Saturday, January 18, 2025

Xuân Ni Vắng Mạ - Thanh Ho


Chiếc xe lam đỗ xịch lại trước cái quán bên đường làm cho không khí trong quán bỗng huyên náo hẳn lên. Tiếng trẻ con chào mời khách mua quà bánh, pha lẫn với những tiếng léo nhéo cười đùa của đám lính trẻ đang ngồi hút thuốc chờ xe quân vận đến bốc về trại. Tôi lách người chui ra khỏi chiếc xe lam, nồng nặc mùi mồ hôi xen lẫn thoang thoảng mùi dầu gío xanh Con Ó của bà cụ ngồi cạnh. Cái nắng buổi trưa của Bình Định như phả vào mặt làm tôi hoa mắt không nhìn rõ được những gì trong quán.

“Thằng ni sao chừ còn ở đây?”

Tiếng của bà cụ Giáo vang lên mang theo mùi thuốc lá Cẩm Lệ quen thuộc làm tôi chợt vui vì được gặp lại “Mạ”. Lũ lính tráng chúng tôi, mỗi khi được xuất trại hoặc đi đâu về, thường hay ghé quán của cụ Gíáo để ăn bát bún bò Huế cay toát mồ hôi. Có khi hết tiền thì uống cốc cà phê đen hoặc mua bao thuốc lá trước khi về lại trại. Ghé mãi thành quen rôì cứ xem cụ như người nhà.

Không biết trong bọn tôi đứa nào khởi sự gọi cụ bằng Mạ, chẳng bao lâu thì cả bọn tôi cùng gọi cụ Giáo bằng Mạ. Không phải vì Mạ có hai cô con gái đẹp mà làm tôi muốn gọi cụ bằng Mạ, mà thật sự ở cụ tôi tìm thấy những lời hỏi thăm chân thật, những ánh mắt tha thiết như của mẹ tôi vậy.

“Mạ sao cũng còn ở đây à? Còn Lan, Hường đâu sao không vào đưa Mạ chạy tạm vào Qui Nhơn ít hôm?”

Tiếng Mạ lo lắng: “ Con Lan hắn chạy vào Nha Trang với thằng chồng nó sạng nay rồi. Tau chờ con Hường hai hôm ni mà chưa thấy hắn về.”

“Đi mô mà mất biệt làm tau lo quạ!”

Tôi vội trấn an cho Mạ bớt lo:

“ Không sao đâu Mạ, Phú Mỹ với đây chỉ đi hai chặng xe thồ là em Hường về đến nhà ngay ấy mà. Thế Hường có nói với Mạ là nó có đi theo trường hay không? Giáo viên quận lỵ lúc loạn lạc thì chắc cũng lu bu với đám học trò. Mạ cứ an tâm, hắn về ngay âý mà.”

Một ngày đầu tháng Tư, 1975…

Từ tờ mờ sáng hôm nay, những đoàn người chạy loạn xuôi về Nam càng lúc càng đông. Những chiếc xe thồ ba bánh được tận dụng tối đa, đàn bà con nít, dồn hết lên chiếc xe đã đầy những gồng gánh và ba lô hành lý. Đằng sau những tiếng súng như càng lúc càng gần, tôi không hiểu đây là súng của Sư Đoàn 22 Bộ Binh VNCH hay là của Trung Đoàn Sao Vàng của địch quân. Những chiếc trực thăng chật ních những người như muốn trĩu xuống vì chở quá tải, bay lè tè dọc theo quốc lộ như để phòng hờ phải đáp khẩn. Cái hỗn loạn mỗi lúc một trầm trọng, tôi bồn chồn chờ ở phi đạo 243 một cách tuyệt vọng. Tiếng ông thượng sỹ Quang chua chát:

“ĐM tụi nó bỏ mình rồi!”

Tôi nuốt nhanh ngụm khói thuốc như để tự trấn an mình cho bớt sợ, cái viễn ảnh bị bắt làm tù binh làm tay tôi bỗng dưng run lên khiến điếu thuốc lá tuột khỏi hai ngón tay đã nâu đi vì khói .

“ Bây giờ anh tính sao anh Quang? Liệu mình có đi đường bộ được không?”

Quang hằn học : “ĐM bây giờ mình chỉ có nước chạy ra khu đổ rác thì may ra thằng Thần Tượng (Phi đội trực thăng) mới dám xuống, chứ ngôì đây cả lũ thế này thì thằng đéo nào dám xuống.”

Tôi quơ vội cái túi xách và khẩu M16 rồi phóng nhanh ra chiếc Dodge của Không Đoàn Bảo Trì. Quang cũng hấp tấp nhẩy lên, đạp ga mạnh cho chiếc xe lao vụt về hướng bãi đổ rác gần vòng đai phi trường. Bãi đất trống cạnh những đống rác nồng lên mùi rác ẩm. Tôi thầm phục Quang nhanh trí đã nghĩ đến chỗ này, chẳng một ma nào thèm mò đến đây để dành lên maý bay với chúng tôi. Quang bắn liên tiếp hai phát flare đỏ làm hiệu, quả nhiên không bao lâu thì tiếng quạt của trực thăng sập đến mang theo những rác rến đang bị thổi tung lên cùng với những chiếc lá xoài khô chưa kịp ẩm mục.

“ Lẹ lẹ đi mấy cha, ĐM tụi nó bắn rát quá!”

Tiếng phành phạch của chiếc UH1* mang tôi bay bổng vào vùng trời đầy mây xám. Gío phần phật bên tai, tôi tựa cửa con tầu nhìn xuống phi trường Phù Cát đang nhỏ dần, và chìm khuất trong ký ức của một người lính thua trận.

Edmonton, một ngày đầu Đông…

Lâu lắm rồi không còn nghe tiếng cánh quạt của trực thăng, vậy mà hôm nay đang đi bộ dọc theo con lộ Rabbit Hill thì bỗng đâu có tiếng phành phạch quen thuộc của chiếc UH1 đang lượn ngay trên đầu, tôi giật mình ngước lên, rồi vội trấn tĩnh và tự bảo “ trực thăng của Global News”. Tôi lầm lũi đi về phía bờ sông Saskatchewan mà bỗng bồi hôì nhớ lại mùa Xuân 75. Không hiểu giờ đây Mạ của bọn tôi còn ở cái quận lỵ Gò Găng buồn như trấu cắn ấy hay đã trôi dạt về phương Nam mịt mờ xa tít. Tôi bùi ngùi nhớ lại mùi thuốc lá Cẩm Lệ hăng hắc của Mạ. Mạ thường ve thuốc hút, vừa nhóp nhép giọng Huế:

“ Biết chừng mô tụi mi mới thôi đánh nhau. Loạn lạc khổ quạ lấy chi ăn đây?”

Từ ngày ông Giáo chồng bà, chết trong trận đánh đẫm máu ngày đầu Xuân 1968, bà dắt con gạt nước mắt bỏ Huế để tạm lánh về quê đứa cháu ở Bình Định. Yên ổn được vài năm. Cuộc chiến lại tràn về Bình Định làm gia đình bà lại một lần nữa tứ tán.

Lần này bà lưỡng lự mãi, không muốn hoà nhập vào dòng người di tản, một phần vì muốn chờ Hường. Cô gái út của bà không hiểu vì sao đi dạy học ở Phú Mỹ, chỉ cách có một giờ xe mà vẫn biền biệt không tăm hơi. Tôi bỗng thấy thương Mạ quá, vẫn mỏi mòn chờ con. Tôi ngậm ngùi thương cho những người đàn bà Việt Nam, miệt mài làm lụng vất vả ,buôn bán lo cho chồng, cho con, chẳng bao giờ có thời giờ để nghĩ đến mình. Cuộc chiến như luôn đeo đuổi những người vợ lính như để vội vã quấn vành khăn tang lên những mái tóc vẫn còn xanh. Chiến tranh như trực chờ để trút lên đầu họ những bất hạnh.

Trong cái tận cùng đau đớn mất chồng lạc con. Mạ vẫn lặng lẽ cam chịu, vẫn gắng sống mong đợi một ngày khi đất nước thanh bình để Mạ có thể về lại Huế. Chỉ có Huế của Mạ, mới có sông Hương thơ mộng, uốn lượn như mái tóc đen bóng, thơm mùi bồ kết của Hường. Những lúc nhớ con, Mạ mắt long lanh thở dài: “ Tau nhợ con Hường quạ! Con ni đi chi mà đi miệt.”

Những lúc Mạ nói như thế, làm tôi bỗng nhớ đến đôi mắt tròn đen láy tinh nghịch của Hường mỗi khi tôi ra quán. Cô có cái cười mim mím như muốn che dấu cái răng hơi hô của mình làm cho hai má cô như bừng lên vì ấp úng. Tôi yêu cái cười mím đó như thể cô muốn nói một điều gì đó, mà vì ngượng nên chưa dám nói. Hình ảnh của Hường trong chiếc áo dài mầu mỡ gà khi cô đứng chờ xe lam dưới bóng cây bàng, cho người ta cái cảm giác cô như một giòng suối mát, mềm mại chảy ngang vùng đất khô, đang nứt ra vì cái nắng nóng thiêu đốt của miền Trung.

Mỗi khi nghe tôi ho khúc khắc, Hường hay nhỏ nhẹ bảo tôi: “ Anh đừng hút thuốc nhiều quá hị! ra đây em pha nước mát uống cho bớt ho.” Tôi cảm động bởi những cử chỉ săn sóc nho nhỏ của Hường, tôi muốn nói với Hường nhiều lắm nhung không hiểu vì sao vẫn chưa nói được. Thế rồi những ngày loạn lạc, bom đạn vang rền trên các quận lỵ của miền Trung, và tôi không còn bao giờ có dịp để nói với Hường cái ước mơ của tôi được đưa nàng về lại Huế, dạo phố chợ Đông Ba hoặc đi lên Thiên Mụ hái hoa đại nữa. Tôi vẫn không tin là chiến tranh đã cướp mất của tôi người bạn gái Huế năm nào. Tôi vẫn hy vọng được gặp lại nàng, một ngày nào đó khi quê hương không còn ly loạn. Hình ảnh cô giáo tiểu học trong một quận lỵ nhỏ, với nụ cười mím của Hường như vẫn đeo đuổi theo cái ký ức mỗi lúc một mờ nhạt của tôi.

Năm ngoái Bình, một người bạn của tôi, có dịp về thăm lại quê ở Bình Định. Anh có tìm và hỏi thăm tin tức của Mạ thì được hàng xóm cho biết “bà già Huế” đã chết sau mấy năm lặn lội đi tìm con. Cũng may có đứa cháu họ xa nó lo cho phần chôn cất chứ hai đứa con gái vẫn biệt vô âm tín.

Reng reng…reng reng…

Tiếng điện thoại di động rung lên lôi tôi về thực tại: “Bố đang ở đâu đó? Có về ăn cơm không hay còn đang lang thang đi đâu vậy?” Tiếng đứa con gái của tôi đang cằn nhằn cái gì đó làm tôi chợt nhận ra là trời đã tối hẳn, gió lạnh từ bờ sông Saskatchewan thổi tốc lên xô tôi nhanh về phía bãi parking. Lên được xe, tôi đánh diêm châm một điếu thuốc lá: “Cái xứ gì mà lạnh quá không biết!”

Quành đầu xe ra xa lộ Whitemud được khoảng hai phút. Tôi bỗng đổi ý bẻ ngoặc tay lái rẽ vào đường Fox Drive định đi về lại phố Tầu. Bỗng dưng ngay bên con đường vắng, cạnh cái thành cầu, tôi thâý một cô gái tóc đen láy trong chiếc áo dài trắng. Kééét!

