dù, 3 tuần huấn nhục “thích chạy bộ hơn đi bộ,” tôi được cấp bằng nhảy dù Việt Nam và Mỹ.Tôi rất thích nhảy Chuồng Cu, xin nhảy nhiều lần. Thiệt ra có một số quân nhân không dám nhảy chuồng cu, huấn luyện viên phải đẩy ra giùm, nếu sau 3 lần mà không dám tự động nhảy thì sẽ bị loại. Cảm giác nhảy ra khỏi phi cơ Lockheed C-130 Hercules của không quân Mỹ, rơi tự do khoảng 5 giây, rồi sau đó dù bung ra, một mình bay lơ lửng giữa trời thiệt là tuyệt diệu. Một mình ta lơ lửng giữa trời mây! 


Làm việc ở Sài Gòn được vài tháng thì Mùa Hè Đỏ Lửa xảy ra. Chiến trận Bình Long, QuảngTrị ác liệt, máu lửa. Cuối tháng 3/1972, Y Sĩ Thiếu Tá Bửu Trí cho tôi biết là tình hình chiến sự ở Kontum gia tăng và sẽ tăng phái tôi lên Chiến Đoàn 2 Xung Kích Lôi Hổ ở Kontum. Thế là tôi khăn gói lên đường ngay. Chiếc phi cơ Curtiss C-46 Commando của Air America vừa hạ cánh xuống phi trường Kon Tum thì bị pháo kích lập tức. Có một số thương vong nhưng tôi may mắn OK. Trung úy Niệm, Sĩ Quan Trợ Y chở tôi về doanh trại CD2XK ở B12 phía Nam của Kontum. Vừa đến Bịnh Xá thì thấy các cố vấn Hoa Kỳ đang thu dọn để lên đường ra khỏi Kontum vì tình hình rất nguy hiểm. Họ để lại cho tôi toàn bộ thuốc men và thực phẩm. Mấy ngày đầu tôi lo tổ chức bịnh xá để tiếp nhận thương bịnh binh. Lúc rảnh rỗi thì lái xe đi thăm Kontum. Thành phố này lúc đó còn tương đối yên tĩnh, cát trắng, có sông Dakbla nước rất trong nhưng chảy ngược (?) Xung quanh là núi non, thành phố nằm ngay ở lòng chảo, rất dễ bị pháo kích, trông giống như Điện Biên Phủ ngày xưa. Thành phố nói chung rất đẹp. Kontum chỉ có một con đường độc nhứt đi Pleiku về phía Nam, Quốc lộ 14, nhưng phải qua đèo Chu Pao thường hay bị Cộng Sản phục kích và đóng chốt nên chỉ có thể đi thoát bằng phi cơ mà thôi. Hàng ngày tôi khám bịnh cho quân nhân và gia đình, cấp thuộc hành quân, huấn luyện cấp cứu cho Y Tá, dân sự vụ, khám bịnh cho người thiểu số ở buôn Thượng. Người dân ở đây rất đỗi hiền lành. Họ mời tôi uống rượu cần, nhưng tôi không thích uống rượu, chỉ nhấm nháp lấy lệ mà thôi. Tất cả chúng tôi đều phải học cách xử dụng và thực tập bắn súng chống xe tăng M72. Tôi quen thân với nhiều sĩ quan Không Quân, họ cho tôi làm Co-pilot đi rước toán khi công tác về. Mỗi lần rước có 2 trực thăng UH1B và 2 gunship. Bay vòng vòng một lúc thì thấy panel của toán ở dưới bìa rừng. Thế là chiếc UH1B vội vàng nhào xuống để rước toán, trong khi gunships chúc lên chúc xuống sẵn sàng bắn che cho toán. Viên sĩ quan ban 3 khuyên tôi đừng có chơi dại như vậy, vì lỡ người pilot chính bị thương hay chết thì làm sao tôi lái phi cơ một mình được, tính mạng tôi sẽ coi như hui nhị tì. Pháo kích của Cộng Quân xảy ra thường xuyên, cứ 2-3 đêm một lần. Bị thương nhẹ thì tụi tui săn sóc tại chỗ, nặng thì gửi đi Bịnh Viện Tiểu Khu hay Quân Y Viện. 


Chuyện cười ra nước mắt là một đêm kia, khoảng  22 giờ tối, tôi nghe một tiếng nổ lớn rồi sau đó có tiếng lính gọi: Bác sĩ ơi, có 1 con bò đạp mìn ở hàng rào phòng thủ, đùi của nó bị bay vào ngay trại, chúng ta sẽ có thịt bò ăn rồi! Nhưng sau đó xem lại, té ra là thịt người,có lẽ của trinh sát hay đặc công Cộng sản! Có khi buổi tối tôi phải đi đỡ đẻ. Có lúc có người tự tử... Công việc tương đối nhàn. Lực lượng phòng thủ Kontum chỉ có sư đoàn 22BB, gồm 2 trung đoàn và Bộ Tham mưu Sư Đoàn được dời lên Tân Cảnh để giao chiến với sư đoàn 320 và sư đoàn 2 của Cộng sản Bắc Việt. Quân Đoàn 2 được tăng cường thêm Biệt Động Quân để củng cố vững chắc đồn Ben Het, cửa ngõ đi vào lãnh thổ QĐ2, Quân Khu 2. Đại Tá Lê Đức Đạt Tư Lệnh SĐ22 làm Tư Lệnh Mặt trận Tân Cảnh được một tuần lễ thì địch bắt đầu tấn công lẻ tẻ. Đại Tướng Cao Văn Viên liền tăng phái cho Đại Tá Đạt 1 Lữ Đoàn Dù. Ngày 14/4/1972 Cộng sản tấn công vào căn cứ Charlie. Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ11 Nhảy Dù bị một hỏa tiễn 122 trúng vào hầm chỉ huy làm ông tử trận (bài hát Người ở lại Charlie của Trần Thiện Thanh) và quân ta phải rút ra khỏi Charlie. 


Ngày 20/4/1972 Đại Tướng Viên rút Lữ Đoàn Dù tại Kontum để tăng cường cho mặt trận Quảng Trị nên tình hình tại Tân Cảnh bắt đầu đen tối thêm. Tôi nhìn Lữ Đoàn Dù rút đi mà cảm thấy tê tái vì Kontum không còn lực lượng Tổng Trừ Bị nào nữa, chỉ còn Sư đoàn 22 mà thôi. Tất cả Sư đoàn Nhảy Dù và TQLC đều dành riêng cho Quảng Trị và Bình Long. Kontum chỉ vào hàng thứ yếu, không quan trọng bằng hai mặt trận kia? 


Ngày 23/4/72 mất Dakto rồi Ben Het. Ngày 24/4/1972 mất Tân Cảnh, Đại Tá Đạt mất tích hay tự sát? Trong bài viết về Mặt Trận Tân Cảnh, Kontum1972, Đại Tá Trịnh Tiếu cho biết Tư Lệnh Quân Đoàn 2, TrungTướng Ngô Dzu và cố vấn HoaKỳ John Paul Vann có kế hoạch dụ sư đoàn 320 Cộng sản Bắc Việt vào vùng Tân Cảnh, Dakto để tiêu diệt bằng B52. Rất tiếc là vì có bất đồng ý kiến giữa Tướng Ngô Dzu và John Paul Vann về việc bổ nhiệm tân Tư Lệnh Sư đoàn 22 cho Đại Tá Lê Đức Đạt thay vì Đại Tá Lê Minh Đảo, nên trong những ngày 21/4, 22/4/ và 23/4/1972, lúc Cộng quân tấn công ào ạt với chiến xa vào Tân Cảnh, JP Vann đã từ chối dùng B52, và Tân Cảnh thất thủ. Sau khi mất Tân Cảnh, bịnh tim của Tướng Ngô Dzu trở nặng,ông yêu cầu TT/Thiệu cử người thay thế, Tổng Thống Thiệu chỉ định Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn làm Tư Lệnh QĐ2,Quân Khu 2 và Tướng Toàn đồng ý tử thủ Kontum. Mỗi ngày tôi đều đi họp tham mưu với Trung Tá Tiên CHT. 

Tình hình Kontum càng ngày càng tồi tệ hơn. Lần lượt các căn cứ bảo vệ như Võ Định, Dakto, Tân Cảnh, Charlie, Delta đều bị mất vào tay địch. Sau khi Tân Cảnh mất, Sư đoàn 22BB gần như tan rã. Kontum trở thành tiền đồn. Dân chúng nhốn nháo chuẩn bị tản cư, mà chạy đi đâu bây giờ? Tôi có ghé thăm Bịnh Viện Tiểu Khu (BV Dã Chiến?) KonTum thì thấy BV bỏ trống không còn gặp ai, có lẽ đã di tản rồi. Trước tình thế nguy ngập, Tư Lệnh Quân Đoàn 2 điều động Sư Đoàn 23 Bộ Binh từ Ban Mê Thuột lên cố thủ Kontum. Trong dịp này tình cờ tôi gặp lại BS Nguyễn Khanh YKH4, là Y Sĩ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, di chuyển trên QL14 ngang qua doanh trại của tôi để tăng viện cho Kontum. Sau đó vài ngày đèo Chu Pao bị Cộng quân chiếm, đóng chốt nên Kontum đã bị bao vây. 

Ngày 13/5/1972, Trung Tá Tiên cho biết là đêm nay quân Bắc Việt sẽ tấn công dứt điểm Kontum. Ông ta nói là ông đã làm chúc thư cho gia đình rồi, có nghĩa là tính mạng của chúng tôi có thể chấm dứt đêm nay. Lúc đó tôi cũng lo sợ không biết là đêm này mình sẽ bị thương, hoặc chết hoặc sẽ bị bắt là tù binh? Tôi dặn dò anh em Quân Y chuẩn bị thuốc men, hầm trú ẩn và phân công việc tản thương. Suốt đêm trằn trọc không ngủ được. Vào khoảng 5 giờ sáng 14/5/1972 thình lình tôi nghe từng loạt tiếng nổ kinh thiên động địa, đồ đạc trong bịnh xá đổ nhào. Tiếng nổ liên tục làm ù tai và hất văng tôi xuống đất. Sau này tôi mới biết là 25 phi vụ B52 được thả xuống 3000 quả bom đủ loại vào các vị trí của quân Bắc Việt gây thiệt hại nặng nề. 


Ngày 14/5/1972 trận chiến vẫn còn tiếp diễn ở phía Bắc thị xã Kontum. Đủ loại phi cơ Hoa Kỳ và Việt Nam, đặc biệt là Phantom F4 liên tục thả bom bắn phá quân cộng sản chỉ cách chúng tôi khoảng 500m. 1 chiếc Skyraider của Không Quân Việt Nam bị bắn rớt và phi công đã hy sinh. 1 chiếc Skyraider khác cũng bị bắn rớt, nhưng phi công nhảy dù an toàn và được lính Lôi Hổ cứu thoát.  Sau đó mặt trận Kontum coi như được giải tỏa. Xin cám ơn B52. Một phái đoàn Nha Kỹ Thuật gồm cả Bác Sĩ Bửu Trí, Y Sĩ Trưởng NKT và SQTY Trung úy Ngọc định đến thăm viếng và ủy lạo chúng tôi nhưng rủi thay phi cơ bị bắn rớt, không một ai sống sót. Tôi vừa mừng vì thoát chết nhưng rất buồn khi được tin BS Trí, người đàn anh đáng kính, và Trung úy Ngọc đã ra đi. 