Đạp mạnh thắng! Hai mắt tôi mở căng ra, tôi chợt ú ớ “Ủa? Hường!”. Tôi ngừng xe tạt vào bên con đường vắng. Vẫn không tin những gì mình vừa nhìn thấy, cúi đầu xuống vô lăng, hít mạnh một hơi ngửng lên, thì không còn thâý bóng Hường đâu nữa. Tôi bước hẳn ra khỏi xe quan sát, Hường đứng đó xa xa, tái xanh trong chiếc áo dài trắng, nhìn tôi như muốn nói điều gì đó. Tôi tiến lại gần hơn để định thần nhìn cho kỹ thì hình như bóng cô cứ lùi dần; và đột nhiên như chìm hẳn vào màn đêm dầy đặc sương lạnh. Một cảm giác lành lạnh sau gáy làm tôi vội kéo lại cái cổ áo khoác ngoài. Lắc mạnh đầu, tôi tự nói: “ Chắc mình phải đi khám mắt lại, trông gà hoá quốc rôì!”. Tôi phóng nhanh về lại nhà trong cơn bão tuyết của muà đông Edmonton.

Không biết tại sao tay tôi run quá, cầm nén hương trong tay, tôi run run bật lửa, tôi nói thầm:

"Đêm nay là đêm giao thừa, con thắp nén hương này cho Mạ để Mạ biết là con đã tìm được Hường cho Mạ rồi, Mạ linh thiêng thì về đón em con Mạ hỉ!”

Bên ngoài, gió Bắc đang thổi rít lên làm cho những bông tuyết trắng xoá đập mạnh vào cửa sổ như có tiếng ai đó đang gõ cửa gọi “ Mạ ơi!”.


Edmonton, một đêm Đông gía lạnh.

Thanh Ho

 

Friday, January 17, 2025

#387 - Uống Cà Phê Phòng Ngừa Bệnh Alzheimer & Parkinson - Bs. Phạm Hiếu Liêm

Nội Tạng Có Mang Theo Ký Ức Không? - Lý Ngọc

 
Nội tạng có mang theo ký ức không?

Một người có thể chuyển giao ký ức và tính cách của mình sang một người khác thông qua việc ghép nội tạng không? Nghe có vẻ như một tình tiết trong khoa học giả tưởng, nhưng nghiên cứu cho thấy việc ghép nội tạng không chỉ có thể cứu sống mạng mà còn có thể gây ra những tác dụng phụ bất ngờ, đó là những thay đổi mạnh mẽ trong tính cách.  

Bài báo “Những thay đổi tính cách liên quan đến cấy ghép nội tạng” được công bố vào tháng Giêng năm nay trên tạp chí y học Transplantation (Cấy ghép), do bác sĩ Mitch Liester viết. Nghiên cứu tường trình bao gồm nhiều khía cạnh của sự thay đổi tính cách, bao gồm sở thích ăn uống, gu âm nhạc, hoạt động giải trí và lựa chọn nghề nghiệp. Bài báo chỉ ra rằng người nhận ghép nội tạng có thể trải qua những thay đổi đáng kể trong suy nghĩ, hành vi và thậm chí cả tính cách, và một số người thậm chí có thể xuất hiện những ký ức “mới”, với khả năng giao tiếp và nhận thức rõ rệt hơn, và những thay đổi này có thể liên quan đến ‘kí ức tế bào’ (Cell Memory).

Một bác sĩ tâm thần khác, Thomas Verny, phối hợp nghiên cứu tiên tiến về sinh lý học, di truyền và vật lý lượng tử để tiết lộ sự thật rằng tế bào của chúng ta không chỉ ghi lại ký ức mà còn ảnh hưởng đến mã di truyền và thích nghi với những thay đổi của môi trường. Ông đề cập rằng việc ghép tim có thể mang theo ký ức của người hiến tặng. Có lẽ những kinh nghiệm trong cuộc sống của chúng ta không chỉ khắc sâu trong tâm trí mà còn có thể in sâu vào tế bào và mô của chúng ta. Bác sĩ Verny nhấn mạnh đã đến lúc từ bỏ quan niệm cố hữu “bộ não thống trị mọi thứ” và thay vào đó nắm lấy khái niệm “cụ thân tâm linh” dựa trên bằng chứng khoa học.


Một cuộc sống khác sau khi ‘thay lòng đổi dạ’.

Năm 1988, vũ công chuyên môn người Mỹ Claire Sylvia đã trải qua một cuộc phẫu thuật thay đổi cuộc đời. Ở tuổi 47, cô phải trải qua ca ghép tim-phổi vì chứng tăng huyết áp phổi nguyên phát của cô trở nên trầm trọng hơn. Cuộc phẫu thuật thành công và Sylvia hồi phục nhanh chóng và lấy lại năng lượng để khiêu vũ. Tuy nhiên, một điều đáng kinh ngạc đã xảy ra. Không lâu sau cuộc phẫu thuật, Sylvia bắt đầu thèm những món ăn mà cô chưa từng chạm tới trước đây – chẳng hạn như bia, thanh sô cô la, Gà rán Kentucky và thậm chí cả ớt xanh, tất cả đều không phù hợp với chế độ ăn uống lành mạnh của cô khi còn là một vũ công. Nhưng những sở thích đột ngột này khiến cô cảm thấy như thể chúng không phải là lựa chọn của chính cô mà đến từ một ký ức xa lạ nhưng quen thuộc nào đó.


Vào tháng thứ 5 sau ca phẫu thuật, một chàng trai tóc đỏ cao gầy xuất hiện trong giấc mơ của cô, cô cảm thấy rất thân thiết với chàng trai đó, như thể giữa họ có mối liên hệ khó tả nào đó. Tên của cậu bé dần dần hiện lên trong giấc mơ──Tim L. Trực giác mách bảo cô rằng có lẽ chàng trai này chính là chủ nhân ban đầu của trái tim mà cô đang sở hữu. Suy nghĩ này đã thôi thúc Sylvia bắt đầu tìm kiếm danh tính của một người hiến tạng. Nhớ lại, y tá đã đề cập rằng trái tim của cô đến từ một chàng trai 18 tuổi ở Maine đã chết trong một vụ tai nạn xe gắn máy. Sylvia tìm kiếm manh mối trong gần 2 năm cho đến năm 1990, khi cô tìm ra trên một tờ báo ở Maine, cáo phó rằng một cậu thanh niên đã chết trong một vụ tai nạn xe gắn máy. Cái tên này không phải là tên viết tắt của Tim L trong giấc mơ sao? Với nhiều cảm xúc lẫn lộn, Sylvia quyết định đến thăm gia đình Tim. Họ xác nhận với cô rằng Tim là một thiếu niên năng động, thích bia, gà rán, sô cô la và ớt xanh. Trong cuộc trò chuyện, mẹ của Tim đã phục vụ Sylvia một chiếc bánh sô cô la và nói với cô rằng đó là món tráng miệng yêu thích của Tim. Sylvia không khỏi cảm thấy ấm áp, như thể trái tim cô gắn liền với gia đình này, và cuộc gặp gỡ đó đã thôi thúc Sylvia hình thành mối liên hệ sâu sắc với gia đình Tim.


Sau 9 năm phẫu thuật, cô đã hợp tác với một nhà văn để xuất bản hồi ký mang tên Thay Đổi Tâm Hồn (A Change of Heart), cuốn sách này trở thành bestseller và sau đó được chuyển thể thành bộ phim truyền hình Hollywood Trái Tim Của Người Lạ (Heart of A Stranger). Tại Mỹ, nguồn gốc của việc ghép nội tạng chính yếu dựa trên lòng nhân ái và thiện chí; việc hiến tạng không chỉ hợp đạo đức mà còn là một món quà đầy tình yêu. Những người hiến tạng sẽ đồng ý hiến tặng khi còn sống, hoặc gia đình sẽ quyết định thay cho họ sau khi xảy ra tai nạn. Trong những khoảnh khắc quan trọng của cuộc sống, việc hiến tạng không chỉ kéo dài sự sống mà còn là một lựa chọn vô tư của gia đình sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng.

 

Lý Ngọc biên dịch

Theo Vision Times

Tình Xuân - Nguyễn Duy Phước



Còn Gì Độc Ác Hơn - BS. Vĩnh Chánh


Trong cuộc sống, luôn có thiện và ác. Thiện và ác có mặt ở mọi nơi. Kể cả trong mỗi một con người. “Hướng thiện” là cái đích mà con người luôn cố gắng học hỏi, uốn nắn, tập tành cho được hoàn hảo hơn. Thế giới sẽ tốt đẹp hơn nếu người tốt nhiều hơn kẻ ác.

Vào khoảng 6 giờ 35 phút sáng sớm ngày thứ Bảy, 07 tháng 10, 2023, quân khủng bố Hamas từ Dải Gaza mở một cuộc tấn công hỗn hợp bất ngờ, sử dụng hàng ngàn hỏa tiễn bắn tới tấp vào các thành phố Do Thái, ngay cả Tel Aviv và Jerusalem, đồng thời mở nhiều cuộc tấn công cùng lúc bằng đường bộ, từ biển và trên không, đa số nhắm vào các vùng kinh tế Kibuutz nằm gần Gaza, phía Nam Do Thái, gồm chừng 20 thị trấn và doanh trại quân đội.

Bài viết này xin được miễn bàn cãi, suy diễn và đào sâu nguyên nhân về mặt chính trị, địa chính trị, ngoại giao, tôn giáo, quân sự dẫn đến các hiềm khích, chiến tranh giữa các nước Hồi Giáo Ả Rập nằm chung quanh Do Thái từ khi nước Do Thái tuyên bố độc lập tháng 5, 1948. Nền hòa bình mong manh trong vùng dễ bị khuynh đảo bởi những hành động khủng bố cực đoan Hồi Giáo từ các nhóm Hamas, thánh chiến Jhad, Hezbollah từ Lebanon, Al Qa’ida, Al-Aqsa, kéo theo là những trả đũa mạnh tay của Do Thái. Tuy nhiên cuộc chiến hôm nay do nhóm Hamas khởi động có kích thước quy mô hơn, dã man hơn, tàn bạo hơn, độc ác hơn so với những cuộc chiến tranh trước đây giữa các nước Hồi Giáo và Do Thái, khiến thế giới sững sờ và lên án nhóm quân khủng bố cùng những hành vi vô nhân đạo và khát máu của chúng.


Mục đích của bài viết này đặt trọng tâm vào sự dã man ghê tởm có phần rất giống nhau giữa cuộc tấn công bất ngờ của nhóm khủng bố Hamas vào Do Thái tháng 10, 2023 và của Việt Cộng vào Miền Nam Việt Nam vào dịp Tết Mậu Thân, năm 1968.

Trong cùng lúc phóng liên tục mấy ngàn hỏa tiễn một cách bừa bãi vào đa số các thành phố ở miền Nam Do Thái, quân khủng bố Hamas đồng loạt tấn công các thị xã gần Dải Gaza sau khi phá hàng rào biên giới ngăn cách giữa Gaza và Do Thái. Chúng chạy tuôn vào các nhà dân chúng ở trong các khu kinh tế Kibuutz, bắn chết bất cứ người dân nào chúng gặp trên đường, trong các xe, ngay cả trốn trong nhà. Chúng xả súng tàn sát không chút thương tiếc vào đám đông đang dự Supernova Festival Nhạc tại vùng đồng trống của Kibuutz Re-Im, sát hại 260 người và gây thương tích cho cả mấy trăm thường dân khác. Rồi tiến vào Kibbutz Be’Eri bên cạnh, thảm sát thêm cả 100 thường dân gồm cả cha mẹ và con nhỏ đang còn ngủ trong giường. Chúng còn chặt đầu những người chúng vừa sát hại, như tại Kibuutz Be’er Sheva, xong rồi đốt luôn cả nhà. Tàn nhẫn chừng đó chưa đủ, chúng còn reo hò, nhảy múa bên cạnh những xác người đầy máu và loang lổ vết thương, lôi kéo, bắt đem theo về Gaza gần trên cả 200 người Do Thái và công dân nhiều nước khác, gồm đủ mọi thành phần, kể cả các bé nhỏ, để làm con tin. Thế giới nhiều lần phải sững sờ nhìn thấy các hình ảnh ghê sợ trên truyền hình, với cả hàng chục xác người nằm chết trên đường chạy trốn, bên cạnh xe hơi và ngay cả bên cạnh xe gắn máy, và trong các căn nhà.