Khi bước vào tuổi già, con người ta hay hoài niệm chuyện cũ, thường tự hỏi tại sao mình có thể có những quyết định đầy nhiệt huyết, bất cần, thời trai trẻ. Nhưng những cái “ngông” đó lại là những kỷ niệm sâu đậm đáng nhớ nhứt của một kiếp người, nhất là kiếp trai thời loạn. Để thỉnh thoảng vẫn làm tôi bâng khuâng nhớ lại, nhứt là những lúc tháng Tư về.

 

Y Sĩ Trung Úy Bùi Cao Đệ YKH-4 

Ai Hạnh Phúc Nhất Thế Gian? - Như Nhiên Thích Tánh Tuệ


Ai hạnh phúc nhất thế gian? 

Có một con quạ đen sống ở trong rừng, và nó vô cùng thỏa mãn với cuộc sống của nó.  Cho đến một hôm nó nhìn thấy thiên nga...

"Thiên nga thật trắng, còn mình thì đen sì...", nó tự nhủ.

Nó bèn tiến lại gần thiên nga và nói: "Cậu chắc là loài chim hạnh phúc nhất trên đời".

Thiên nga nghe vậy bèn nói: "Thực ra tôi vẫn nghĩ tôi là loài chim hạnh phúc nhất trên đời, cho đến khi tôi nhìn thấy vẹt, chú ấy có những hai màu sắc sặc sỡ. Nên theo tôi, vẹt mới là loài chim hạnh phúc nhất thế gian này." 

Sau đó, quạ bèn đi tìm vẹt.

Vẹt nói: "Tôi cũng đã từng sống rất hạnh phúc, cho đến khi tôi nhìn thấy bác Công. Tôi thì chỉ có hai màu, bác ấy thì có đủ các màu sắc sặc sỡ." 

Qụa bèn đến bên bác Công và nói: "Bác Công à, bác thật là đẹp. Ngày nào cũng có hàng ngàn người ghé thăm bác trong khi nhìn thấy cháu thì họ chỉ xua đi. Có lẽ bác là loài chim hạnh phúc nhất trên đời." 

Bác Công trả lời: "Ta đã luôn nghĩ mình là loại chim hạnh phúc nhất trên đời... Nhưng chỉ vì vẻ đẹp bề ngoài mà ta suốt ngày bị giam cầm trong lồng sắt. Ta đã nghĩ rất nhiều và cảm thấy rằng, chỉ có loài quạ là không bao giờ bị giam cầm. Vì vậy suốt mấy ngày qua, ta đã nghĩ ước gì mình là một con quạ đen. Có thể tung cánh bay lượn khắp thế gian này. 

Qụa nghe vậy hết sức ngạc nhiên và .. bừng tỉnh.

 

So đo chi với cuộc đời

Dành thời gian đó ngồi chơi với mình

Lao đao bởi tại cái nhìn

Hạnh phúc nơi mình, Ai biết , trọn vui!


Như Nhiên TTT

Những Mốc Thời Gian Của Một Đời Người - Youtube Phan Ngọc Thuận

Tháng Ba, Khởi Đầu Từ Ban Mê Thuột - Nguyễn Ngọc Chính


Ông bà ta thường nói: “Vạn sự khởi đầu nan” để diễn tả sự phức tạp và khó khăn trong việc bắt đầu một công việc, một dự án hoặc một cuộc sống mới. Bài viết này không những mang hàm ý đó mà còn ở một quy mô lớn hơn, có tầm ảnh hưởng đến cả một đời người, lại còn mang ý nghĩa đến đời con, đời cháu.

Trong chiến tranh Việt Nam, ngày 10 Tháng Ba 1975 Ban Mê Thuột thường được mệnh danh là “sự khởi đầu của một kết thúc”. Tất cả được bắt đầu từ xứ “Buồn Muôn Thuở”, một cái tên đầy thi vị nhưng cũng đầy bi thương dẫn đến sự sụp đổ ngày 30 Tháng Tư 1975 tại Sài Gòn.

Đó cũng là “cột mốc đổi đời” hiểu theo cả hai nghĩa đối với người Việt. Với người (tạm gọi là “lạc quan”) đó là ngày “thống nhất đất nước”. Còn đối với “người bi quan” thì đó lại là “xuất phát điểm” của cuộc “di tản chiến thuật” từ một đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh sang những vùng đất mới.

Người ta “vượt biên” trên những chiếc tàu cũ kỹ, vượt đại dương để mong tìm được “vùng đất mới”. Cũng có những người đi đường bộ qua Cambodia để vào Thái Lan, họ sống khắc khoải trong những “trại tị nạn” với hy vọng được đất nước thứ ba tiếp nhận như “một người ti nạn”.

***

Hỏa tiễn H-12 có tầm bắn 8 km, được Mặt trận Tây Nguyên sử dụng để đánh chiếm thị xã Ban Mê Thuột ngày 10.3.1975

Trở lại với Ban Mê Thuột vào Tháng Ba 1975, Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4 Tháng Ba đến 3 Tháng Tư 1975), còn được biết đến với mật danh “Chiến dịch 275”, là hoạt động mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 do Quân giải phóng phát động.

Với cuộc tiến công của phía Quân giải phóng ngày 10 Tháng Ba 1975 vào Ban Mê Thuột, Quân đoàn II thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) đã bị sụp đổ. Những nỗ lực tái chiếm Ban Mê Thuột của QLVNCH trong các trận phản công ngày 11 và 13 Tháng Ba 1975 đều thất bại.

Sau các thất bại dồn dập, ngày 14 Tháng Ba 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, kiêm Tổng tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã có một bước đi hết sức sai lầm khi quyết định rút quân trên toàn địa bàn Tây Nguyên để về giữ miền duyên hải Miền Trung.

Phải nhìn nhận, việc rút quân tiến hành “không theo bài bản” nên chỉ ba ngày sau đó, hầu như toàn bộ Quân đoàn II QLVNCH với 60.000 quân đã bị tiêu diệt, đầu hàng hoặc tan rã trong cuộc rút quân hỗn loạn trên con đường số 7.

Cùng với những sai lầm có tính chiến lược trong phương án và cách thức điều quân, phối trí lại lực lượng của các cấp chỉ huy QLVNCH, chiến dịch này đã tạo nên những đột biến lớn trên chiến trường mở đầu cho sự thất bại và tan rã toàn diện của QLVNCH tại miền Nam Việt Nam.

Sau này mới biết Lực lượng Quân giải phóng tham chiến tại Mặt trận Tây Nguyên ban đầu được đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên (mật danh 275). Chỉ vỏn vẹn trong 55 ngày trong năm 1975, Chiến tranh Việt Nam (kéo dài từ 1954 đến 1975) đã chấm dứt. Tiếp theo đó là việc “tái thống nhất Việt Nam” sau 21 năm bị chia cắt.

***

Ban Mê Thuột đối với tôi là vùng đất mang nhiều kỷ niệm, kể từ khi gia đình tôi rời Đà Lạt đến xứ “Buồn Mà Thương”. Tôi bắt đầu tiếp tục việc học tại Ban Mê Thuột năm Đệ Ngũ khi ông thân sinh chuyển công tác về đây.

Gia đình chúng tôi trong thời gian đầu ở tại đường Lý Thường Kiệt, nơi bị chia cắt bởi đường Quang Trung có tiệm ăn Souris Blanche của người Pháp. Sau đó, chúng tôi dời qua đường Ama Trang Long nơi Ngã Tư Lý Thường Kiệt – Ama Trang Long, có tiệm ăn Mỹ Cảnh của người Hoa ở góc đường.

Tôi còn nhớ mãi đã nhìn thấy một anh Việt Cộng lần đầu tiên trong đời. Chỉ khác một điều là anh đã nằm chết với “chiếc mũ tai bèo” trên đường phố Ban Mê!

Bạn bè tôi vào Tháng Ba 1975 đã có nhiều người khoác áo lính. Trong số đó có Vĩnh Anh, một sĩ quan không quân đang nghỉ phép về Ban Mê Thuột thăm gia đình, anh lái Skyraider tại Biên Hòa. Đêm 10 Tháng Ba 1975 anh đang ở nhà tôi, khi nghe “tiếng pháo”, anh rút khẩu súng lục bắn chỉ thiên một phát. Ai ngờ “tiếng pháo” đó lại là “tiếng súng” của “quân giải phóng”! Đến khi nghe tin Việt Cộng đang tấn công Ban Mê Thuột anh bạn thân của tôi vội vàng tìm đường trở về phi trường Biên Hoà ngay lập tức.

Đó là một kỷ niệm khó quên trong ngày 10 Tháng Ba 1975. Chỉ tiếc một điều là Vĩnh Anh đã qua đời năm 2020 tại Mỹ với lý do “bệnh tật”, chứ không phải vì “chiến tranh”! Phần tôi cũng vội vàng tìm đường về Sài Gòn vì khi đó tôi cũng đang nghỉ phép từ trường Sinh ngữ Quân đội.

Gia đình tôi ở Lăng Cha Cả, rất gần với phi trường Tân Sơn Nhất nên khi phi trường bị pháo kích ngày 29 Tháng Tư 1975, tôi vội vàng “tránh hòn tên, mũi đạn” bằng cách chạy lên Bệnh viện Sài Gòn trên đường Lê Lợi.

Bạn không thể nào tưởng tượng nổi chiếc Honda 67 có thể chở đến 6 người: tôi, bà xã và 4 đứa con, đứa nhỏ nhất chỉ mới 1 tháng tuổi. Nhưng rồi mọi sự đều êm xuôi trong ngày 29 Tháng Tư 1975, chúng tôi vẫn đến được bệnh viện nơi bà xã tôi đang làm việc.


Một lần nữa, trong ngày 29 Tháng Tư 1975 câu “vạn sự khởi đầu nan” là quá đúng: mọi chuyện có khó khăn, không tưởng khi nghĩ tới 6 người “chạy loạn” trên chiếc Honda nhưng rồi cũng thực hiện được. Thật ngoài sức tưởng tượng của con người khi cái chết cận kề!


Nguyễn Ngọc Chính

(Di tản tháng Ba 1975. -Hình: Facebook) 

Nhìn Hình Nhớ Mái Trường Yêu - Trầm Vân



Sunday, April 6, 2025

Thôi! Mình Về Linh Xuân Thôn Đi Em ! - Phan Công Tôn

Hình minh hoạ

Chiếc xe Jeep nhà binh chạy thật khó khăn giữa luồng xe cộ tấp nập từ đường Trần Hưng Đạo đổ vào đường Lê Lợi, nhất là lúc ngang khu bùng binh trước chợ Bến Thành. Lúc đó vào khoảng 10 giờ đêm, nhưng khu vực từ chợ Bến Thành dọc theo đường Lê Lợi vẫn đông nghẹt người ta! Hôm nay là ngày 25 tháng Chạp, gần cao điểm của thời gian Chợ Tết!