Đây là một cuộc tấn công tồi tệ nhất vào Do Thái, gây tổn thất nặng nề cho an ninh nước Do Thái. Số nạn nhân Do Thái bị giết chết lên hơn 1,300 người, với hơn 3 ngàn người bị thương. Tổn thất của Quân đội Do Thái là 189 quân nhân tử trận, trong đó có 2 vị đại tá, và 41 nhân viên cảnh sát. Ngoài các nạn nhân Do Thái, còn có 22 công dân Mỹ, và nhiều công dân của các quốc gia Âu Châu, và xa như Thái Lan, Argentina… bị thảm sát và bị bắt làm con tin.

QUẢ RẤT ĐÚNG KHI NÓI BỌN KHỦNG BỐ LÀ ĐỘC ÁC NHẤT

Khi Miền Nam Việt Nam phải chiến đấu bảo vệ đất nước chống xâm lăng do Miền Bắc CS chủ chốt, Việt Cộng luôn được xem như những phần tử khủng bố. Cũng như các nhóm quá khích bạo động, hay khủng bố Hồi Giáo tự cho là chúng có chính nghĩa, có những hành động dã man giết người thường được ẩn núp và ngụy biện dưới cái tên rất kêu là Thánh Chiến, Việt Cộng không những cũng vậy mà còn hơn nhiều. Việt Cộng chủ trương bạo động, đàn áp người khác chính kiến, khủng bố và tàn sát vô cớ dân lành, tất cả cũng vì lý tưởng CS – muốn nhuộm đỏ đất Miền Nam. Người cộng sản đầy mưu mô thâm độc, được nuôi dưỡng trong hận thù vô sản với mục đích giết và giết để cưỡng chiếm tất cả cho chủ nghĩa của chúng. Và chúng đã không từ bỏ bất cứ hành động khát máu và giết người một cách vô nhân đạo để đạt được mục đích. Sự ác độc, mưu mô và dã man của VC còn hơn xa những tên khủng bố Hamas.

Trong khi Hamas, kẻ thù truyền kiếp của Do Thái, chủ tâm giết bất cứ ai là người Do Thái, những người thuộc chủng tộc Hebrew với đạo Judaism, ngôn ngữ Hebrew và một nền văn minh hoàn toàn khác hẳn với nguồn gốc Ả Rập của dân Palestine với đạo Islam, ngôn ngữ Palestinian Arabic và nền văn minh nguyên thủy Arab Islamic, Việt Cộng hung bạo còn hơn vậy, giết đồng loại có cùng một tiếng nói, một màu da, cùng chung máu mủ, chung một nòi giống với 4 ngàn năm văn hiến. Chỉ khác nhau chăng với ý thức hệ CS của Tam Vô: vô gia đình, vô tổ quốc và vô thần, và Tam Bất: bất nhân, bất tín, bất nghĩa – nói một đường làm một nẻo, vừa đánh trống vừa ăn cướp, chúng được huấn luyện trở thành những con người hung ác đầy thú tính – ngược với VNCH với một xã hội nhân bản dựa trên nền tảng tử tế do truyền thống giáo dục từ gia đình, toàn dân sống trong tự do thanh bình và những quân nhân cầm súng chống xâm lăng với tinh thần thượng võ và nhân đạo.

Có ai trong chúng ta mà không từng tự mắt thấy, tai nghe hay đọc trên sách báo những chuyến xe hành khách bị nổ tung vì mìn VC, những vụ ám sát giữa ban ngày, những bao bố buộc chặt miệng quăng xuống sông, những thây người bị chặt đầu trong đêm, những cuộc pháo kích bừa bãi vào các trường học, thành phố, hay những vụ quăng lựu đạn vào các khu chợ, gài nổ Plastic ở những nơi đông người…

Có ai trong chúng ta có thể quên được biến cố Mậu Thân 1968 khi quân đội CS, dưới danh nghĩa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhận mật lệnh từ CS Miền Bắc, đã đơn phương xé lệnh ngưng bắn ký kết giữa đôi bên để chủ mưu tấn công lén và bất ngờ Miền Nam Việt Nam.

Đúng vậy! Có ai ngờ quân CS đã tráo trở xé thỏa thuận hưu chiến, đem chiến tranh đến tận các thành phố trong những ngày thiêng liêng của đất nước, Tết Mậu Thân năm 1968. Biết bao nhiêu thường dân đã sống lo âu sợ hãi khi nhìn thấy chiến tranh với bom đạn và chết chóc đến ngay tận làng xóm mình, tận nơi nhà mình, như trường hợp gia đình tôi bị kẹt tại khuôn viên trường Nữ Trung Học Đồng Khánh trong cả tuần với đám lính CS chính quy thuộc một trung đoàn được điều động từ Quảng Bình vào tận Huế. Đã nhìn thấy cảnh đổ nát kinh hoàng của thành phố, đã bị kẹt giữa hai lằn đạn? Đã chứng kiến sự dã man tàn ác của phe gọi là giải phóng? Có bao nhiêu người là chứng nhân cho sự thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế khi người thân trong gia đình, người quen trong khu phố bị chết oan, giết chết ngay trong nhà mình, trong xóm mình, hay bị bịt mắt đem đi thủ tiêu, bị tra khảo, đập vào đầu trước khi bị xô xuống khe suối hay bị cột chùm chôn sống với 2 tay bó chặt đằng sau lưng bằng dây điện thoại? Ở đâu ra những hố chôn tập thể tại trường Gia Hội, Gò Cát, Bãi Dâu, Tây Lộc, Phú Thứ, Đá Mài…? Biết bao ngàn người đã ai oán khóc trong căm hờn và gần một nửa thành phố Huế đã chít khăn tang. Và biết bao nhiêu tên VC nằm vùng hay từ rừng trở về, như 2 anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân… vì tư thù cá nhân đã cho người đi lùng từng nhà trong từng xóm, ruồng bắt, uy hiếp giết chết không gớm tay những quân nhân về thăm nhà, đã kêu gọi hàng trăm nam nhân đi họp hay vào tận nhà thờ bắt hàng trăm thanh thiếu niên chạy loạn trốn bom đạn để sau đó đem đi chôn sống.

VC còn đáng ghê tởm hơn cả khủng bố Hamas say máu giết người trong những giờ đầu khi chúng tràn ngập các thị xã Do Thái, vì VC đe dọa, khủng bố và nhẫn tâm giết sạch không gớm tay trên cả 5 ngàn nạn nhân, theo một danh sách máu có sẵn, trong khi Huế hoàn toàn nằm cả tháng trong tay của chúng. Trong những nạn nhân của chúng, có 4 vị giáo sư bác sĩ người Đức đang dạy tại Đại học Y Khoa Huế, gồm 3 nam và một nữ, chôn chung trong một hố. Thế giới sững sờ, và công phẫn khi nhìn thấy sự dã tâm và khát máu của CS giết người hàng loạt trong khi lại nhân danh giải phóng. Thật là mỉa mai và quá hãi hùng. 

Ngoài Huế ra, VC còn tấn công Saigon và nhiều thành phố khác. Chúng trốn núp trong nhà dân, lấy dân làm bia đỡ đạn, đốt xóm làng để lẩn tránh. Chúng xông vào các cơ quan chính phủ tàn sát bắn giết tất cả, không chừa đàn bà con nít. Như trường hơp của Trung Tá Thiết Giáp Nguyễn Tuấn bị khủng bố VC đột nhập vào nhà, xả súng bắn chết cả vợ chồng cùng 5 con nhỏ. Riêng có một bé trai bị thương nằm bên cạnh xác mẹ trong 2 giờ trước khi được tìm thấy và cứu sống. Bé trai sống sót ấy, Nguyễn Từ Huấn, di tản qua Hoa Kỳ theo gia đình của chú năm 1975, gia nhập Hải Quân Hoa Kỳ và được thăng cấp Phó Đề Đốc Hải Quân Hoa Kỳ trong năm 2019.

Và có ai trong chúng ta quên được thảm cảnh hàng ngàn thường dân vô tội bị chết không toàn thây vì đạn pháo cường tập trên Đại Lộ Kinh Hoàng, tại thị trấn Xuân Lộc, trên các con đường di tản…

QUẢ RẤT ĐÚNG KHI NÓI BỌN KHỦNG BỐ LÀ ĐỘC ÁC NHẤT

Trước sự tấn công bất ngờ của nhóm khủng bố Hamas gây thiệt hại nặng về nhân mạng cũng như về tài sản, cơ sở nhà cửa, Do Thái bắt buộc phải tuyên bố tình trạng chiến tranh, nhanh chóng chống trả, hành quân tảo thanh và tiêu diệt 1,500 quân khủng bố ẩn núp trong các kibuutz phía Nam Do Thái, đồng thời thả bom và bắn phá các cơ sở của Hamas, phong tỏa mọi ngõ vào Gaza, cắt tất cả nguồn cung cấp thực phẩm, điện, nước, và gọi động viên toàn quốc với 3 trăm ngàn binh sĩ trừ bị trong đợt đầu và thêm sáu chục ngàn trong đợt kế tiếp.

Trong những ngày sắp tới, Do Thái bắt đầu đưa quân đội tảo trừ quân khùng bố ngay tại Gaza. Vậy là bão lửa đổ xuống dân lành Palestine. Mặc dù trước khi đánh bom vào cơ sở của Hamas nằm trong các chung cư có cả dân chúng, Do Thái loan báo cho dân chúng biết 1 giờ trước để họ nhanh chóng rời xa. Vậy mà cũng có trên 1 ngàn dân Palestine bị chết, trên 5 ngàn bị thương, và gần nửa triệu dân di tản. Con số nạn nhân chắc sẽ còn tăng cho đến khi Do Thái đạt được mục tiêu tối hậu: sự an toàn cho toàn dân Do Thái.

Hamas chủ mưu tấn công bất ngờ Do Thái bất chấp đến sự thiệt hại về sinh mạng của dân Palestine của họ tại Gaza. Trên truyền thông, Hamas cho biết “chiến dịch bão Al Aqsa” để trả đũa Do Thái xúc phạm thánh địa Al Aqsa tháng 5, 2021, thực tế, họ chỉ muốn lặp lại và làm vang danh cuộc chiến xẩy ra 50 năm trước, gọi là cuộc chiến Yom Kippur khi 2 nước Ai cập và Syria bất ngờ tấn công Do Thái vào ngày 6 tháng 10, 1973, và ngưng vào ngày 25 cùng tháng 10, 1973. Tuy được nhìn nhận như nước chiến thắng, có thêm phần đất ở Sa Mạc Sinai và Đồi Golan, nhưng Do Thái cũng bị chê trách thiếu chuẩn bị và bị nhiều thiệt hại. Thì nay, lịch sử lặp lại, tình báo Do Thái bị qua mặt dễ dàng, Do Thái quá lơ là và tin tưởng kẻ thù vẫn ngủ yên.

Cuộc tấn công lén của VC vào Miền Nam VN trong Mậu Thân 1968 cũng gần như vậy. Tuy bị tổn thất khoảng 45 ngàn VC và lính chính quy Miền Bắc, và hạ tầng cơ sở nằm vùng bị phá vỡ, nhưng phe CS đã gây được áp lực trên quốc tế, mở màn cho cuộc hòa đàm tại Paris năm 1973, và đưa đến sự sụp đổ của VNCH năm 1975.

Cuộc chiến giữa Hamas và Do Thái gây rất nhiều thiệt hại sơ khởi cho Do Thái và kế đó cho quân khủng bố Hamas cùng với dân chúng của Palestine. Bao nhiêu cao ốc, nguyên từng khu vực, ngay cả bệnh viện, bị oanh tạc phá hủy. Cuộc chiến sẽ còn kéo dài trong nhiều tuần nữa, và có thể lan rộng đến nhiều nước, làm cho tình hình thế giới thêm bất ổn trong khi cuộc chiến giữa Nga và Ukraine vẫn bất phân thắng bại, kéo theo sự quan ngại Tây Phương sẽ lặng lẽ bỏ rơi Ukraine đưa đến đàm phán giữa đôi bên mà kết quả thấy trước sẽ thiệt thòi cho Ukraine. Nếu Do Thái quá mạnh tay khiến tổn thất nhân mạng dân Palestine trong Gaza tăng nhiều, làn sóng di tản của dân Palestine quá lớn gây khủng hoảng cho viện trợ nhân đạo quốc tế, Do Thái sẽ bị áp lực phải thương thuyết. Thương thuyết với một nhóm khủng bố??!! Thật khó chấp nhận, trong khi chính sách của Do Thái từ trước đến nay là Mắt Đổi Mắt-Răng Đổi Răng.

Muốn có hòa bình, không những cần phải có thiện tâm và hòa hoãn của cả 2 phía, mà thật sự phải cần sự hiệp thông cầu nguyện xin Thiên Chúa hoán cải con người cho được hoàn thiện hơn. Xin Chúa soi sáng lương tâm của những người có trách nhiệm, và xin Chúa xoa dịu các vết thương chiến tranh. Là người Công Giáo, chúng ta cần phải Lần Hạt Mân Côi với một kinh Lạy Cha, 10 kinh Kính Mừng và 1 kinh Sáng Danh, như lời khuyên của Đức Mẹ Fatima trước đây, đồng thời dâng sự hãm mình của cá nhân lên cho Chúa, tập tha thứ, tập yêu thương kẻ thù để từ đó xóa bỏ hận thù. Vì phải chăng Chúa từng nói với các môn đệ: Thầy bảo các anh em: HÃY YÊU KẺ THÙ và cầu nguyện cho những kẻ từng ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?

Vĩnh Chánh 

Thursday, January 16, 2025

Mùa Xuân - Mùa Của Sự Sống, Hy Vọng Và Gắn Kết - Yotube Phan Ngọc Thuận

Ngộ - Cần Sống Lạc Quan Cho Đời Thêm Vui - Sương Lam


Mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều có niềm vui nỗi khổ riêng mà không gia đình nào giống gia đình nào, không cá nhân nào giống cá nhân nào.

Niềm vui hay nỗi buồn, hạnh phúc hay đau khổ không có đơn vị đo lường thì người ngoài làm sao biết được nó to hay nhỏ, nó nặng hay nhẹ? Chỉ riêng những người trong cuộc mới thấu hiểu, mới cảm nhận, mới thấm thía mà thôi.  Bạn đồng ý chứ?

 

Bạn đừng thấy một người luôn cười nói huyên thiên ngoài mặt mà cho rằng họ đang hạnh phúc.  Nhiều khi bạn lầm đấy nhé!

 Bạn cũng đừng thấy một người đang vật vã khóc than mà cho rằng họ đang đau khổ.  Chưa chắc đúng đâu bạn ạ!

Nếu đúng tất cả thì người xưa đã chẳng cần phải thốt: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười”.

 Cái quan trọng trong sự vui mừng hay đau khổ đó là người trong cuộc có thể tự  “control” được hay không (người  viết tạm dịch là tự chế ngự, tự kiềm chế) và phương cách, thái độ đối phó với những cảm xúc vui buồn đó như thế nào mà thôi. Chúng ta cần phải chấp nhận sự việc đã xảy ra, cũng cần có thái độ lạc quan và lòng vị tha để giải quyết vấn đề thì tinh thần mới an lạc được.  Đúng không bạn?  

 

Xin được chúc phúc cho những ông bà cụ vẫn còn được sống chung với con cái và được phụng dưỡng cho đến ngày quy tiên.

Riêng vợ chồng người viết thì cũng đã chuẩn bị tinh thần để có thể thích ứng được với đời sống tuổi hạc của mình nơi viện dưỡng lão mai sau rồi.

 

Trong hiện tại cứ hãy vui lên mà sống, còn viết văn làm thơ được thì cứ làm thơ viết văn, còn cắt cỏ làm vườn được thì cứ làm vườn cắt cỏ coi như mình đang tập thể dục cho khỏe người, còn đi “tiếu ngạo giang hồ” được thì cứ đi ta bà thế giới cho vui, kẻo mai kia chân giò yếu đuối, bệnh hoạn liên miên không đi đâu được nữa thì hối tiếc nhé.  Smile!

 

Chúng tôi vẫn thường bàn với nhau “nhà ta, ta ở” cho đến khi nào già quá không thể tự chăm sóc cho mình được thì vào viện dưỡng lão ở vì đó là giải pháp tất yếu của hầu hết chúng ta.  Kẻ trước người sau rồi cũng phải vào đó hết để chờ ngày đi đoàn tụ với ông bà, chạy đâu cho khỏi.

 Chúng tôi cũng thường bàn nhau với bạn bè là có nên về ở chung với con cái hay không thì đa số cũng có cùng một ý kiến rất “cấp tiến”  với tôi là “nhà ta, ta ở” vẫn hơn.

 

Xin mời bạn đọc cùng đọc với người viết đoạn văn như sau được người viết sưu tầm trên internet coi có đúng không nhé.

 

 Nhà ta ta ở


 
“Trong đầu óc chúng tôi - những hội viên của hội lão này - cụ nào cũng có một vài ba cái kinh nghiệm của bà con, của bạn bè về những vụ ở chung với con cái. Chuyện nào cũng chẳng có happy ending gì hết, mà đều là bẽ bàng, dại dột. Bố hay mẹ góa, nghe lời ngon ngọt của con - trai hay gái - bán nhà, đem tiền về gửi con, rồi ở với con với cháu cho chúng nó có thì giờ trả hiếu. Nhưng chỉ chừng vài ba tháng trăng mật, khi chúng rút hết tiền trong két nhỏ cũng như «công» lớn, chúng bèn nhắc nhở, khách ở trong nhà giống y hệt như cá như tôm, chỉ đến ngày thứ ba là ươn, là thối sình lên rồi. Thế là ông bà già tức tưởi, khăn gói quả mướp ra đi với hai bàn tay trắng theo đúng nghĩa đen cũng như nghĩa trắng. Hỏi đến tiền chúng cứ tảng lờ như không hiểu bố mẹ nói gì. Cụ nào cũng tắc lưỡi nói, vẫn biết đây là chuyện hàng xóm, con mình chả đến nỗi thế, nhưng nó ở nhà mình thì mình là chủ nhưng nó vẫn coi là nhà của nó, nhưng mình ở nhà nó là không được, vì nhà nó là nhà nó, không phải là nhà mình, nó là chủ mà mình là người ở nhờ” (Ngưng trích Bà Ba Phải-Ở với ai?).


Người viết nói vòng vo tam quốc đã đời ở trên rồi chắc bạn cũng đã suy nghĩ và đã có ý kiến  “Già Rồi Tôi Ở Với Ai” rồi chứ nhỉ?  Hy vọng bạn sẽ chọn lựa đúng nhé.

 

Chúng ta sẽ chào mừng Năm Mới sắp đến. Hy vọng những bậc cha mẹ đang ở nhà riêng hay đang ở viện dưỡng lão sẽ được con cháu đón về nhà sum họp gia đình vui vẻ bên nhau hay ít nhất con cháu  hãy đến thăm cha mẹ già đang sống cô đơn nơi viện dưỡng lão nhé.  Mong lắm thay!

Hy vọng những người con có cha mẹ già đang ở viện dưỡng lão đọc và suy nghĩ về cảm nghĩ của nhà văn Huy Phương dưới đây:

“Cứ vào “Pet-Abuse.com” chúng ta sẽ tìm thấy hàng nghìn trường hợp công dân Mỹ, già và trẻ, đàn ông lẫn đàn bà bị tù tội, phạt tiền vì bạc đãi, bỏ đói, đánh đập hoặc giết những con vật thân yêu trong nhà. Bỏ quên một bà mẹ già trong nhà dưỡng lão nhiều năm có phải là một trường hợp ngược đãi không? Chẳng lẽ là không? Vì nếu có, luật pháp đã bắt đứa con phải phạt vạ hay vào nhà tù”.


Người viết may mắn được ông Trời phú cho tinh thần lạc quan trong đời sống nên không thích đọc những chuyện rùng rợn ma quái hay đọc những câu chuyện buồn tiêu cực với kết luận không hậu như nhiều tác giả khác thường viết.  Cuộc đời đã khổ rồi như nhà Phật thường nói nên chúng ta cần có những suy nghĩ, quan niệm sống lạc quan, yêu đời một tí cho đời sống thêm vui.

Hôm nay, tôi nhận được bài viết đầy tính cách lạc quan dưới đây, đã gợi ý cho tôi viết bài tâm tình này, giúp cho quý bạn cao niên sống vui sống khỏe, nên xin được chia sẻ cùng quý bạn hữu đọc cho vui nhé. Cảm ơn anh NTL và anh NTP rất nhiều.


Bỏ thói quen không hay, tận hưởng niềm vui tuổi xế chiều 

Mai Lâm 

Khi đã có tuổi, không còn làm việc, quỹ thời gian bao la, bất tận. Rảnh rỗi, ta thường hay nghĩ ngợi lung tung, suy luận tùm lum, riết rồi thành ra “nghĩ quẩn.”

Tâm lý học chứng minh cho thấy bằng cách buông bỏ những suy nghĩ bất lợi, những hận thù, để tâm hồn thoải mái, tâm trí nhẹ nhàng, ta sẽ dễ dàng tận hưởng niềm vui ở tuổi xế chiều mà ta xứng đáng được hưởng.

Ta có thể đạt được điều đó nếu có thể rũ bỏ một số thói quen này:

- Không tha thứ

Một đứa cháu quên chào ở bữa họp mặt, người khác làm mất quyển sách quý mượn của ta, một đồng nghiệp cũ nói những điều không đúng về ta,… Có nhiều lý do khiến ta cảm thấy buồn và khó chịu trong cuộc sống. Nhưng bằng cách tha thứ, ta có được sự bình yên giá trị hơn rất nhiều.

Từ chối tha thứ là một thói quen có thể giam cầm chúng ta trong sự hận thù theo đúng nghĩa đen.Tha thứ thực ra không phải là về người đã làm hại chúng ta, mà là cho chính chúng ta. Đó là món quà chúng ta tặng cho chính mình để giải thoát khỏi gánh nặng oán giận. Đó là về việc chọn sự bình yên thay vì nỗi đau. Khi trải qua cuộc đời, người già sẽ nhận ra rằng việc ôm giữ mối hận thù không có ích gì. Thay vào đó, nó cướp đi niềm vui và sự thanh thản, và thường thì những thói quen ôm hận này cần phải được loại bỏ trước tiên khi chúng ta già đi.

- Khơi lại vết thương cũ

Một trong những thói quen phổ biến nhất khiến chúng ta không thể buông bỏ mối hận thù là liên tục khơi dậy những vết thương cũ, điều thường làm một cách vô thức. Tuy nhiên, đó là thói quen có thể khiến chúng ta mắc kẹt trong vòng oán giận và cay đắng.

Khi chúng ta cứ nhớ lại những tổn thương trong quá khứ, nó giống như chúng ta đang sống lại nỗi đau đó nhiều lần. Điều này không chỉ khiến mối hận thù tồn tại mà còn có thể khuếch đại cảm giác tổn thương và oán giận. Cứ như ta cố cạy một vết thương sắp “ăn da non” và ngăn cản nó lành lại.

- Tự cho mình là nạn nhân

Một thói quen khác có thể khiến chúng ta bị ràng buộc bởi mối hận thù là giữ tâm lý nạn nhân. Khi coi mình là nạn nhân, ta thường cảm thấy bất lực và mắc kẹt trong những tổn thương trong quá khứ. Điều này có thể khiến việc buông bỏ mối hận thù trở nên cực kỳ khó khăn.

Tâm lý nạn nhân là một cơ chế phòng thủ cho phép chúng ta tránh phải chịu trách nhiệm về cảm xúc và hành động của mình. Đổ lỗi cho người khác về nỗi đau của chúng ta sẽ dễ dàng hơn là thừa nhận vai trò của chúng ta trong tình huống đó hoặc thực hiện các bước để chữa lành. Tuy nhiên, giữ tâm lý nạn nhân chỉ kéo dài sự đau khổ của chúng ta. Nó khiến chúng ta bị mắc kẹt trong một vòng luẩn quẩn tiêu cực và ngăn cản chúng ta tiến về phía trước.