Hùng lái xe, bên cạnh là Hoàng và băng sau là chú tài xế, luồng xe cộ chạy thật là chậm, phần vì quá nhiều xe đang lưu thông, phần khác gây nhiều khó khăn và căng thẳng hơn, vì khách bộ hành cứ băng đại ngang đường bất cứ chỗ nào họ muốn. Cả 3 người trên chiếc xe Jeep đang thắc mắc và trao đổi nhau những câu hỏi liên quan đến việc rất nhiều người vẫy gọi Taxi dọc đường, nhưng các tài xế Taxi cứ khoác tay từ chối, mặc dù trên xe không có khách! Họ đã có khách hẹn trước ở một địa điểm nào đó chăng? Họ không muốn đón khách trong khu vực này vì không có khoảng trống để tấp vào? Hoặc họ không muốn đón những người khách với quá nhiều đồ đạc cồng kềnh vừa mua sắm?

Khi xe đang chạy trên con đường trước Khách sạn Caravelle (bên hông tòa nhà Quốc hội), bỗng một toán người vẫy tay gọi, hình như họ muốn xin “quá giang”, Hùng đã lái trờ tới bỏ lại phía sau nhóm người này, vì khúc đường này không còn bị kẹt xe nên tốc độ khá nhanh. Hoàng nói lớn: “Hùng! Hùng! Ghé lại cho họ ‘quá giang’ làm phước!”. Nghe vậy, Hùng tấp vào lề và lui xe lại. Toán người xin “quá giang” chạy ùa tới, họ gồm có 4 người, một cô gái khoảng 17, 18 và 3 cô, cậu bé khoảng từ 12 tới 14 tuổi.
Hoàng nhảy xuống xe để lo sắp xếp chỗ ngồi, thấy cô chị trồng trộng nên Hoàng tỏ ra “galant”, mời cô ta ngồi ghế phía trước với 1 bé gái, Hoàng chui ra băng sau với chú tài xế và 2 “nhóc” kia. Dĩ nhiên rất là chật vì băng sau có tất cả 4 người với quà mới mua ở chợ Tết, các “nhóc” không ai than phiền gì cả, ngược lại rất là vui và cảm thấy rất hạnh phúc và biết ơn.

Qua lời cô chị lớn cho biết, sau khi mua sắm xong, mấy chị em ra về. Bắt đầu đón Taxi từ đầu đường Lê Lợi, đợi hoài đợi mãi, chẳng có Taxi nào chịu ngừng. Cuối cùng phải đi bộ dọc theo đường, vừa đi vừa đón xe để cầu may, nhưng vẫn không có. Khi tới khúc đường này, thấy cái xe “nhà binh”, cả toán cứ vẫy đại, cô chị lớn nói “mấy ông nhà binh ‘chịu chơi’ lắm, có thể họ giúp mình ... ” May quá, toán này được giúp thật!

Hùng hỏi nhóm này muốn đưa về vùng nào thì được biết ở Gia Định, gần khu chợ Bà Chiểu. Khi xe chạy ra tới đường Thống Nhất, Hùng ngỏ ý với Hoàng là cần phải ghé qua Đại đội để xem có việc gì không, trước khi đưa toán “quá giang” này về Bà Chiểu. Hùng và Hoàng đang phục vụ tại 1 Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Hùng, Trung úy, Đại Đội Trưởng, Đại đội tác chiến, Hoàng, Trung úy thuộc Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, kiêm Trung Đội Trưởng Trung đội súng cối 81 ly. Đơn vị đang hành quân ở Vùng 4 Chiến thuật từ mấy tháng nay, cách đây 4 ngày, đang hành quân ở Vĩnh Long thì được lệnh cấp tốc chuyển về Sài Gòn.
Sau khi lật đổ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 1963, chính quyền SàiGòn thường bị rơi vào tình trạng “chỉnh lý”, “biểu dương lực lượng” của các vị Tướng lãnh. Mỗi lần có những “sự kiện đặc biệt” như vậy, các đơn vị Tổng Trừ Bị như Nhảy Dù hoặc Thủy Quân Lục Chiến được điều động về Thủ đô để kịp ứng phó với tình huống mới.

Lần này cũng vậy, Tiểu đoàn được điều động về SàiGòn một cách bất thường chứ không phải được về nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ ở Thủ Đức như thường lệ sau một cuộc hành quân dài. Đại đội của Hùng được đóng quân tại Sở Thú Sài Gòn và Sở Thú tạm thời ngưng hoạt động trong thời gian này.
Hơn 1 giờ trước đây, Hoàng từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn (tạm đóng bên Trại Nguyễn Văn Nho, ở Thị Nghè) “dzọt” qua thăm Hùng và rủ Hùng đi “nghễ” một vòng Sài Gòn vì lâu lắm chưa được “ngửi” mùi Sài Gòn. Hoàng gốc người Quảng Trị và thích dùng chữ “nghễ”, được hỏi về nghĩa của chữ này thì Hoàng nói “cứ coi như là rửa mắt vậy mà!”
Nói của đáng tội, chỉ đi một vòng vậy thôi chứ có “nghễ” hoặc “rửa mắt” cái gì đâu! Một phần vì ban đêm, phần thì lo tập trung lái xe qua cái “Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi! Sài Gòn ơi!” đã thấy nhức đầu rồi, và trên đường về Sở Thú thì gặp cái toán “quá giang” này.

Hùng ghé vào Đại đội để xem tình hình có gì không và nhân tiện lấy thêm 1 cái máy truyền tin bỏ lên xe cho tiện việc liên lạc với Tiểu đoàn và các Trung đội. Sau đó, tất cả lại lên xe để Hùng đưa dùm toán “quá giang” này về nhà bên Bà Chiểu.
Qua sự giới thiệu lúc còn ở trong sở thú, được biết cô gái “đàn chị” này tên là Khánh Tâm, một “nhóc” gái là em ruột của Khánh Tâm tên là Khánh Hằng và 2 “nhóc” kia là đàn em lối xóm. Gần đến khu chợ Bà Chiểu, Hùng gợi ý rủ mọi người cùng đi ăn hủ tiếu mì, mấy “nhóc” hoan hô hết mình vì từ tối đến giờ phải lội bộ nhiều và đang đói bụng!

Khi tô mì được đem đến bàn của Tâm, Hùng cầm bình dấm chế vào tô mì một vòng rồi ngưng lại. Tâm vội nói: “Xin ông cho thêm”. Hùng lại rưới thêm một vòng nữa rồi ngưng. Tâm lại nói: “Ông cứ cho thêm, khi nào tôi ra dấu thì ông ngưng cũng còn kịp”. Hùng tiếp tục rưới dấm vào tô mì và nói diễu: “Cái này là dấm ‘xủ’, chua lắm à nghen!” Tâm trả lời tỉnh bơ: “Dạ, tôi biết”. Và cứ thế, Hùng tiếp tục rưới dấm vào tô trong khi vẫn nhìn vào mắt Tâm để xem chừng nào có thể ngừng. Một hồi lâu, áng chừng cũng đến gần nửa bình dấm, lúc bấy giờ Tâm mới đưa tay làm dấu cho Hùng ngưng, kèm theo lời cám ơn. Hùng tỏ ra rất ngạc nhiên, vì lần đầu tiên mới biết được có người ăn “dấm xủ” nhiều đến như vậy và càng thích thú hơn khi quan sát, thấy Tâm thưởng thức tô mì một cách rất ngon lành! Tiếp theo chầu hủ tiếu mì là chầu chè tráng miệng, mọi người có vẻ “ấm bụng” nên Hùng đề nghị đưa mấy chị em Khánh Tâm về nhà. Nhà cách chợ Bà Chiểu không xa, gần một trạm đón khách của các xe đò Sài Gòn - Thủ Đức. Lúc bấy giờ cũng đã quá nửa đêm!

******
Trưa hôm sau, nghe anh lính gác tại cổng (trên đường Hồng Thập Tự) báo Hùng có người nhà muốn gặp, Hùng vội lái xe ra cổng. Vô cùng ngạc nhiên khi thấy Tâm đến thăm, vì đêm qua sau khi chia tay, không ai có lời hẹn hoặc ngõ ý sẽ gặp lại! Tâm cho biết, hôm nay Chủ Nhật, cô đi lễ ở Nhà thờ Đức Bà. Sau khi tan lễ, cô muốn đến thăm và cám ơn về việc đã cho mấy chị em “quá giang” về nhà đêm qua và còn đãi thêm một chầu hủ tiếu mì, làm mấy đứa nhỏ khen nức nở:
- Mấy anh lính thật tốt bụng và dễ thương quá chừng chừng...

Hùng, với tánh tiếu lâm cố hữu, vội ngắt lời:
- Mấy đứa nhỏ thì khen nức nở, nhưng bà chị tụi nó có thèm khen câu nào đâu?
Khánh Tâm thẹn đỏ mặt, nhìn xuống đất, nói mấy lời nho nhỏ:
- Cái ông... này!

Vì Tiểu Đoàn đang trong tình trạng ứng chiến nên Hùng không dám đi đâu xa, chỉ chở Tâm đi một vòng trong sở thú. Trong khi xe đang chạy vòng vòng, Tâm vụt hỏi:
- Ông có thể chạy một chút ra đằng phía trước cổng? Tôi muốn chỉ cho ông thấy cái trường tôi đang học.
- Cô học trường nào?
- Dạ, Trưng Vương.
- Ồ, cũng gần, để tôi đưa cô đến đó!
Hùng lái xe ra cổng trước và chạy tới trường Trưng Vương, chỉ đi một vòng vậy thôi vì phải vội về Đại đội. Tuy vậy cũng đủ thì giờ nghe Tâm nói sơ sơ về lớp Đệ Tứ của mình, vị trí của lớp mình, tánh tình của các vị Giám thị và một số các thầy cô. v.v... Từ hôm qua đến giờ, nghe Tâm nói giọng Nam, Hùng mới thắc mắc:
- Cô là người Nam, sao cô được học ở Trưng Vương?
- Không, tôi là người Bắc mà! Bắc Kỳ 54!
- Trời ơi! Sao cô nói rặc giọng Nam Kỳ! Ở trường cô nói giọng gì?
- Thì giọng cũng y như tôi đang nói chuyện với ông!
Hùng hình như tìm được một điều gì thích thú, vội nói:
- Cô phải cẩn thận, tôi sợ có ngày trường sẽ đẩy cô về bên Phan Thanh Giản!
Chưa kịp hiểu câu nói đùa của Hùng, Tâm hỏi vặn:
- Tại sao phải về bên Phan Thanh Giản?
Hùng cười cười giải thích:
- Vì họ tưởng cô là người Nam nên họ thảy cô về bên trường Gia Long ấy mà!
Tâm hiểu câu nói châm chọc của Hùng, cười xòa và buột ming:
- Cái ông... này ! 
Rồi hỏi tiếp:
- Bộ ông không biết bên Gia Long vẫn có một số học sinh Bắc Kỳ hay sao?
Hùng rất ngạc nhiên về điều này và nói:
- Vậy mà tôi cứ tưởng, bên Trưng Vương toàn là Bắc Kỳ, còn bên Gia Long chỉ toàn là giá sống!

Về đến sở thú, Hùng ngỏ lời xin lỗi vì không thể đưa Tâm đi ăn trưa được vì bận trực ứng chiến, Hùng gợi ý hỏi xem Tâm có thích pizza không, Tâm trả lời : “Tôi cũng thích pizza lắm” nên Hùng nhờ chú tài xế và một chú “đệ tử” chạy ra tiệm pizza trên đường Lê Thánh Tôn, đối diện với La Pagode để mua pizza và spaghetti vì Hùng rất thích pizza và spaghetti của tiệm này! Khi thức ăn được mang về và đem đến một cái lều dựng lên bên một hồ nước, từ lều này có thể nhìn thấy “cây cầu lịch sử” của Sở Thú Sài Gòn (gần 10 năm về trước, nhân dịp có Hội Chợ tại Sở Thú này, vào buổi tối, trong khi cả ngàn du khách đang nườm nượp kéo tới Hội Chợ... vì một “báo động” lầm lẫn sao đó, khiến cả ngàn người tranh nhau chạy qua cầu, việc này đã gây ra cảnh hỗn loạn khủng khiếp với kết quả là hơn 10 người bị chết và cây cầu bị sập).

Hồi trước, Hùng có vài lần vào Sở Thú với cái thú vui riêng cùng đùa vui với bạn bè và nhất là để coi... người nhiều hơn coi... thú và dĩ nhiên không để ý nhiều đến cảnh trí chung quanh! Hôm nay, nhân dịp Sở Thú đóng cửa và với sự vắng lặng, mới có thể thưởng thức được những nét đẹp hài hòa giữa cái đẹp nhân tạo hòa nhập với cái đẹp thiên nhiên của vùng này! Đặc biệt, có Tâm, người con gái mới quen và còn rất ư là “nóng hổi” ngồi cùng ăn bên cạnh, Hùng thành thật trình bày cảm nghĩ của mình:
- Đơn vị anh mới về đây được 2 ngày, quá bận rộn vì công việc nên anh không để ý đến bối cảnh chung quanh. Hôm nay có em đến đây, cùng ngồi ăn chung trong cái lều này anh thấy cảnh vật chung quanh rất đẹp, có lẽ vì ảnh hưởng của... người đẹp ngồi bên cạnh!
Tâm coi câu nói của Hùng như một lời nói “nịnh” nhưng cũng đủ làm Tâm thẹn đỏ mặt, vội cúi đầu và nói nho nhỏ: 

- Cái ông... này!
Hùng ghi nhận được câu điệp khúc “Cái ông... này” của Tâm và coi như một lời mắng yêu hay một tán thán tự mà Tâm có thói quen thường dùng. Hùng thấy cũng hay hay và dễ thương với nét chấm phá này để tạm kết thúc một đàm thoại, biểu lộ cái tâm trạng ngạc nhiên pha lẫn buồn, vui và ngay cả (đôi khi) giận dỗi... Sau khi ăn uống xong, ngồi nói chuyện thêm một lúc, Tâm xin phép về, Hùng đưa Tâm về và vội trở lại đơn vị vì đang ứng chiến...

Sáng 28 tháng Chạp, toàn bộ Tiểu đoàn của Hùng được chuyển về vùng Tân Quí Đông trong nhiệm vụ: “giữ an ninh vòng đai Đô Thành”. Qua sự liên lạc và sắp xếp trước, chiều 30 Tết Hùng cho xe đón Tâm tại cầu Tân Thuận để đưa vào vị trí đóng quân của đại đội, vì hôm đó Hùng có tổ chức một cái tiệc nho nhỏ cùng với anh em trong đơn vị, và nhất là để chuẩn bị đón Giao Thừa. Đặc biệt đây là lần đầu tiên đơn vị Hùng được về “hưởng Xuân” tại vùng ven đô. Ban đêm được nhìn thấy vùng ánh sáng của Thủ Đô bên kia sông Sài Gòn, cứ tưởng tượng như đang được “ngửi” mùi Tết của Sài Gòn với lời an ủi muôn thuở: “có còn hơn không”!

Sau khi tiệc tùng xong, Hùng hỏi Tâm có muốn đưa về nhà trước giao thừa hay ở lại đây để “thưởng thức” giao thừa với lính? Với tánh hiếu kỳ, Tâm quyết định ở lại để xem mấy ông lính này đón giao thừa như thế nào và sẽ nhờ đưa về nhà sau khi đón giao thừa xong.
Lúc chiều, trong phiên họp của Tiểu đoàn, vị Tiểu đoàn Trưởng đã “hăm mẻ răng” về việc các Đại đội Trưởng phải kiểm soát thuộc cấp, triệt để cấm binh sĩ không được dùng súng bắn thay pháo để đón giao thừa như đã xảy ra vài lần trong các vùng hành quân khác mấy năm về trước. Năm nay, về nằm vùng ven đô, gần “Mặt Trời”, Biệt Khu Thủ Đô đã ra lệnh cấm và đơn vị phải tuyệt đối thi hành!

Đúng giờ giao thừa, vùng Tiểu Đoàn bố trí vẫn im lặng, nhưng vài cây số ở phía Bắc và phía Tây, súng nổ râm ran và đồng loạt trong vòng hơn 15 phút, mọi người kéo ra sân để coi và nghe “pháo súng”. Nhìn những vết đạn lửa bay mới biết các đơn vị ở vùng đó đã dùng súng thay pháo để đón Xuân!
Tâm tỏ ra rất thích thú với cái hoạt cảnh này vì đây là lần đầu tiên trong đời, cô được thật sự gần gũi với một đơn vị của lính tại vị trí đóng quân, nhất là đúng vào giờ đón Giao Thừa!

******
Sự gặp gỡ và quen biết giữa Hùng và Tâm bắt đầu là như vậy. Cái liên hệ tình cảm đã gắn bó và quyện lẫn giữa hai người qua thời gian, đã tạo ra những tố chất cấu thành một tình yêu “thật đặc biệt” và “hơi khác thường” giữa hai người.

Những cái “hơi khác thường” trong chuyện tình này mà những bạn thân của Hùng quan sát và ghi nhận được cũng khá thú vị và... “không giống ai”!Về cách xưng hô, ngay từ ngày đầu mới quen nhau, Hùng vẫn xưng “anh” và gọi Tâm bằng “em”. Còn Tâm vẫn xưng “tôi” và gọi Hùng bằng “ông”. Về sau này, chỉ một lần đầu tiên và duy nhất, sau khi biết mình đã yêu Hùng, trong một lá thư dài viết bằng 2 tờ giấy đôi của cuốn vở học trò, Tâm gọi Hùng bằng “anh” và xưng là “em”.

Hùng nhận được thư Tâm khi đơn vị đang hành quân vùng đèo Mang Giang, Pleiku. Đọc thư, nghe Tâm nói về tình yêu và nỗi nhung nhớ dành cho Hùng, chàng nghe hồn mình và thân thể mình như ấm lại trong cái giá lạnh nơi xứ núi! Càng nghe ấm hơn với lời kết của lá thư:
Em yêu anh. Em rất nhớ anh và rất mong ngày mình gặp lại nhau tại Sài Gòn!
Với biết bao háo hức và trông chờ, vậy mà, sau cuộc hành quân đó, trở về, gặp lại nhau ở Sài Gòn, Tâm vẫn “bổn cũ soạn lại”, vẫn gọi Hùng bằng “ông” và vẫn xưng mình bằng “tôi” và... cứ như thế!
Có một lần, trong một quán ăn, trong khi chờ đợi nhà hàng mang thức ăn ra, Hùng nửa đùa nửa thật nói:
- Chữ ‘ông’ và chữ ‘tôi’ em thường dùng với anh, bán bao nhiêu, anh mua phức cho rồi!
Tâm nguýt một cái và vội trả lời:
- Không. Không bán đâu!
Và kèm theo câu, như một tán thán tự mà Tâm vẫn thường dùng theo thói quen: “Cái ông... này!”
Hùng ghi nhận các cá tính đặc biệt của Tâm và cho điểm Tâm như là có tánh khí của một cậu con trai thành thật, bạo dạn, hơi bương bướng, có chút ngỗ nghịch và nhất là có những quyết định bất ngờ vào phút chót.
Những lần, Hùng chở Tâm bằng xe Vespa, khi chạy qua cầu Bình Lợi, ngang đoạn cầu ghép bằng ván, vẫn giữ nguyên tốc độ nhanh, vespa bị trượt, chạy xẹt qua xẹt lại thật nguy hiểm, Tâm chẳng những không sợ, ngược lại, còn rất khoái có được những cảm giác ú tim như vậy! Nói tóm lại, Tâm rất thích “tìm mua cảm giác mạnh”, những màn hồi hộp, ú tim thường có nơi các chàng trai trẻ...

Tâm có nét mặt khá đẹp, ưa nhìn và đầy quyến rũ, cộng với vóc dáng nở nang, khỏe mạnh, mái tóc ngắn kiểu “a la gạc xon” (à la garçonne) và thích bận các loại Jupe ngắn nên trông rất ư là “xì po” và dĩ nhiên rất ư là hấp dẫn!

Môn thể thao Tâm rất mê là bơi lội, Tâm là hội viên và bơi thường trực tại Cercle de Sportif ở đường Hồng Thập Tự, Sài Gòn; nhưng vẫn thường theo bạn bè đi bơi ở các hồ bơi trong Chợ Lớn hoặc tại hồ bơi Lido, gần Ngã Năm Bình Hòa. Hằng năm, Tâm thường tham dự các cuộc thi bơi ở Sài Gòn và Chợ Lớn; Tâm từng nhiều lần đoạt giải hạng nhì nhưng chưa bao giờ chiếm được giải nhất cả. Tâm rất lấy làm khổ tâm về việc này và vẫn ao ước, ngày nào đó sẽ đoạt được giải nhất cho thỏa ước mơ!

Từ ngày quen và thân với Hùng, mỗi lần đơn vị trở về hậu cứ ở Thủ Đức sau những cuộc hành quân, Hùng thường đưa Tâm đi bơi trên Biên Hòa và Thủ Đức. Đặc biệt ở Thủ Đức, Tâm rất thích bơi ở hồ bơi Ngọc Thủy; hồ bơi này có một cảnh trí rất dễ thương, phía Bắc của hồ bơi là một triền đồi có nhiều cây rậm đầy bóng mát và những “nhà chòi” ở các cao độ khác nhau, nhìn bao quát cả hồ bơi bên dưới thật nên thơ và hữu tình. Một lần, sau khi bơi xong, Hùng và Tâm trở lên “nhà chòi” ngồi nghỉ và nhâm nhi ăn uống; sau khi quan sát thân hình của Tâm qua bộ đồ tắm 2 mảnh, Hùng nói đùa:
- Đến bây giờ anh mới hiểu, tại sao em thi bơi hoài mà chưa bao giờ đoạt được giải nhất!
Đang ngồi dựa lưng vào ghế, nghe câu đó, Tâm bật ngồi thẳng lên nhìn chằm chặp vào Hùng rồi vội hỏi:
- Bộ ông đã khám phá được những điểm kỹ thuật hay thao tác nào tôi làm không đúng do đó làm tốc độ bơi bị giảm lại chăng?
Hùng vội phân bua kèm với nụ cười hóm hỉnh:
- Không, không phải vậy, em bơi thì giỏi lắm, nhưng sở dĩ chưa chiếm được giải nhất vì... vì có... “độ cản” lớn quá!