Để thoát khỏi chu kỳ này, chúng ta cần thay đổi quan điểm của mình. Thay vì coi mình là nạn nhân, chúng ta có thể chọn xem mình là người sống sót, thừa nhận nỗi đau của mình nhưng vẫn nhận ra sức mạnh và khả năng phục hồi của mình.

- Sống trong tiêu cực

Sống trong sự tiêu cực là một thói quen nuôi dưỡng mối hận thù. Khi liên tục tập trung vào những khía cạnh tiêu cực trong cuộc sống hoặc những điều sai trái mà chúng ta đã phạm phải, ta sẽ khuếch đại cảm giác oán giận và tức giận. Sự tiêu cực có thể che mờ khả năng phán đoán và ngăn chúng ta nhìn thấy bức tranh toàn cảnh hơn. Nó có thể khiến ta cảm thấy mắc kẹt trong những tổn thương của quá khứ và ngăn cản ta tiến về phía trước.

Cứ tập trung vào những khía cạnh tích cực trong cuộc sống của mình. Điều này không có nghĩa là bỏ qua các vấn đề trong cuộc sống, mà đúng hơn là đánh giá cao điều tích cực và chọn tìm kiếm các giải pháp thay vì tập trung vào những vấn đề.

- Không quan tâm đến sức khỏe tinh thần

Bỏ bê sức khỏe cảm xúc của bạn có thể duy trì thói quen giữ mối hận thù. Sức khỏe cảm xúc đóng một vai trò quan trọng trong cách chúng ta nhận thức và phản ứng với thế giới xung quanh. Khi sức khỏe cảm xúc bị tổn hại, chúng ta có nhiều khả năng giữ mối hận thù hơn.

Chăm sóc sức khỏe cảm xúc bao gồm việc bày tỏ và thể hiện cảm xúc của mình một cách lành mạnh, thực hành cách tự chăm sóc bản thân, tìm kiếm sự hỗ trợ khi cần thiết và duy trì tư duy tích cực.
Điều quan trọng cần nhớ là cảm xúc của chúng ta là có giá trị và việc cảm thấy bị tổn thương hoặc bị phản bội là điều bình thường. Tuy nhiên, điều quan trọng không kém là học cách xử lý những cảm xúc này theo cách thúc đẩy quá trình chữa lành thay vì oán giận.

- Bỏ qua sự phát triển cá nhân


Phớt lờ sự phát triển cá nhân là một thói quen khác có thể khiến chúng ta mắc kẹt trong mối hận thù. Khi chúng ta già đi, quan điểm của chúng ta sẽ phát triển và chúng ta cũng vậy. Tuy nhiên, nếu chúng ta bỏ qua quá trình phát triển cá nhân tự nhiên này, tiếp tục giữ niềm tin và thái độ như cũ, rất khó có thể khó buông bỏ mối hận thù.

Sự phát triển cá nhân bao gồm việc nhận ra và chấp nhận sai lầm, học hỏi từ đó và phấn đấu trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình. Quá trình này có thể mang lại sự giải phóng đáng kinh ngạc và có thể giúp chúng ta buông bỏ những tổn thương trong quá khứ.

Năm cũ đã qua, hãy tống cựu nghinh tân. Tống khứ những gánh nặng cản trở sự bình an nội tâm, và nghinh đón ngọn gió trong lành mới, luồng năng lượng tích cực vào tận trong sâu thẳm của tâm hồn và trí não.

Mai Lâm 

(theo Hack Spirit)

(https://saigonnhonews.com/mindfulness/bo-thoi-quen-khong-hay-tan-huong-niem-vui-tuoi-xe-chieu/


Mời Xem Youtube Thư Pháp Chữ Ngộ- Sương Lam thực hiện cho vui nhé.

 https://www.youtube.com/watch?v=YuU6EmIkv6s

Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé. 

Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn

Sương Lam

(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 745-ORTB 1176-1- 15- 25

 Sương Lam

Website: www.suonglamportland.wordpress.com

http://www.youtube.com/user/suonglam

https://www.pinterest.com/suonglamt/

Chúc Mừng Thân Hữu - Minh Lương

TT Trump Của Anh Vũ Có KHÙNG Không ? - Nguyễn Thượng Vũ


Lời người đăng:

Thưa anh BS Nguyễn Thượng Vũ,

Hai hôm trước, em có hỏi ông xã em về vụ TT Trump “đòi nhân Canada là Tiểu Bang Hoa Kỳ, đòi lấy lại kênh đào Panama, đòi mua Greenland” như ông bạn ở Âu châu của anh Vũ vậy. Ông xã em cũng giải thích rõ ràng như anh Vũ trên diễn đàn này đây. Em nhận thấy chắc cũng có nhiều người, nhứt là phe chống Trump cũng nghĩ Trump “khùng” tưởng mình là ông trời hay sao.

Nhân nhận được bài viết của anh Vũ, em xin post vào blog chia sẻ với mọi người  để làm sáng tỏ cái lý do không “khùng” chút nào của TT Trump.

Đa tạ anh Nguyễn Thượng Vũ.

Thân kính,

NPN

********

TT Trump của anh Vu có KHÙNG không ?

Cách đây 2-3 ngày , có 1 người bạn thân tình của tôi sống tại Âu Châu có liên lạc với tôi.

Anh viết:  TT Trump của anh Vũ có KHÙNG không? từ ngày ông í đắc cử, ông í tự coi mình như Đức Chúa, đòi nhân Canada là Tiểu Bang Hoa Kỳ, đòi lấy lại kênh đào Panama, đòi mua Greenland.

Tôi cười trả lởi là ông ơi, chuyện gì cũng có lý do của chuyện nấy. không ai điên khùng đâu.

Tôi xin bàn về Greenland trước.

Ai cũng nói là Greenland thuộc chủ quyền của Đan Mạch, dân Greenland là quốc tịch Đan Mạch, tại sao Hoa Kỳ lại đòi mua Greenland?

Thật tình ra Vương Quốc  Đan Mạch “nhận” Greenland là nước Đan Mạch chỉ từ năm 1953, khi tôi là học sinh Trung Học rồi.

Trước đó ai tới Greenland sống, buôn bán thì Đan Mạch / Na Uy/ để yên, không khó dễ gì cả.

Trước đó, người Mỹ đã hiện diện tại Greenland từ trước rồi, nhất là sau khi NATO/ OTAN thành lập năm 1949 , thì Chính Phủ Hoa Kỳ đã có 1 căn cứ quân sự hùng mạnh tại Greenland  để bảo vệ tất cả khu vực Bắc Âu Chau chống lại Sô Viết của Stalin thời đó.

Và hiên nay Hoa Kỳ cũng vẫn còn căn cứ quân sự tại Greenland.

Greenland có 1 lãnh thổ rộng bao la , bao bọc bới băng tuyết từ mấy ngàn năm nay khi loài người tới đó.

Dân số có 56,000 người gồm đủ loại người chứ không phải chỉ có người Đan Mạch hay Na Uy mà thôi.

Hoa Kỳ tốn kém cả tỷ bạc từ ngót 80 năm nay để đặt căn cứ bảo vệ Greenland và Âu Châu.

Câu chuyện liên hệ rất tốt đẹp cho tới vài năm nay khi người ta bắt đầu thấy có nhiều chất “đất Quý” / “precious Earth”/ tại Greenland.

Thế rôi mấy ông chính trị gia Đan Mạch “ngủ đêm” với Tập Cận Bình, và mời chào Trung Hoa tới thăm viếng, ve vãn với lời hứa hẹn “cười tình” với nhau, cho khai thác chất “Đất Quý” này.

Thật là nhân tình bạc như vôi, có cô nhân tình mới, đưa về nhà, và ngấm ngầm  cho người vợ già “ra de”.

Có 1 khia cạnh  vô cùng quan trọng nữa là 1 nhóm khá lớn của Dân Chúng Greenland từ 20 năm nay đã đòi hỏi Độc Lập cho Greenland , không chịu tình trạng Bảo Hộ/ Protectorat hay Lãnh Thổ “trên Giấy  Tờ”  của Vương Quốc Đan Mạch nữa.

Dân Chúng Greenland cũng nhận thấy “trên giấy tờ” thì họ có quốc tịch Đan Mạch, nhưng trên thực tế “trông dzậy mà không phải Dzậy”

Chuyện này làm tôi nhớ lại việc Pháp nhân Nam Kỳ là Department của Pháp, có quy chế đặc biệt, “như người Pháp” khác với mấy anh Bắc Kỳ chỉ là Bảo Hộ mà thôi, trừ Hanoi là Hai Phòng là đất Pháp.


Trên thực tế “trông dzậy mà không phải Dzậy”, trên thực tế Bắc Kỳ và Nam Kỳ cũng same/same.

Tại Nam Kỳ thì chỉ có mấy ông tây mũi lõ mới được làm Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ, có quyền tới họp tại Paris, chứ còn các cụ Nam Kỳ chính cống thì chỉ làm tới chức “hương cả”, Hội Đồng  Tỉnh là quá cỡ thợ mộc.

Chính Phủ Đan Mạch hiểu rõ tình hình chính trị của Greenland, nên tuyên bố là sẵn sàng đàm luận với Hoa Kỳ và sẵn sàng đáp ứng các đòi hỏi hợp tình /legitimate/ của Hoa Kỳ.

Chuyên Kênh Đào Panama và Quốc Gia Panama cũng là một vở kịch lủng củng.

Trước khi người Mỹ  bắt đầu đào Kênh Panama, thì chưa có quốc gia Panama, lãnh thổ này thuộc quốc gia Columbia.


Người Mỹ dàn xếp để Columbia cho tách phần đất khô cằn, không hoa lời, không kỹ nghệ này ra khỏi Columbia để trở thành Panama ( chắc  Hoa Kỳ là vừa dọa nat, vừa cho tiền).

Hoa Kỳ cho đào kênh này, tốn kém hàng tỷ bạc hiên nay.

Sau khi hoàn tất thì Hoa Kỳ quản trị Kênh Panama theo thảo hiêp với chính quyền Panama mới thành lập.

Hết tất cả tiền thu được khi  tầu bè xử dụng Kênh Panama, được chia lại cho dân chúng Panama 1 phần và Panama trở thành 1 quốc gia trù phú.


Vào đầu thập niên 80, TT Carter đùng đùng trả lại Panama Kênh đào này với thỏa thuận là có quy chế đặc biệt với người Mỹ, Mỹ sẽ tiếp tục trông nom như cũ, bảo trì  và xư dụng Kênh Panama như xưa, chỉ khác là chủ quyền trên giấy tờ là chính phủ Panama.

Bây giờ tình trạng thay đổi, Panama lại kiếm được nhân tình mới là Trung Hoa.

Tập Cận Bình hứa hẹn là chúng tôi có đủ  tài năng nhân lực và phương tiện để quản trị Kênh Đào này, và sẽ mang lại thêm rất nhiều lợi tức cho Panama.

Một trong các quyết định của Panama là tăng tiền tất cả các tầu bè xử dụng Kênh Panama để cha con nó chia chác với nhau.

Thế sự thay đổi, Kênh Panama do người Mỹ đào, xây lên  từ 1 đống đá khô cằn, mà bây giờ do Trung Hoa Cộng Sản Quản trị và tăng giá giấy phép các tầu bè Hoa Kỳ xử dụng lên bội phần.

Như vậy tôi nghe thấy còn bực mình, chứ đừng nói gì tới TT Trump.

Xin các anh chị click vào link để coi thêm tin tức cũa Reuter Truyển Thông Anh Quốc viết về Ngoại Trưởng Đan Mạch tuyên bố


Rất thân mến,

Nguyen Thuong Vu

https://www.reuters.com/world/danish-foreign-minister-says-we-are-ready-talks-legitimate-us-security-interests-2025-01-13/

 

JERUSALEM, Jan 13 (Reuters) - Denmark recognises that the United States has security interests in the Arctic and is ready to discuss these with the incoming administration of President-elect Donald Trump, Danish Foreign Minister Lars Lokke Rasmussen said on Monday.