Mới nghe như vậy, Tâm ngớ người, đăm chiêu suy nghĩ; một lúc sau, nhìn xuống ngực mình, như hiểu ý, mặt đỏ lên, vội đưa tay đấm vào lưng Hùng với câu cố hữu: “Cái ông... này!”
Cứ mỗi dịp Hùng được về Sài Gòn, hẹn Tâm cùng đi chơi (ban ngày) đó đây ở Sài Gòn, hoặc đi ăn nem và trái cây ở Lái Thiêu, hoặc đi ăn thịt rừng ở Tân Vạn và đi tắm ở Biên Hòa v.v... Mỗi lần như vậy, Hùng đưa Tâm về nhà bên Bà Chiểu khoảng buổi chiều hoặc cùng lắm là vào lúc chạng vạng tối. Hôm nào được xin phép đi chơi ban đêm, như đi xi nê hay đi phòng trà thì phải trở về nhà trước nửa đêm. Và lúc nào về tới nhà cũng có người nhà hoặc mấy “đứa nhóc” lảng vảng trước sân hình như đang “đợi chị Tâm về ”! 

Nhưng có một lần, lần này coi như “lịch sử” và “kỷ niệm nhớ đời”! Tối hôm đó, sau khi rời phòng trà Queen Bee, Hùng đưa Tâm đi ăn ở khu Hai Bà Trưng xong, sau đó đưa Tâm về nhà như thường lệ. Chẳng có ai, ngay cả mấy “đứa nhóc” đứng đợi trước sân ! Hùng ngừng vespa, tắt máy, đứng trước nhà khoảng gần 10 phút. Vẫn không thấy ai ra. Khi Tâm định đi vô nhà, Hùng đạp nổ Vespa, Tâm bước đi được mấy bước rồi bất ngờ quay ra, ngồi vội lên yên, vỗ vào lưng Hùng và nói:
- Mình về Linh Xuân Thôn, đi ông!

Như một phản xạ, Hùng rú ga Vespa và vọt đi. Định quay vòng lại để ra chợ Bà Chiểu rồi ra xa lộ Biên Hòa, đi về Thủ Đức cho lẹ. Nhưng Tâm vội chồm ra phía trước, chỉ về hướng Ngã Năm Bình Hòa và nói “Mình đi đường trong đi ông!” Thế là Hùng chạy về hướng cầu Bình Lợi để đi về Thủ Đức. Khi chạy qua khỏi cầu Băng Ky, Tâm vỗ vào lưng Hùng, chỉ vào ánh trăng đang treo trên đầu, Hùng mới nhận biết đêm nay là đêm trăng tròn. Lúc chạy qua cầu Bình Lợi, quang cảnh thật là hữu tình nhưng nước sông bốc lên quá lạnh; Tâm ôm sát vào eo Hùng và áp má vào lưng Hùng như để tìm chút hơi ấm nhưng vẫn kêu lên:
- Ông Hùng ơi, tôi lạnh quá!
Hùng biết Tâm bị lạnh nhiều lắm vì đang mặc cái mini jupe, phần Hùng với cái sơ mi mong manh, cũng cắn răng chịu lạnh trong khi đang rú ga tối đa trên con đường vắng vẻ, mong nuốt ngắn đoạn đường để mau mau về Linh Xuân Thôn...

******
Linh Xuân Thôn là địa danh của một vùng rất rộng, bao gồm khu đồi thuộc Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức (sau này đổi tên là Trường Bộ Binh Thủ Đức) và vùng Chợ Nhỏ. Lần đầu tiên, rời quê hương Nha Trang vào Trường Thủ Đức; tại vùng này, Hùng bắt gặp 2 cái tên rất là chỏi nhau: Linh Xuân Thôn, nghe sao êm đềm, tình tứ; trong khi Chợ Nhỏ, nghe sao thiệt thà, chất phác (y chang cái kiểu Nam Kỳ Quốc, có sao nói... dzậy)!
Hùng tình nguyện gia nhập binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Hậu cứ của đơn vị khi thì Thị Nghè, Gia Định, khi thì Cầu Đá, Nha Trang. Mãi mấy năm sau, đơn vị mới dời hậu cứ về Thủ Đức. Theo sự giới thiệu của Ba Má nuôi (nhà ở khu ngã tư Xa Lộ), Hùng mướn được một căn nhà ở vùng Linh Xuân Thôn (ông chủ nhà là một nhà thầu xây cất, có người con trai đang du học ở ngoại quốc nên tạm cho mướn căn nhà này với giá đặc biệt).

Trên đường đi vào Trường Thủ Đức, chưa tới Chợ Nhỏ, có một con đường nhựa quẹo trái chạy vào trong xóm. Nhà cách đường lộ chính hơn 200 thước. Khu này yên tĩnh. Cái mà Hùng thích nhất là khu này nửa tỉnh, nửa quê. Trước nhà Hùng mướn, chỉ vài thước bên kia đường là một ruộng lúa. Hơn trăm thước bên kia bờ ruộng lúa là một xóm nhà kiểu xưa, mái ngói. Nhà nào cũng có một vườn điều và hàng cau phía trước. Đến mùa điều chín, đứng bên này vẫn thấy được màu đỏ của những trái điều bên kia ruộng. Tiếp nối sau xóm nhà này về phía Bắc, là những xóm nhà hiền hòa, mà lúc trước khi còn học trong Trường Thủ Đức, mỗi lần đi ra bãi học chiến thuật hoặc ra sân bắn, Hùng và các bạn phải lội bộ qua vùng này...

Sống ở đây, nhìn lại cảnh cũ, gợi nhớ bao kỷ niệm lúc mới chập chững vào đời lính; do đó cái tên Linh Xuân Thôn sao nghe nó gần gũi, thân thiết và đáng yêu biết mấy đối với Hùng.
Từ ngày quen biết với Tâm, Hùng đã giới thiệu, còn hơn thế nữa, đã quảng cáo về cái Linh Xuân Thôn của mình. Sự quảng cáo này xem ra rất “ép phê” đối với Tâm, Tâm như bị “thẩm thấu” và “nằm lòng” về những cái đáng yêu của Linh Xuân Thôn này mất rồi! Và cái điều quan trọng và chính yếu Hùng muốn truyền đạt khi nói “Linh Xuân Thôn” có nghĩa là nói về căn nhà Hùng đang mướn và đang ở tại thôn này!


Một trong những điều Hùng “ca” về cái Linh Xuân Thôn của mình là sự thuận tiện về không gian “Ở đây đi vào đơn vị cũng gần. Còn lúc nào nghỉ, đi chơi, chỉ ‘rẹt’ ra xa lộ Biên Hòa là ‘vèo” tới Sài Gòn!”

******
Tâm đã nhiều lần ghé về Linh Xuân Thôn. Chỉ ghé về “thăm nhà” (tiếng của Hùng) trong vòng tiếng đồng hồ để sửa soạn, “cụ bị” đồ đạc, dụng cụ trước khi cùng Hùng đi chơi miệt Bình Dương, Lái Thiêu, Biên Hòa hay đi bơi ở Thủ Đức. Và chỉ có thế! Chưa bao giờ Tâm ở lại đêm tại Linh Xuân Thôn. Đêm nay là lần đầu tiên!

Tâm duyệt lại “đoạn phim” khi Hùng đưa Tâm về nhà, không thấy ai ra đón. Đợi một lúc. Quyết định vào nhà. Bước đi mấy bước. Vụt quay trở ra và quyết định đi về Linh Xuân Thôn.
Tâm cũng biết chắc rằng, từ ngày quen biết Hùng đến nay, chưa bao giờ Hùng “gợi ý” (chớ đừng nói tới “gạ gẫm”) rủ rê Tâm về nhà ban đêm! Tâm cũng đang lo, không biết ngày mai về nhà, sẽ nói với cha mẹ như thế nào? Làm sao trả lời được những câu hỏi Tâm tự vẽ ra. Đi đâu? Đi với ai? Làm gì? Tại sao không về nhà? Đang bị khuấy động với biết bao câu hỏi đang nhảy múa trong đầu thì tiếng xe Vespa ngừng nổ. Định thần lại, Tâm mới biết hai người đã về đến Linh Xuân Thôn!

Phần Hùng, cũng đang lo trong bụng, vì từ ngoài đường phố quẹo trái vào nhà, sao thấy tối om! Loay hoay một lúc, mở được cửa phòng, bật công tắc. Vẫn tối om. Đêm nay Linh Xuân Thôn bị cúp điện! Vào nhà, bật hộp quẹt, lúi húi đi tìm đèn cầy. May quá còn được mấy cây.
- Thôi đành đốt đèn cầy cho nó có vẻ ‘rô măng tích’ một chút, em há!

Hùng nói đùa với Tâm như vậy, thật ra cũng muốn như tự an ủi lấy mình trong hoàn cảnh bất khả kháng này!
Sau khi đốt đèn cầy trong phòng tắm, Hùng hướng dẫn Tâm vào, đưa kem đánh răng và cái bàn chải đánh răng mới cho Tâm. Tiện thể, Hùng cũng đưa cho Tâm một bộ khăn tắm chưa dùng và một bộ đồ ngủ màu xanh lá mạ và nói: 

- Bộ Pyjama này anh chưa mặc, còn mới cáu cạnh, mời em khai trương. 

Tâm vội đưa tay tiếp nhận và nhanh nhẫu trả lời:
- Ông thật chu đáo. Tôi cám ơn ông nhiều lắm!
Trong lúc Tâm đang tắm, Hùng ra nhà trước, kéo một cái bàn tròn và 2 cái ghế ra trước hàng hiên. Vào tủ lạnh lấy ra mấy lon bia, một chai nước ngọt và một ít trái cây ra bày biện trên bàn. Có lẽ điện mới bị cúp tối nay cho nên thức ăn và đồ uống trong tủ lạnh vẫn còn lạnh và mấy dĩa nước đá vẫn còn xử dụng được!
Sau khi tắm xong, Hùng mời Tâm ngồi trước hàng hiên và nói:
- Em ngồi nhâm nhi lai rai và ngắm trăng trong khi anh đi tắm. Em thấy không, nhờ bị cúp điện nên dưới ánh trăng, ruộng lúa và xóm nhà bên kia trông thật hữu tình!

Sau khi tắm xong, Hùng ra ngồi hút thuốc và nhâm nhi mấy chai bia. Tâm chỉ uống nước ngọt, ăn qua loa ít trái cây và cứ than vì mới ăn dưới Sài Gòn trước khi về nên còn no quá!
Dưới ánh sáng trăng và qua ánh sáng đèn cầy trong nhà hắt ra, trong bộ đồ ngủ màu xanh lá mạ, Tâm trông lạ và đẹp hẵn ra, làm Hùng buột miệng khen:
- Anh vẫn quen mắt nhìn em qua hình ảnh khi thì bận Jean, khi thì mini jupe, khi thì bận deux pièces. Còn đêm nay em bận Pyjama, trông rất lạ mắt, em thật là đẹp và chưa bao giờ em đẹp như đêm nay!
Qua cung cách và lời nói của Hùng, Tâm biết anh nói thiệt tình chứ không phải cố ý “nịnh”. Nhưng với thói quen cố hữu, Tâm đập vào cánh tay chàng rồi nói “Cái ông... này!” 

Tâm mắt lim dim nhìn cảnh vật, hai cây vú sữa và hàng rào dâm bụt thấp trước sân nhà, ruộng lúa sát bên kia đường, xóm nhà bên kia bờ ruộng với những cây cau vút cao lên như điểm thêm những nét chấm phá trên nền trời xanh sáng. Bên ngoài, cảnh vật thật yên bình và thật mơ mộng trong khi đó bên trong, tình cảm Tâm như đang khuấy động, đang rạt rào, dâng sóng... Tâm gục đầu vào vai Hùng, hai vòng tay siết mạnh ngang hông Hùng và thều thào:
- Ông Hùng...

Ngồi thêm một lúc khá lâu, cả hai cùng thấm lạnh. Lúc đó đã quá khuya, hơn 1 giờ sáng rồi còn gì! Hùng đưa Tâm vào phòng ngủ, ra dọn dẹp bàn ghế vào nhà, rồi nằm ngủ trên ghế sofa. Vì lúc nãy Hùng để cửa mở nên muỗi bay vào nhà nhiều quá. Hùng tìm được một cái quạt, cứ quạt xoành xoạch hoài mà không sao ngủ được. Trong phòng ngủ, chắc Tâm nghe tiếng động của quạt nên bước ra ngoài phòng khách và nói:
- Tội nghiệp ông quá, ông nhường giường ngủ có mùng cho tôi, trong khi đó nằm đây chịu trận với đám muỗi làm tôi áy náy quá. Hay là ông cứ vào ngủ trong giường cũng được!
Được lời như mở cờ trong bụng, Hùng ngồi bật dậy, liệng cái quạt xuống sofa rồi diễu:
- Thôi, xin giã biệt Cà Mau. Ta đi về Linh Xuân Thôn đây!
Vào ngủ chung giường, cái này hơi rắc rối! Chưa ai nghĩ đến điều này, ngay cả Hùng cũng vậy! Mặc dù Hùng và Tâm không phải răm rắp như lời các cụ ngày xưa truyền dạy “Nam nữ thọ thọ bất thân!” Không! Họ đã từng hôn nhau, đã từng trong tay nhau rồi kia mà! Nhưng nằm chung giường với Tâm như thế này, thì quả thật, ngoài sức tưởng tượng và ngoài dự trù; mặc dù Hùng đã có kinh nghiệm qua những lần “thử lửa” với các cô gái khác!

Khi lên giường, Hùng dùng bàn tay vạch một đường tưởng tượng giữa hai người rồi trịnh trọng tuyên bố: 

- Đây là sông Bến Hải. Là vĩ tuyến 17. Em Bắc Kỳ, em ở phía Bắc; còn anh ở phía Nam. Hiệp định Genève đã ký. Hai bên không được xâm phạm lãnh thổ của nhau. OK?
Tâm cũng thấy vui vui và hơi yên bụng, nên hỏi vặn:
- Ừa, hiệp định Genève đã ký. Ông phải giữ lời. Không được vượt tuyến. Không được xâm lăng đó nghe?
Hùng cũng diêu diễu đáp lại:
- Ký trên giấy tờ là một chuyện, còn xâm lăng hay không, thì hạ hồi phân giải!
Tâm ký vào đầu Hùng một cái kèm theo “Cái ông... này !”
Nói thì nói như vậy, ranh giới thì vạch ra như vậy, nhưng Tâm đang nằm trong vòng tay của Hùng. Môi kề môi. Họ từ từ rơi vào giấc ngủ...

Không biết họ ngủ vùi như vậy được bao lâu, cho đến khi trong cơn nửa mê nửa tỉnh, Tâm mơ hồ như bộ pyjama màu xanh lá mạ không còn dính trên người mình. Tâm đang ôm ghì lấy Hùng. Chạm mạnh và trọn vẹn khắp vùng da thịt Hùng. Họ đang hôn nhau. Họ đang xoắn xuýt trong nhau. Tâm cảm giác được những tung vỡ, những tê điếng trong cơ thể mình. Nhận biết được những quằn quại và nhức nhối trên phần thân xác mình. Tất cả như đang bùng nổ, tung hê. Và Tâm cảm nhận như đang được hưởng, được nhận lãnh trọn vẹn những đê mê, những tuyệt vời trong lần hiến dâng đầu tiên đời con gái! Trong cơn mê đó, Tâm mơ hồ như đang kêu gào, đang rên rỉ, đang thảng thốt với những lời đứt quãng, ngập ngụa trong mênh mông với tràn đầy yêu thương, chất ngất “Anh Hùng. Anh Hùng. Em yêu anh!”

******
Đối với Tâm, đêm Linh Xuân Thôn vẫn hằn đậm nét và cho dù, sau này, cuộc tình có chuyển hướng ra sao, kỷ niệm này vẫn nhớ mãi một đời! Về phần Hùng, đêm Linh Xuân Thôn là một trong những kỷ niệm đáng nhớ và khó nhạt nhòa. Thời gian còn bên nhau, cho dù đi chơi ở đâu, Hùng vẫn thường đùa lấy tay khều nhẹ vào tay Tâm rồi nói: “Thôi. Mình về Linh Xuân Thôn. Đi em!” Dĩ nhiên, câu này, Hùng không hàm ý mun rũ Tâm đi về nhà mình ở Linh Xuân Thôn; mà chỉ muốn gợi lên một hình ảnh, một kỷ niệm thật đậm nét về một không gian mà hai người đã có với nhau! Và, lúc nào cũng vậy, Tâm nguýt Hùng một cái và lập lại điệp-khúc-muôn-thuở: “Cái ông... này!”

Năm Khánh Tâm lên lớp Đệ Nhị ở Trưng Vương, cuộc sống có nhiều đổi thay ập đến. Lúc đang hành quân ở Quảng Ngãi, Hùng nhận được một thư ngắn của Tâm, chỉ một trang giấy học trò, qua nội dung lá thư, được biết vì công việc, ba Tâm và cả nhà phải chuyển về Nha Trang và Tâm phải ở nhờ tại nhà một người dì ở Sài Gòn để tiếp tục đi học. Trong khi chuyện buồn trong gia đình chưa nguôi ngoai thì Tâm lại tìm hiểu và phát giác thêm việc Hùng đang có mối liên lạc khá đặc biệt với một người bạn cũ ở Làng Đại Học Thủ Đức. 

Tâm cho biết thêm, hiện đang bị rối bời, rất buồn, rất khổ tâm và sẽ có một quyết định mới cho hướng đi của đời sống mình trong một tương lai rất gần. Và không quên gởi lời chúc “móc họng”: “Chúc ông được nhiều hạnh phúc trên ‘đường xưa lối cũ’!” Cuối thư, Tâm còn ghi thêm 2 hàng “Người đang quen, Khánh Tâm” và “Lúc nào tôi cũng yêu ông!”

Lần đó, đơn vị Hùng hành quân liên miên trong hơn 4 tháng, từ Quảng Nam vô Quảng Ngãi rồi ra lại Quảng Nam, sau đó mới được về lại hậu cứ Thủ Đức. Dịp này, Hùng đến nhà cũ của gia đình Tâm ở Bà Chiểu để hỏi thăm tin tức. Người chủ mới ngôi nhà này không biết gì thêm ngoại trừ: “Nghe nói họ đổi ra Nha Trang”. Lần thứ 2, Hùng trở lại tìm, may quá gặp được “mấy đứa nhóc lối xóm”, mấy đứa nhóc cho đi quá giang năm nào, chúng cho biết “Chị Tâm đã đi lính rồi!” Đó là tin tức cuối cùng và rất mơ hồ mà Hùng ghi nhận được khi hỏi về Tâm.

Vào mùa Thu năm 1967, đơn vị Hùng đang hành quân trong vùng đèo Phù Cũ, Bình Định, một hôm, trong một chuyến tiếp tế cho đơn vị hành quân, Hùng nhận được một số thư từ và sách báo do một chú đệ tử từ hậu trạm ở Bình Định gởi ra. Khi mở thư của chú đệ tử, chú ấy cho biết vắn tắt hôm chú ấy vào Tiểu Khu, thật bất ngờ gặp lại cô Tâm. Cổ hỏi thăm tin tức ông thầy. Em cũng cho cổ biết bây giờ ông thầy đang ở đâu. Cổ cũng gởi cho ông thầy một lá thư, em kèm theo đây luôn”.

Mở thư Tâm, một cái “note” thì đúng hơn, Tâm cho biết một số tin vắn tắt nàng tình nguyện gia nhập Khóa Hạ Sĩ Quan/Nữ Quân Nhân/VNCH. Khi mãn khóa, xin đi phục vụ ở những đơn vị thật xa như Đông Hà, Quảng Trị hoặc Thừa Thiên nhưng ngoài đó không có nhu cầu, đành phải chọn nơi xa nhất là Bình Định. Mới phục vụ tại đây được mấy tháng. Sắp đi công tác tại Bồng Sơn và Tam Quan. Khi nào ra ngoài đó sẽ liên lạc với Hùng, nếu anh không vào vùng hành quân, có thể ghé thăm ông để xem bây giờ ông ra sao! Và cuối cái “note” Tâm viết: Phần tôi. Tôi vẫn thế!”

Đọc xong cái “note”, Hùng ngồi thừ người với rất nhiều câu hỏi và thắc mắc đang nhảy múa trong đầu... Nhớ lại, mấy đứa nhóc hàng xóm của Tâm đã nói: “Chị Tâm đi lính rồi!” Hùng tưởng tụi nó nói bậy bạ, nói tào lao; ai dè sự thật đúng như vậy! Như Hùng đã biết về tánh khí của Tâm, nàng giống như một đứa con trai thành thật, bạo dạn, hơi bương bướng, có chút ngỗ nghịch, có những quyết định bất ngờ vào phút chót... 

Qua thư cuối cùng của Tâm mà Hùng nhận được ở Quảng Ngãi trước đây: “đang bị rối bời, “rất buồn”, “rất khổ tâm”, “sẽ có một quyết định mới cho hướng đi của đời sống”...
Có lẽ trong lúc đang bị ngụp lặn trong bối cảnh rối ren, phức tạp về mặt tâm lý và tình cảm, đã dẫn đưa Tâm đến quyết định thật bất ngờ vào giờ phút chót: Nhập ngũ! Và Hùng nghe thêm nhức nhối khi tự hỏi mình có phần trách nhiệm trong việc thay đổi hướng đi cuộc đời Tâm? Với tâm trạng rối bời, Hùng chưa biết phải phản ứng như thế nào đối với Tâm trong hoàn cảnh này, nên thông cảm để chấp nhận, hoặc nên giận, hoặc nên thương?