"We agree that the Americans have certain concerns about the security situation in the Arctic, which we share and therefore in close cooperation with Greenland, we are ready to continue talks with the incoming U.S. president, in order to ensure legitimate American interests," he told a news conference in Jerusalem.

Nụ Xuân Đầu - Kim Oanh

 

Ướp tình trao nụ xuân đầu

Ấp yêu vương vấn trăng màu Hương Xưa 

Tình yêu tuổi mộng chợt vừa...

Bồi hồi như thuở đón đưa rộn ràng

Bao mùa xuân thắm về ngang

Bấy mùa chờ đợi võ vàng nhớ nhung

Xuân nay thời khắc tương phùng

Người xưa có hiểu tình chung sắc màu 

Hoa! Em! Là nụ xuân đầu!


Thơ & Hình Ảnh: Kim Oanh

Melbourne Đầu Xuân 9.9.2024

Qua Cơn Mê (Văn Nghệ Tết Trong Trại Tù Yên Hạ) - Phan Lạc Phúc

 

”Bạn ơi nếu tôi có một điều ước, tôi ước mong cho ngày nào trời đất phong quang, chúng ta được trở về đất nước Việt Nam yêu dấu, muốn đi đâu thì đi. Tôi sẽ đi tới những trại tù năm cũ, thăm lại người xưa, thăm lại các bạn tù chúng ta còn nằm lại. Tôi sẽ tới trại Yên Hạ, tới quận Phù Yên hỏi xem ông cụ Việt trại trưởng năm xưa còn sống hay không? Nếu gặp được ông cụ tôi sẽ nầm lấy tay mà nói “Tôi là là cựu tù nhân Yên Hạ đây, cụ còn nhớ tôi không, thưa cụ?”… Một mai qua cơn mê, xa cuộc đời bềnh bồng, tôi lại về bên em…- Trần Trịnh- Nhật Ngân.Tôi vừa nhận thư từ Seattle, Mỹ gửi sang. Không phải những người bạn thân quen của tôi mà nhìn tên người gửi thấy đề T. Nguyen lạ hoắc. Sang xứ sở văn minh thực dụng này, tên tuổi lộn đầu lộn đuôi mà chữ viết cũng ít khi dùng đến nên tôi cầm lá thư mà chưa nhớ ra ai. Mỗi người sinh ra trên trái đất này đều có một nhân dáng riêng, cũng như có một nét chữ riêng, có ai giống ai đâu? Bây giờ bỏ cái riêng tư ấy đi, dùng toàn chữ in sẵn trong computer – tiện lợi thì có tiện lợi thật nhưng cầm cái thư tôi thấy nó lạnh lùng, khô khốc… Bề ngoài bao thơ không cho tôi một tín hiệu tình cảm nào, tôi hờ hững mở thư. Nhưng vừa đọc, tôi đã vô vàn cảm xúc: “Anh P. ơi, chắc anh không nhớ được em đâu, nhưng em nhớ anh hoài, em nhớ “ông già chăn ngựa”. Em là “La Sơn Phu Tử” đây.” Những cụm từ “ông già chăn ngựa ” và “La Sơn Phu Tử” đã như chiếc chìa khóa mở ra một quãng đời tù tưởng đã nhạt nhòa trong ký ức…


Dạo ấy là cuối năm 1977, chúng tôi vừa từ giã trại tù quân quản Liên trại 2 để đến một nhà tù chính thức Yên Hạ – Sơn La thuộc Công an – Bộ Nội vụ. Cùng là đi cải tạo nhưng bên trong có chia ra nhiều loại. Loại cải tạo trong Nam tương đối nhẹ nhàng hơn, ngắn hạn hơn. Tù nặng, tù lâu là ra Bắc. Những năm đầu ra Bắc, tù đặt dưới quyền quân quản, tức là do bộ đội quản lý. Sau chừng từ 2 đến 3 năm tù được chuyển dần từ trại “trâu xanh” (bộ đội) sang trại “bò vàng” (công an). Ở trại tù chính thức của Bộ Nội vụ như trại Yên Hạ này chúng tôi được gặp những bạn tù anh em ta bị bắt từ hồi Mậu Thân (1968) cũng như một số anh em khác, tù binh từ trận Hạ Lào (1971). Những trại tù này thường là trại hỗn hợp vừa có tù chính trị (như tụi tôi) vừa có tù hình sự. Bên hình sự có thiếu gì những người tù bị hình án nặng nề từ 20 năm đến chung thân ở đây.Đến trại Yên Hạ này, tôi được gặp Trung tá Kh., dân Tiếp vận bị bắt hồi Mậu Thân khi về Huế ăn Tết thăm gia đình. Anh còn sống sót không nằm trong nấm mồ tập thể mấy nghìn người, kể ra cũng phải tạ ơn Trời Phật. Cho đến lúc này thì Kh. đã có thâm niên 9 năm tù, kinh nghíệm hơn tụi tôi nhiều lắm (mới có trên 2 năm). Khi được hỏi về sự khác nhau, giống nhau giữa 2 trại trâu xanh và bò vàng Kh nói: “Một bên là dao găm, một bên là thuốc độc, không biết bên nào êm ái hơn bên nào”. Ngừng một lát Kh. Nói tiếp: “Tuy nhiên, qua các trại miền Bắc tôi thấy cuộc sống tù đày tùy thuộc khá nhiều vào trại trưởng. Mới chuyển sang trại bò vàng Công an mà các bạn được về đây là khá đấy. Ông cụ Việt, trại trưởng trại này là một biệt lệ trong các cai tù… Rồi các bạn sẽ thấy”.

Chúng tôi nhận ra biệt lệ này ngay trong lần đầu tiên lên hội trường nghe “huấn thị”. Trại trưởng trại Yên Hạ, cấp bậc Trung tá Công an, thường được gọi thân mật là cụ Việt, là một ông già tóc bạc, tuổi trên dưới 60, dáng vẻ trầm tư, phát ngôn mực thước. ông nói “Chúng tôi được trên giao nhiệm vụ quản lý các ông, cải tạo viên chính trị. Phạm nhân chính trị có quy chế riêng. Trại sẽ áp dụng đúng quy chế ấy đối với các ông. Tôi mong các ông chấp hành nội qui nghiêm chỉnh để trại chúng tôi thực hiện tốt mục đích trên giao mà các ông cũng tạo được kết quả bước đầu trong học tập cải tạo”.

Khác với cán bộ CS thường thay, trại trưởng Yên Hạ nói ngay vào vấn đề, ngắn gọn, cụ thể – không lèm bèm chửi mắng mà cũng không lý thuyết chính trị rẻ tiền. Nhưng điều đặc biệt là tù nhân chúng tôi chưa bao giờ nghe thấy ở đâu là ông cụ Việt này gọi chúng tôi là “các ông”. Sau tháng 4 đen 75, chúng tôi tự biết mình đang đi xuống nấc thang thứ bét của xã hội, thuộc vào giai cấp bị triệt tiêu, chưa bị hành hạ, bắn giết lúc nào là may lúc ấy. Có bao giờ chúng tôi nghĩ rằng mình lại được gọi là “các ông” như thế. Tìm hiểu về người trại trưởng, tôi lại phải hỏi Kh. , người tù thâm niên ở đây. Được tiếp xúc với trại trưởng nhiều lần, nên Kh. dường như hiểu biết khá rõ về ông cụ Việt. Kh. nói: ông ta là người có văn hóa, nói tiếng Pháp khá hay, nguyên là trưởng xa (chef train) của Sở Hỏa xa thời Pháp. ông ta hình như có tham gia hội kín, hội hở trước 1940 và sau mới chuyển theo Cách mạng. Vì “quá trình” như thế nên bây giờ gần tuổi về hưu rồi mà cấp bậc vẫn lẹt đẹt trung tá. Xem như tên trại phó Đặng U. dân răng đen mã tấu chính tông mới chưa đến 40 mà đã thiếu tá Công an rồi. Nó bóp còi qua mặt ông ta mấy hồi…”

Đây là trại tù chính thức của Công an miền Bắc, và tôi nhận ra rằng những trại tù sau này mà tôi sẽ đi qua đều có một kiến trúc tương tự. Tường đá bao quanh cao chừng 4m (ở đây Sơn La “lưới núi” nên xây tường bằng đá hộc), ở trên có chăng thêm 3 tầng dây thép gai chằng chịt. 4 góc có 4 chòi canh, công an bò vàng gác suốt ngày đêm, đầu giờ, cuối giờ kẻng đánh lia chia, gắt gỏng. Ngay bên cạnh cổng giữa đi vào là văn phòng trực trại, nhìn vào một cái sân rộng gọi là sân “tập kết” nơi tù các đội tập họp đợi giờ xuất trại đi làm. Cuối sân tập kết là Nhà Văn Hóa hay Hội trường, vừa là nơi hội họp, học tập toàn trại vừa là nơi trình diễn văn nghệ. Dọc hai bên sân tập kết là 2 khu nhà. Gọi là khu A và khu B. Mỗi khu lại chia ra nhiều lô nhỏ có tường bao quanh. Mỗi lô có một nhà tù dài chia ra làm 2 lán. Mỗi lán chứa 2 đội tù, từ 70 đến 100 người, tùy theo nhân số lúc vắng lúc đông. Chúng tôi đến trại Yên Hạ này đầu mùa rét tháng 11 năm 1977 lúc tù rầm rộ kéo về mỗi người tù chỉ có được chừng 50cm vừa ăn vừa nằm chật cứng. Khu A là khu dành cho chúng tôi, tù chính trị, khu B đối diện là khu hình sự. Theo quy định nhà tù, lô này không được sang lô kia, nếu không có phép của trực trại, và khu này với khu kia thì tuyệt đối cấm không được lai vãng.


Một buổi trưa, chúng tôi vừa tạm thu xếp chỗ nằm xong chợt có tiếng la giật giọng từ bên khu B đối diện vọng sang: “Chết tôi rồi, cứu tôi với. ôi cụ Việt ơi!” Từ một lô nhà khu hình sự một người tù đang cố sức chạy ra sân tập kết. Nhưng anh ta chạy không được vì một cán bộ Công an bò vàng đang nắm tóc người tù kéo giật xuống mà lên gối. Tiếng kêu cứu của người tù tắc nghẽn giữa những tiếng hự hự liên tiếp. Người cán bộ này ra đòn rất gọn rõ ra có nghề . Người tù rũ xuống như một đống giẻ rách mà cán bộ chưa tha. Còn “sút” thêm mấy quả vào lưng vào bụng. Chợt có tiếng ông cụ Việt từ một căn nhà gác ở bên ngoài cổng trại (ở dưới là văn phòng trại trưởng, ở trên là nơi ở) nói vọng vào: “Cái gì thế?” Có tiếng trại trưởng là cán bộ mới từ từ bỏ đi… Tù bên khu B mới ra cõng người tù hình sự vào nhà, hình như đã ngất đi, trào máu họng.

Vừa mới sang nhà tù Công an mà chúng tôi đã được “dàn chào” như vậy nên rét quá. Lại phải đi hỏi Kh. bạn tù thâm niên. Kh. nói “Tù hình sự ở đây nó khiếp lắm. “Đầu gấư’ cả đấy. Hở ra là nó giết nhau ngay. Cho nên cán bộ an ninh kiêm chấp pháp chuẩn úy Trần M. mới dữ như vậy. Nhưng trại trưởng ông cụ Việt thì ông ta không cho phép đánh tù. Có mặt ông là không được phép. Nhưng mà sau lưng ông là nó đánh ra gì. Đánh chết bỏ. Vài bữa nữa đi làm các bạn đi về phía Mường Thải, thấy có cái nghĩa địa mả cũ mả mới lô nhô, đó là chỗ tù theo nhau ra nằm ở đấy” – “Tù chính trị cũng vậy à”. – “Cũng nằm một chỗ nhưng có khác. Mả tù chính trị thì hơn được cái bia, hoặc là bằng đá hoặc là bằng gỗ. Còn mả hình sự thì vùi nông một nấm, coi như xong.”