******
Đơn vị Hùng mới trở ra vùng đèo Phù Cũ được 2 ngày sau một cuộc hành quân. Qua sự liên lạc trước, trên đường đi công tác ở Bồng Sơn, Tâm và một người bạn gái (cùng đơn vị) ghé thăm Hùng tại vị trí đóng quân, sát Quốc lộ 1. Sau hơn 1 năm mới gặp lại, qua bộ Treillis, trông Tâm chững chạc hơn, nhậm lẹ hơn, rắn chắc hơn. Thấy Tâm vui vẻ, thoải mái và tự tin hơn làm Hùng hơi yên bụng! Cô bạn gái cùng đi với Tâm là một Hạ sĩ, rất xinh xắn, nhanh nhẩu và liến thoắng; cô này nói chuyện vui vẻ, dễ gây cảm tình. Qua sự giới thiệu của Tâm, cô này gốc Hoa, có cái tên ngồ ngộ, nhưng hơi khó đọc “Triệu Bửu Huởn”. Sau khi nói chuyện với nhau khá lâu, biết về nhau thêm, nói chuyện vui vẻ và nhất là có thiện cảm với nhau qua lần sơ ngộ này. Với cái tánh tiếu lâm cố hữu, trong khi nói chuyện với Tâm và cô bạn gái, Hùng nói: 

- Huởn có cái tên thật đặc biệt, bắt đầu bằng 3 chữ “Tê Bê Hát” nhưng, hơi... líu lưỡi. Thôi để anh đặt cho em một cái tên mới cho rồi!
Huởn nhanh nhẩu hỏi:
- Anh định đặt cho em tên mới là chi vậy anh?
Hùng cố làm mặt nghiêm, không cười trả lời: 

- Trẹo Bảng Họng!
Tâm bật cười ngặt nghẽo, thụi một cái tht mạnh vào lưng Hùng rồi buông “Cái ông... này!”
Riêng Huởn, cũng ôm bụng cười lớn, rồi nói: 

- Chị Tâm đã nói với em về ‘Ông Hùng’ của chỉ thật nhiều, chỉ nói anh rất vui tánh, khoái tiếu lâm. Bây giờ em mới xác nhận được. Anh thiệt là... ‘hết sẩy’!
Từ đó, giữa 3 người, ngầm đồng ý và vui vẻ dùng cái-chết-tên “Trẹo Bảng Họng” mà Hùng đã đặt cho Huởn.

Tối hôm đó, Tâm và cô “Trẹo Bảng Họng” ở lại nơi Đại đội Hùng đang đóng quân, trên đồi. Các chú đệ tử làm thêm một cái lều riêng cho cô “Trẹo Bảng Họng”. Cũng may mà ngày hôm trước, đơn vị mới nhận được tiếp tế, nên mấy chú đệ tử cũng xoay xở để có được một bữa cơm “thịnh soạn” rất ư là hành quân để đãi khách!
Sau khi ăn xong, tiếp theo là chầu trà, cà phê, bánh ngọt và ngay cả trái cây để tiếp tục nói chuyện... đời! Qua những lời thuật lại của cô “Trẹo Bảng Họng”, Hùng mới biết Tâm đã “trút hết bầu tâm sự” cho cô bạn này! Ngoài những sự việc đã xảy ra trong gia đình Tâm (về mặt nổi) và những ngóc ngách sâu lắng trong tình cảm của Tâm (về mặt chìm) hầu như cô “Trẹo Bảng Họng” đã biết tường tận, có thể nói là... từ kẻ tóc đến chân tơ!

Tới giờ đi ngủ, Hùng nói với cô “Trẹo Bảng Họng”:
- Anh đã coi lại, trong lều em, đã có đủ mọi thứ cần thiết: mùng, mền, gối v.v... Chỉ rất tiếc là không thể nào tìm được cái “gối ôm” cho em thôi!
Cô “Trẹo Bảng Họng” biết Hùng nói diễu để “méo mó” về cái “gối ôm”, nên cô cũng trả đũa với chữ nghĩa rất ư là lính:
- Em thì cô đơn quen rồi, không có “gối ôm” cũng không sao! Em chỉ mong đêm nay sẽ được ngủ ngon và sẽ không bị quấy rầy vì ‘pháo kích’!
Khi cô “Trẹo Bảng Họng” đã chui vô lều, Hùng khều khều vào tay Tâm và nói:
- Thôi ! Mình về Linh Xuân Thôn. Đi em!
Tâm khẽ đấm vào lưng Hùng, và vẫn với lời mắng yêu “Cái ông... này!”
Tuy vậy, Tâm vẫn lom khom đi theo Hùng, cùng chui vào cái... “Túp lều lý tưởng”. Qua quãng thời gian dài không gặp, với tình yêu bị dồn nén trong cô đơn với biết bao khổ đau, quặn thắt, dày vò... Bây giờ, đêm nay, tất cả như đang tung vỡ, tất cả như đang ngập ngụa. Tiếng dội như vang vang khắp vùng đèo Phù Cũ im lìm, cô quạnh qua lời thảng thốt trong đêm vắng: “Anh Hùng. Anh Hùng. Em yêu anh... Em mãi yêu anh... Và chỉ mình anh thôi!”

Sau đêm ở lại với Hùng, trưa ngày hôm sau, cả Tâm và cô “Trẹo Bảng Họng” tiếp tục lên đường đi công tác ở Bồng Sơn và Tam Quan. Được biết, sau lần công tác đó (khoảng 10 ngày), họ trở về Bình Định bằng trực thăng từ Phi trường Quân sự Đệ Đức (phía Bắc Bồng Sơn).
Không ai ngờ được rằng, cái đêm “hội ngộ” ở vùng đèo Phù Cũ năm 1967... Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Hùng gặp và làm quen với cô “Trẹo Bảng Họng”. Và đó cũng là lần cuối cùng Hùng gặp lại Khánh Tâm!

******
Tết Mậu Thân (1968) đến. Cộng sản Bắc Việt và tay sai của chúng, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã vi phạm lệnh hưu chiến trong thời gian Tết Nguyên Đán. Chúng đã tấn công trên hầu hết các tỉnh lỵ, các Thành phố lớn và quan trọng của Việt Nam Cộng Hòa. Đơn vị của Hùng sau cuộc hành quân giải tỏa Thành Nội và Cố Đô Huế, được không vận gấp về Sài Gòn để giải tỏa áp lực của Việt Cộng vào vùng Sài Gòn - Chợ Lớn trong Tổng Công Kích đợt 2 vào tháng 5 và tháng 6/1968. Đặc biệt tại vùng Thị Nghè, Đồng Ông Cộ, Ngã Năm Bình Hòa, Gò Vấp, Bình Lợi v.v... đã nổ ra các trận đánh lớn. Có trận Việt Cộng đã ra đầu hàng hàng loạt hơn 200 người...

Hôm đơn vị Hùng được lệnh giải tỏa áp lực địch trong vùng các trại cưa gần cầu Bình Lợi. Khi chiếm xong vùng mục tiêu này, đơn vị Hùng đã gây một thiệt hại lớn cho địch với gần trăm xác còn nằm tại trận địa. Được lệnh tiếp tục truy kích địch tại khu đường rầy gần cầu Bình Lợi và trong đợt tấn công này, Hùng bị thương nặng vì đạn B40 vào ngực và bụng. Sau đó Hùng được chuyển ngay về Bệnh Viện Cộng Hòa ở Gò Vấp.

Trong tuần lễ đầu, Hùng được giải phẫu nhiều lần, tình trạng rất là nguy kịch, Hùng được chuyển đến một phòng đặc biệt để được Bác sĩ và Y tá săn sóc cấp thời khi cần. Chú đệ tử thân cận nhất của Hùng cũng được đặc biệt ở lại trong Bệnh viện để giúp đỡ và săn sóc thêm cho Hùng. Khi vào thăm, thấy Hùng với bịch máu bên hông, dây nhợ chằng chịt nối liền với các y cụ khác chung quanh, qua các y cụ này, hiện lên các tín hiệu và các biểu đồ... Hùng được trang bị và nai nịt như một phi hành gia... thứ thiệt! Mấy hôm sau, tình trạng của Hùng có vẻ khá hơn, các dây nhợ bớt chằng chịt hơn, cái mặt nạ và ống nối với bình dưỡng khí cũng không còn bị đeo thường trực. Hùng có thể giơ tay làm hiệu hoặc nói nho nhỏ với chú đệ tử, y tá hoặc bác sĩ! Tình trạng Hùng được đánh giá như “có một số dấu hiệu khả quan được ghi nhận”.

Một hôm chú đệ tử của Hùng chạy về hậu cứ Thủ Đức, lấy lên cho ông thầy một ít đồ dùng theo yêu cầu của Hùng và một xấp thư hậu cứ Tiểu Đoàn mới nhận được. Chú đệ tử lấy dao rọc sẵn các bao thư để cho ông thầy đỡ mất công và đỡ khó khăn khi phải mở từng bì thư. Chú đệ tử lăng xăng dọn dẹp các ly tách và dụng cụ trên các bàn trong phòng vì từ sáng đến giờ mắc đi về hậu cứ, tuy nhiên vẫn theo dõi nét mặt ông thầy, để xem có gì buồn, vui hay không?

Hùng đọc một số thư trong trạng thái bình thường chẳng có gì vui hoặc buồn hiện lên nét mặt. Nhưng đến một lá thư khá dày, khi nhận ra tên người gửi, nét mặt Hùng vụt vui hẳn lên. Hùng cười có vẻ thích thú và nói nho nhỏ một mình: “Ồ! Thư của cô Trẹo Bảng Họng”. Nội dung thư, phần đầu, Hùng được biết thêm một số công tác và sinh hoạt của Tâm và cô “Trẹo Bảng Họng” đã làm trong mấy tháng vừa qua. Cô ta cũng nhắc đến một số vấn đề quan trọng giữa hai gia đình (dĩ nhiên Tâm đã “xì” những tin tức “bí mật” này): Như việc gia đình Hùng ở miệt Thành, Nha Trang đã đến thăm gia đình Tâm hiện đang sống ở khu Xóm Mới, Nha Trang, hai gia đình muốn làm một nhịp cầu để “hai cháu” có thể cùng nhau tay trong tay tiến xa hơn: đến hôn nhân, đó là điều cả hai gia đình đều trông chờ... Điều này Hùng cũng đã biết qua thư của gia đình mình và qua thư của Tâm, Hùng nhận được cách đây hơn 2 tháng.

Cô “Trẹo Bảng Họng” nói thật nhiều và cố tình diễn đạt rõ ràng như một thông điệp khẳng định về việc cô ta biết tận tường về tình yêu của Tâm đã dành cho Hùng. “Em biết một cách rất chắc chắn và dứt khoát rằng, trên cõi đời này, không có một người con gái nào yêu anh ghê gớm, dữ dội như chị Tâm đã yêu anh” Hùng ngưng đọc, mỉm cười và nói một mình “Cái kiểu này, chắc cổ muốn ăn cái đầu heo đây!”

Khi đọc đến phần cuối thư, mắt Hùng như hoa lên làm nét chữ trong thư như nhạt nhòa. Hùng đọc thư nhưng có cảm giác như khi được, khi mất, lúc ẩn, lúc hiện. Hùng quên mất thực tại, không biết mình đang làm gì, đang ở đâu! Bên tai, hình như đang văng vẳng nghe lời một người nào đó, ai oán, kể lể:
- Chắc giờ này anh đang tiếp tục hành quân ngoài Huế? Còn tụi em, tưởng đã thoát khỏi những ngày đen tối của Tết Mậu Thân vừa qua, nhưng không. Hôm đầu tháng 6, một đơn vị Việt Cộng, như để trả thù cho lần thảm bại trong dịp Tết Mậu Thân, đã trở lại tấn công qui mô vào một tiền đồn phía Tây Bắc tỉnh Bình Định. Lần tấn công đó, chúng không đạt được mục đích như vẫn tuyên truyền: muốn xóa sạch tên đơn vị này, nhưng chúng đã gây cho đơn vị anh hùng này một số tổn thất đáng kể. Mấy hôm sau, tụi em cùng phái đoàn tỉnh đi lên thăm và ủy lạo đơn vị này. Không may, khi còn khoảng hơn 3 cây số mới tới đơn vị thì phái đoàn bị phục kích. Lực lượng phục kích của Việt Cộng thì không nhiều, nhưng hỏa lực trên đồi bắn xuống, nhất là hỏa lực súng cối của chúng thật ồ ạt và khủng khiếp. Chính hỏa lực này đã gây cho phái đoàn một số thương vong. Em chỉ bị thương nhẹ ở vai và lưng nhưng cũng cố lê lết kéo chị Tâm vào núp dưới một gộp đá cạnh lề đường. Xui một cái là chị Tâm bị thương quá nặng vì bị nhiều mảnh đạn ghim vào ngực. Em đỡ chị Tâm bằng hai tay, em sợ quá, chỉ biết kêu gào và khóc nức nở trong khói lửa mịt mù! Chị Tâm đã chết trong tay em. Trước khi chết, trong lúc hấp hối, chị Tâm vẫn sảng sốt và thều thào gọi mãi tên anh”.

Chú đệ tử thấy ông thầy mặt như trắng bệch, buông rơi những tờ thư, tay run rẩy ôm lấy ngực và kêu lên ú ớ. Hoảng quá, chú chạy ào đến phòng y tá trực gần nhất để kêu cứu. Mấy người y tá rầm rập chạy đến phòng Hùng. Xúm nhau, mấy người đẩy, mấy người phụ cầm theo những y cụ. Họ chạy như bay qua phòng cấp cứu gần đó...

******
Hùng thấy mình như đang bềnh bồng, đang lửng lơ, đang bay bổng. Mà sao lạ quá, Hùng có cảm giác như mình đang tung vút lên cao, và bên tai, nghe mơ hồ như có tiếng sáo diều réo rắt, như tiếng nhạc thiên thần đầy huyền bí, gọi mời.
Và ơ kìa, Khánh Tâm vụt hiện ra. Vẫn với dáng nét thân quen. Vẫn với nụ cười rạng rỡ!

Tâm nâng và vung hai cánh tay về phía Hùng như vẫy gọi, như đón chào. Hùng có cảm tưởng như hai người đã bị xa cách từ nghìn trùng, qua ngút ngàn thời gian với rất nhiều chướng ngại và điệp trùng thay đổi; giờ đây mới có dịp gặp lại!
Hùng cố nhoài người vươn tới cho đến khi chạm vào cánh tay Tâm, và như sực nhớ một huyền sử của kiếp nào xa lắc, Hùng khều nhẹ vào cánh tay Tâm và với lời nhẹ nhàng như gió thoảng nhưng đầy khêu gợi và đầy tha thiết gọi mời: “Thôi. Mình về Linh Xuân Thôn. Đi em!” Khánh Tâm, vẫn với cái nguýt làm ngọt đuôi con mắt, vẫn với lời như âu yếm, như dỗi hờn; giống như điệp khúc nào của ngàn năm huyền thoại qua lời vi vu: “Cái ông... này!”

Tâm, cứ làm như mình là chủ nhà, như muốn chứng tỏ mình đã sống ở đây từ lâu, đã rành rẽ mọi đường đi lối về nơi không gian đầy thiên sắc này! Tâm nắm chặt bàn tay Hùng để kéo Hùng đi. Lướt những bước nhẹ nhàng trên đỉnh những cụm mây bềnh bồng đang bay bay, cùng nhau hướng về vùng ánh sáng ửng hồng nơi cuối chân trời...
Ở đó, không còn chia xa, không giận hờn, không khổ đau, không thù hận.
Ở đó, chỉ toàn một màu hồng, với ngập tràn:
Hạnh phúc.
Thương yêu.
Và... Miên viễn!


Phan Công Tôn

Thương Yêu Đậm Đầy - Đỗ Công Luận

Một Chuyến Bay Bình Thường Nhưng Mang Theo Câu Chuyên Không Tầm Thường

 

Margaret vừa yên vị trong khoang hạng thương gia của chuyến bay từ Los Angeles đến Boston thì một sự huyên náo ở vài hàng ghế phía trước thu hút sự chú ý của tất cả mọi người.  

“Tôi không chấp nhận ngồi cạnh bà ta!”  

Một người đàn ông tên Henry gắt gỏng với tiếp viên, chỉ thẳng vào Margaret bằng ánh mắt khinh miệt. 

“Thưa ông, đây là chỗ ngồi của bà ấy, chúng tôi không thể thay đổi,” tiếp viên đáp lại dứt khoát.

Henry nhíu mày, liếc nhìn bộ quần áo giản dị của Margaret. 

 “Ghế hạng thương gia này không hề rẻ,” ông ta nói to, “và bà ta trông chẳng giống ai có thể ngồi ở đây.” 

Margaret, một cụ bà ngoài 80, ngồi im lặng, đôi bàn tay run run nắm chặt chiếc túi nhỏ khi những tiếng xì xào vang lên quanh mình. Những hành khách khác bắt đầu ngoảnh lại nhìn.

Cảm thấy xấu hổ nhưng vẫn điềm tĩnh, bà nghiêng người về phía tiếp viên và nói nhẹ nhàng: 

“Nếu làm mọi chuyện dễ dàng hơn, tôi có thể chuyển xuống khoang phổ thông. Tôi đã dành dụm cả đời mới có thể mua vé này, nhưng tôi không muốn gây phiền phức.”  

Tiếp viên lắc đầu kiên quyết.  

“Không, thưa bà, bà đã trả tiền cho chỗ ngồi này và có đầy đủ quyền lợi ở đây. Xin hãy yên vị.” 

Cô quay sang Henry, giọng nghiêm khắc: 

“Thưa ông, nếu ông không bình tĩnh lại, chúng tôi sẽ phải báo cáo hành vi này.” Henry lầm bầm khó chịu nhưng cuối cùng cũng chịu ngồi xuống.

Margaret điều chỉnh lại túi xách và quay mặt ra cửa sổ, mong cơn hỗn loạn này nhanh chóng qua đi. Đây là lần đầu tiên bà đi máy bay, và mọi thứ đã quá sức choáng ngợp. Khi máy bay cất cánh, Margaret vô tình làm rơi túi. Bất ngờ thay, chính Henry cúi xuống giúp bà nhặt lại.

Ông nhặt lên một chiếc mặt dây chuyền bằng vàng nhỏ bé lăn ra từ túi, ngắm nhìn một lát trước khi đưa lại cho bà. “Chiếc locket này thật đẹp,” ông nói, giọng điệu đã dịu đi.  

“Tôi làm nghề thẩm định đồ cổ nhiều năm rồi, và món đồ này rất có giá trị.” 

Margaret mỉm cười nhạt nhòa khi nhận lại kỷ vật.  

“Không phải theo cách ông nghĩ,” bà nói. “Nó là món quà cha tôi tặng mẹ trước khi ra trận. Ông ấy đã không trở về, và nó trở thành thứ quý giá nhất của mẹ tôi. Khi tôi còn nhỏ, bà đã truyền lại nó cho tôi. Đây là ký ức mà không có tiền bạc nào có thể mua được.”  

Bà mở mặt dây chuyền ra, bên trong là hai bức ảnh nhỏ.  

“Đây là cha mẹ tôi,” bà nói, chỉ vào một bức ảnh.  

Sau đó, với một nụ cười đầy hoài niệm, bà chỉ vào bức còn lại.  

“Và đây là con trai tôi.”  

Henry nhướn mày.  

“Con trai bà? Bà đến Boston để thăm cậu ấy sao?”  

Margaret ngập ngừng trước khi trả lời.  

“Không hẳn. Tôi đã phải cho con đi làm con nuôi khi nó còn bé. Khi ấy, tôi không đủ khả năng để nuôi dưỡng nó. Gần đây, tôi tìm lại được nó qua xét nghiệm DNA, nhưng nó không muốn gặp tôi. Nó nói rằng nó đã có cuộc sống riêng và không cần tôi xuất hiện trong đó.”  

Henry cau mày.  

“Thật khó khăn. Nếu nó không muốn gặp bà, tại sao bà vẫn lên chuyến bay này?” 

Đôi mắt Margaret long lanh, nhưng giọng bà vẫn vững vàng.

“Hôm nay là sinh nhật của nó. Nó là cơ trưởng của chuyến bay này. Tôi chỉ muốn được gần nó, dù nó không biết tôi ở đây.”  

Henry chết lặng. Một tiếp viên đứng gần đó, đã nghe được toàn bộ câu chuyện, vội vàng rời đi.  

Vài phút sau, giọng nói từ loa phát thanh vang lên.  

“Kính thưa quý khách, đây là cơ trưởng của chuyến bay. Hôm nay, tôi muốn gửi lời chào đặc biệt đến một hành khách đáng kính – mẹ ruột của tôi, người đang bay lần đầu tiên trong đời. Mẹ, cảm ơn mẹ vì đã luôn yêu con, dù từ rất xa. Xin mẹ hãy đợi con khi hạ cánh.” 

Tiếng xì xào vang lên khắp khoang, rồi nhường chỗ cho những tràng pháo tay rời rạc nhưng chân thành.  

Margaret run rẩy đưa tay lau những giọt nước mắt. Henry, tràn đầy hối lỗi, nắm lấy tay bà.  

“Tôi xin lỗi vì đã đối xử với bà như vậy,” ông nói thật lòng. “Bà là một người mẹ tuyệt vời.”  

Khi máy bay hạ cánh, hành khách dõi theo khoảnh khắc khi cơ trưởng bước ra từ buồng lái và tiến thẳng đến Margaret. Không chần chừ, anh ôm lấy bà thật chặt. Những tràng vỗ tay bùng lên khắp cabin.  

“Cảm ơn mẹ vì đã yêu con đủ nhiều để cho con một cuộc sống tốt đẹp,” anh thì thầm.  

Margaret siết chặt con trai, giọng bà vỡ òa:  

“Con xứng đáng có được điều tốt nhất, và mẹ chưa bao giờ ngừng nghĩ về con.” 

Henry đứng lặng lẽ, lòng trĩu nặng vì điều mà ông từng phán xét quá vội vàng. 

Chuyến bay này, khởi đầu bằng sự định kiến, đã trở thành một khoảnh khắc đầy nhân văn về sự gắn kết và tha thứ. Nhưng với Margaret, nó còn hơn cả một chuyến bay – đây là sự khởi đầu mà bà đã mong đợi suốt hơn 60 năm qua. 

 

(Theo Facebook Plutos Sale PM Chien )