(

Vài nấm mộ từ cải tạo)

Sau vụ dàn chào ghê rợn, một số anh em tù cải tạo thầm thì to nhỏ với nhau rằng: “Trại trưởng ông cụ Việt đóng vai ông Thiện, phó trưởng trại Đặng U. với cán bộ giáo dục (tức chính trị viên của trại) Nguyễn Hồng L., và cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. đóng vai ông Ác. Đó là trò vừa đấm vừa xoa thường thấy.” Nhưng ở lâu hơn, tôi thấy hai khuynh hướng này đối chọi nhau rõ rệt, không phải chỉ là sách lược đối phó nhất thời.

Đã gần hết năm, một buổi họp bàn về tổ chức vui Tết năm Ngọ (1978) được cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L. chủ trì. Anh cán bộ mặt gà mái này tuyên bố: “Các anh sống một cuộc sống tay sai, trước là cho Pháp sau là cho Mỹ nên các anh thiếu văn hóa, hay là không có văn hóa. Bây giờ đi cải tạo, Cách mạng phải hướng dẫn các anh, dạy dỗ các anh sống có văn hóa. Trong dịp Tết này, trại dành cho các anh một nửa chương trình, một nửa cho khu A, một nửa cho khu B. Các anh hãy rán theo đường lối của Cách mạng mà sửa soạn một chương trình văn nghệ, để xem các anh có mở mắt ra được chút nào không?”

Còn ông trại trưởng ông cụ Việt, khi gặp ban Văn nghệ chúng tôi được triệu tập lo chương trình Tết thì ông cụ lại nhỏ nhẹ nói rằng: “Tết là một ngày lễ truyền thống của dân tộc. Các ông là người có học. Tôi hy vọng các ông sẽ đóng góp được một chương trình văn nghệ có ý nghĩa”. Cách ăn nói, thái độ khi tiếp xúc với chúng tôi của ông cụ Việt trại trưởng nó ôn tồn, thoải mái, không có vẻ nghiến răng căm thù như thường thấy nơi cán bộ CS. Phải chăng nguồn gốc xuất thân của ông đã khiến ông có một niềm thông cảm tự nhiên đối với chúng tôi, những người tiểu tư sản thua quân mất đất. Năm ấy chủ trương đấu tranh giai cấp còn rất mạnh; ở miền Nam đang vào cao điểm đánh tư sản, mại bản nên dân “Ngụy” chúng tôi từ trong tù cho đến ngoài xã hội được coi như một lũ “cùi” không ai dám đến gần. Đúng theo quy luật, chúng tôi là giai cấp bị triệt tiêu. Có những người bạn tù, có anh em ruột thịt làm lớn ở ngoài Bắc.

Những nhà CM ấy đã vào Nam nhận họ, nhận “hàng”, nhận tiền, nhận bạc để khi ra Bắc, nhờ mang một số quà đi thăm người thân cải tạo. Nhưng dù là anh em ruột thịt, cùng mẹ cùng cha nhưng phần lớn các nhà CM ấy quên luôn, không dám đi thăm. Dính líu với ngụy quân ngụy quyền là phản động. “Thời kỳ phát động chiến dịch, bố tôi bị đi cải tạo là tôi cũng phải quên bố tôi luôn nếu tôi muốn có sổ gạo, có bát cơm mà ăn, huống hồ là anh em họ hàng”, một người tù hình sự đã nói với tôi như vậy. Thế mà ở đây đang mùa đánh tư sản mại bản, ông cụ Việt chánh giám thị trại tù lại gọi chúng tôi là “các ông”. Tôi chưa gặp ở đâu, cai tù CS lại gọi đối xử với tù nhân như vậy… Trại triệu tập ban Văn nghệ tù chính trị bằng hai cách. Theo nghề nghiệp trước đây ghi trong hồ sơ và tin tức nhận được về những người tù có khả năng văn nghệ. Một người bạn của tôi được gọi ra thành lập ban kịch. Đó là bạn Nguyễn Văn Th. nguyên đạo diễn điện ảnh và sân khấu. Anh cũng là người được giải thưởng văn chương toàn quốc thời Đệ nhất Cộng hòa… cùng với nhà văn Nguyễn Mạnh Côn. Th. già là bạn cùng khóa 2 Thủ Đức và cùng ngành Chiến tranh Chính trị với tôi nên một bữa Th. tìm gặp tôi và nói: “Cán bộ chính trị nó chửi mình nặng như thế thì dù là tù đi nữa, mình cũng phải làm cái gì chứ ông”. Nể lời bạn nên tôi cũng vào ban văn nghệ với một nhiệm vụ khiêm nhượng “phụ tá khói lửa”. Ở miền Bắc, kịch cũng như điện ảnh bao nhiêu năm qua đều sống với đề tài chiến tranh nên tổ chức nào cũng phải có người lo về khói lửa tức là vấn đề kỹ xảo về súng bắn, mìn nổ, lửa cháy, v.v… Nhưng nhiệm vụ khởi đầu của tôi chỉ là đem đến ban kịch một cái nùi rơm và cái điếu cày để anh em giải lao hút thuốc. Ngẫm ra rất đúng với nhiệm vụ được giao: có khói và có lửa.

Nguyễn Văn Th. được lệnh viết một cái kịch ngắn cho anh em trình diễn. Nhưng mà bạn tôi kẹt, viết mãi không ra. Một bữa tôi mới nói với Th.: “Mình “sức voi” mà đi viết kịch. Tư tưởng mình khác, tư tưởng của họ khác. Đầu óc họ luôn luôn căm thù, nghi kỵ, không khéo rồi bút sa gà chết. Tại sao mình không lấy kịch của họ mà “chơi?” – “Nhưng mà kịch của họ, nó chỉ chửi bố mình không làm sao mà diễn”, Th. đủng đỉnh trả lời như vậy.

Khi mới về trại, tôi có thời gian lo liên lạc mượn một số sách, báo cho anh em, nên tôi biết thư viện trại có một số kịch bản. Trong trường kịch Quang Trung của Trúc Đường có một màn có thể tách ra diễn được. Tôi ngỏ ý với Th. già: “Màn Lửa Kinh Thành trong kịch Quang Trung này viết khá. Nếu chơi màn kịch này, mình có 2 điều lợi. Thứ nhất mình không mất công viết, kịch của họ, tác giả của họ mình khỏi lo về phần tư tưởng. Thứ hai kịch lịch sử nên anh em ta không có mặc cảm khi tập và khi diễn. Như thế may ra mới có “chút lửa” cho anh em”. Tôi đưa kịch bản Lửa Kinh Thành cho Th. đọc và bạn tôi đồng ý; sau đó kịch được đưa lên ban Giáo dục duyệt. Trong khi đó bộ phận nhạc do một số anh em ngành Tâm lý chiến đảm trách lo hát đồng ca, tốp ca, đơn ca và độc tấu tây ban cầm. Anh em bên nhạc cũng đồng ý chọn trình bày những bài ca ít sắt máu, ít căm thù mà vẫn bàng bạc một tấm lòng yêu quê hương xứ sở. Chương trình tổng quát được chuẩn y, gồm 30 phút ca nhạc, một giờ kịch, anh em bắt đầu vào tập dượt.

Chúng tôi tập ở trên Hội trường, anh em hình sự tập trong một căn nhà khu B. Chúng tôi được biết anh em hình sự được nghỉ lao động ăn tập trước chúng tôi 2 tuần theo một chương trình đã được công diễn từ những năm trước, nay chỉ ôn luyện lại cho thuần thục. Nửa buổi, khi chúng tôi đang uống nước cầm hơi thì anh em văn nghệ hình sự xuống nhà bếp đem về một rổ khoai lang “bồi dưỡng”. Theo như chúng tôi cảm nhận, ban Giáo dục trại đang dốc hết tâm lực để phần trình diễn của anh em hình sự nhuần nhuyễn, vượt trội hơn phần văn nghệ của tù chính trị, nhằm “dạy cho tụi ngụy một bài học về văn hóa”.
Anh em trong ban Văn nghệ khu A tuy không nói ra nhưng cảm thấy có trách nhiệm trong trò chơi văn nghệ của mình. Đói thì đói nhưng anh em tập dượt hết mình.

Còn gần một tháng nữa mới đến Tết nhưng không khí thi đua văn nghệ giữa 2 khu A, B đã lan truyền khắp trại. Anh em khu A đi làm ngoài, có bữa kiếm được củ khoai, miếng sắn lại dấm dúi đem cho. Chúng tôi hiểu được sự chăm lo, kỳ vọng của anh em. Cuộc chiến tranh quân sự tàn rồi, cuộc chiến tranh văn hóa còn đang tiếp diễn.

Một hôm đang nửa buổi, trại trưởng ông cụ Việt vào hội trường dự khán anh em chúng tôi tập dượt. Thấy gần trưa rồi mà ban Văn nghệ khu A vẫn xuông tình, ông cụ hỏi: “Anh em không nghỉ ăn bồi dưỡng hay sao?” Mấy người có trách nhiệm mới trình bày với trại trưởng là chúng tôi vẫn tập “xuông” không có “bồi dưỡng”. Ông cụ Việt liền cho gọi thi đua (mấy anh tù được cất nhắc lên làm chân chạy việc cho ban giám thị) lên chỉ thị: “Cung cấp ngay chế độ bồi dưỡng hằng ngày cho đội văn nghệ khu A”. Ông cụ còn dặn thêm: “lệnh trại trưởng cấp thêm cho mỗi đội văn nghệ của A lẫn B mỗi ngày một gói trà. Anh em tập dượt ca, kịch cần thấm giọng”. Thế là hàng ngày, “phụ tá khói lửa” là tôi lại thêm việc đun nước pha trà cho anh em nhấm nháp.

Đi vào thực hiện kịch lịch sử đối với chúng tôi, nó có ưu điểm nhưng cùng một lúc nó kéo theo nhiều điều phức tạp. Thứ nhất tập dượt cầu kỳ. Người “ngày xưa” ăn nói cử chỉ khác người ngày nay. Một ông quan văn với một ông quan võ chào hỏi, vuốt râu nó khác nhau, không giống nhau. Cách phát âm hay nói theo giọng nhà nghề “đài từ” của kịch lịch sử khác với kịch thời đại. Hơn nữa trang trí sân khấu, cách phục sức cho nhân vật kịch “ngày xưa” nó đòi hỏi nhiều nghiên cứu, nhiều phụ tùng hơn kịch “bây giờ”, cái kho đạo cụ của trại không thỏa mãn được. Vào việc đạo diễn Th. già bấn xúc xích về việc dàn cảnh, về đạo cụ nên bạn già yêu cầu tôi lo giúp về phần tập luyện.

Bạn Th. già biết dạo xưa tôi có sinh hoạt trong Sông Hồng Kịch Xã ở Hà Nội trước khi động viên vào quân đội, trong khi đó Th. già viết cho báo Giang Sơn. Chúng tôi biết nhau từ ngày ấy. Vả chăng tôi vốn sinh trưởng ở nhà quê mà làng tôi vốn là đất chèo, có một phường chèo thường trực ở trong làng nên tự nhiên tôi quen thuộc với một số ước lệ của tuồng, chèo cổ. Những năm đi kháng chiến ngoài bưng, tôi đi theo một đoàn Tuyên truyền xung phong nên tôi cũng tàm tạm có một số kinh nghiệm về sân khấu. Cho nên nhận lời bạn già, tôi đang là “phụ tá khói lửa” lại thêm một chức vụ nữa “phụ tá đạo diễn”.

Không gian kịch là tư dinh Đinh Đề Lĩnh, viên quan trấn thủ kinh thành Đông Đô (Thăng Long – Hà Nội). Thời gian là đêm mồng 4 tháng Giêng năm Kỷ Dậu đêm trước của toàn quân vua Quang Trung đại phá quân Thanh. Vở kịch đòi hỏi 5 vai quan trọng: Đinh Đề Lĩnh, trấn thủ Thăng Long; thất vọng trước sự yếu hèn của hôn quân Lê Chiêu Thống, căm hận trước sự tham tàn bạo ngược của quân tướng nhà Thanh nên phút cuối cùng Đinh Để Lĩnh nghe theo lời khuyến dụ của La Sơn Phu Tử, đặc sứ của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, mở cửa thành, đốt kho lương thảo khi nghĩa quân tấn công. Vai chính Đinh Đề Linh do Nguyễn Huy T., đại úy đài Tự Do cục Tâm lý chiến đảm trách. T. là một con người tài hoa, hát hay, nhảy giỏi, dáng người cao mà thanh, vừa văn vừa võ, đã nhập vai Đinh Để Linh rất đẹp. Anh chơi kịch từ thời sinh viên nên có đủ bản lĩnh trên sân khấu vừa say mê vừa tỉnh táo.

Vai La Sơn Phu Tử do Nguyễn T. cũng đại úy bên Tổng cục Chiến tranh Chính trị (người ở Seattle vừa viết thư cho tôi) nhận lãnh. Nguyễn T. vốn là em một người bạn tôi, nên tôi biết T. từ khi chưa bị động viên vào quân đội. T. đi Hướng đạo nên quen thuộc với sân khấu. T. không dám tin ở tài sức của mình nhưng tôi khuyến khích T. nhận vai La Sơn Phu Tử. T. vốn người Thanh Hóa, nói được giọng già, dáng người văn nhã mà cứng cỏi, lại chuyển sang gíọng Nghệ An – Hà Tĩnh rất ngọt nên có đầy đủ dáng vẻ của một mưu sĩ “đàng trong”. Một vai phản diện rất gay là vai tướng nhà Thanh, nói tiếng Việt ngọng líu ngọng lo mà tham dâm hiếu sắc do Trung tá Lê Văn Hóa, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn văn nghệ Quân đoàn 4 phụ trách. Anh là người tràn đầy kinh nghiệm sân khấu lại thêm là “vua cười” của đội, luôn mồm hát, no cũng hát, đói cũng hát “Ngộ bên Tàu à… ngộ mới sang – sang Nam Việt bán buôn làm giàu…” nên vai tướng Tàu như là vai viết riêng cho anh vậy. 


(trong trại tù)


Người nữ độc nhất, cô chủ quán mê hoặc tướng Tàu do đại úy Tôn Thất L. thủ vai. Anh đi tù cực khổ, đói khát như vậy mà vẫn da trắng tóc dài, mắt sắc như dao làm gái Thăng long rất đẹp. Riêng có một vai quê mùa, vai ông già chăn ngựa thọt chân, luôn luôn say xỉn do một đại úy Cảnh sát đảm nhận vai mà tập mãi chưa vô. Anh có nhân dáng quê mùa, cục mịch, say mê vai diễn nhưng tiếng cười, giọng nói của anh nó văn minh quá, thành thị quá thiếu mất chất nhà quê. Mà đây là vai quần chúng vai đại diện cho nhân dân phản kháng nên trại để ý lắm. Thiếu úy Công an Q. đại diện cho phòng Giáo dục, hằng ngày theo dõi chúng tôi tập dượt, lắc đầu trước vai ông già chăn ngựa mà phê bình đủng đỉnh “chưa được”. Sau rồi, đạo diễn Th. già mới tham khảo ý kiến anh em mà bảo tôi rằng: “Ông khỏi mất công dượt cho anh ấy nữa.

Ông thì vừa già, vừa chân tập tễnh, lại vừa có chất quê… thế thì ông chơi ngay cái vai ấy đi cho nó tiện việc sổ sách.” Anh em cũng ồn ào đề nghị nên tôi lại kiêm luôn vai cụ Triệu ông già chăn ngựa. Sở dĩ đạo diễn Th. già và tôi chú ý đến giọng nói là vì khi diễn kịch ở đây, chúng tôi diễn “chay” không có ban nhạc làm nền (background music). Vì vậy phải đặt trọng tâm vào giọng “thoại”, đưa vào đó nhiều màu sắc để phần nào quên đi cái thiếu vắng nhạc nền kia.

Có giọng Bắc trầm hùng cứng cỏi của Đinh Đề Lĩnh, giọng miền Trung uyển chuyển, sâu sắc của La Sơn Phu Tử, giọng ngọng nghịu của tướng Tàu, giọng Bắc pha Huế đài các của cô chủ quán, giọng quê mùa bạo liệt của ông già chăn ngựa. Nút kịch được thắt khi La Sơn Phu Tử đang đêm được ông già chăn ngựa nhà ở gần bên đưa vào gặp Đinh Đề Lĩnh ở tư dinh, thuyết điều hơn, lẽ thiệt. Kịch được thắt thêm 1 nút khi tướng Tàu sục sạo đi tìm cô chủ quán xinh đẹp bất ngờ xộc vào tư dinh Đinh Đề Lĩnh khi La Sơn Phu Tử còn đang hiện diện. Để tránh cho cơ mưu của “đàng trong” đừng bại lộ, cũng là cởi nút cho vở kịch… ông già chăn ngựa liền dũng cảm nhảy vào đâm chết tướng Tàu rồi cùng chết. Cái chết bất ngờ của ông già chăn ngựa như một giọt nước làm tràn ly khiến Đinh Đề Lĩnh còn đang do dự, chuyển hẳn sang thế nghĩa quân… mở cửa thành, đốt kho lương thảo khi đại quân vua Quang Trung tràn tới. Sau đó, bình minh ngày 5 tháng 1 năm Kỷ Dậu cũng vừa hiển hiện.

Để lo việc trang trí sân khấu và phục sức cho nhân vật kịch, trung tá Quân cụ Tr., nguyên sinh viên Mỹ Thuật ngày nào bây giờ là trưởng ban đạo cụ liền đem cái tài hoa còn lại của mình sửa chữa mấy đôi bốt hư của cán bộ thành hia cho văn quan, võ tướng nhà Lê, cải biến mấy cái mền dạ cũ màu đỏ, màu xám thành nhung y cho Đinh Đề Lĩnh, cho tướng nhà Thanh. Mấy cái đường kẻ đen trên tấm mền đỏ ngày nào bây giờ dưới bàn tay thần tình của Tr. đã biến thành hoa văn “thủy ba sóng rợn”. Tướng nhà Thanh thì nhung y lẫm liệt, hia mão đàng hoàng. Nhưng khi Đinh Dề Lĩnh, võ quan nhị phẩm triều đình đội mão theo đúng nghi thức thì tôi có ý kiến là Đinh Đề Lĩnh không nên đội mão chỉ nên đội khăn. Đội mão xem ra nó “cải lương” hơn, không truyền thống bằng cái khăn lượt Việt Nam. Đạo diễn Th. già đồng ý. Anh Tr. cũng đồng ý tuy rằng anh rất tiếc chiếc mão “võ quan nhị phẩm” rất công phu của anh.

Trong thành tích trang trí tư dinh của Đinh Đề Lĩnh ngày Tết, anh Tr. đắc ý nhất là 3 chữ đại tự anh viết trên bức hoành phi (bằng giấy): Huyết do hồng. Tr. vừa là nghệ sĩ vừa là trí thức. Th. già và tôi hiểu ý anh, nắm tay anh thông cảm. Thiếu úy Công an Q. người thường xuyên sinh hoạt với chúng tôi một bữa mới hỏi Th. già về ý nghĩa mấy chữ nho này. Th. giải thích: đây là 3 chữ cuối trong vế đối, nhắc lại chiến công chống xâm lược phương Bắc của tiền nhân “Đằng Giang tự cổ Huyết do hồng” (Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến nay vẫn còn đỏ máu). Tôi thấy Thiếu úy Q gật gù, ngẫm nghĩ, và từ đó thái độ đối với chúng tôi có khác. Anh em chúng tôi dù sống kiếp tội đồ khổ sở, đói khát nhưng trong công tác văn nghệ này ai củng cố gắng đóng góp một chút gì, để hy vọng nói lên rằng: chúng tôi thua trận, bị cầm tù, bị lăng mạ nhưng chúng tôi có văn hóa theo cách riêng của chúng tôi.

Đã đến ngày 30 Tết, năm Tỵ sắp sang năm Ngọ (1977-1978). Nghe anh em lưu cựu ở đây lâu nói rằng chưa có bao giờ trại ăn Tết to như thế. Có lệnh của trại trưởng là bao nhiêu tiền quỹ của năm cũ chi cho bằng hết nên Tết đến thịt trên 10 con heo, 1 con bò; tát ao lấy cá chắm, cá chép lên ăn Tết. Mấy vườn su hào cũng nhổ “đại trà” làm dưa. Toàn là món “cao cấp” cho toàn trại, toàn thể tù nhân ăn Tết. Trong 10 năm đi tù cải tạo, tôi ngẫm lại chưa có năm nào, ở đâu được ăn một cái Tết tù như vậy. Ngoài các món ăn, anh em tù nhân còn được lĩnh mỗi người hai bánh chưng, thuốc lá, thuốc lào, và đêm 30 đi xem kịch tất niên về toàn trại còn có cháo lòng bò bồi dưỡng. Nghe phong thanh là sau Tết trại trưởng trung tá Trần Việt sẽ nghỉ hưu nên ông xã cảng “cái gì của tù là trả hết cho tù”.

Bữa tổng dượt có mặt đủ ban Giám thị trại, chương trình của khu A chúng tôi được cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L. chăm chút rất kỹ. Y ta để ý rất nhiều đến những sự “đóng góp” của chúng tôi vào vở kịch, hỏi khá kỹ về câu đối “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng “. Vốn bản tính đa nghi nên y không muốn đưa vào bất cứ điều gì không có trong kịch bản. Ông cụ Việt, có lẽ ông ta là người rộng rãi kiến văn nên ông cụ nói: “Tư dinh một viên võ tướng có tâm hồn với đất nước mà treo bức hoành Đằng Giang tự cổ huyết do hồng thì được lắm. Để đối phó với cường lân phương Bắc lại càng hay nữa .” Nhưng cán bộ giáo dục tỏ ý ngần ngại, khi chúng tôi định hát đoạn đầu của bài Thăng Long Hành Khúc của Văn Cao vào đoạn kết của vở kịch. Nguyên văn trong kịch bản chỉ có “tiếng hô sát của đại quân ta nhỏ dần rồi màn hạ”. Ở đây chúng tôi trong hậu trường sẽ hô “sát, sát” đồng loạt rồi hát từ từ nhỏ đến to dần lên “Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng, trông khói sương chiều ám trên dòng sông. Nhị Hà còn kia Nhị Hà còn đó, lũ quân giặc Tôn sập cầu trôi đầy sông.” Màn từ từ khép và đến đó là dứt kịch. Chúng tôi muốn cho cái “coup de rideaư’ nó thêm sức thuyết phục.

Đã thử lại lúc màn hạ này mà không có tiếng đồng ca Thăng Long Hành Khúc ở bên trong. Nó nguội đi nhiều lắm. Cán bộ giáo dục cuối cùng chấp nhận “cách đạo diễn” của chúng tôi nhưng nhất quyết không bằng lòng 2 chữ “giặc Tôn” mà phải đổi ra là nhà Thanh “cho nó rõ nghĩa” (chữ của y ta, bởi vì giặc Tôn có thể liên tưởng đến Tôn Đức Thắng chăng?).
Tối 30 Tết, trại Yên Hạ nôn nả hẳn lên. Mới 7 giờ đêm, mà hội trường đã chật cứng. Phạm nhân khu A ngồi bên phải. Khu B bên trái. Những dãy ghế phía trên là dành cho quan khách, gồm cán bộ khung xã sở tại, huyện ủy Phù Yên, cán bộ Công an và gia đình. Cứ như ý kiến bữa tổng dượt thì đêm 30 Tết, ban Văn nghệ sẽ diễn trong trại. Mồng 4 Tết chúng tôi sẽ ra huyện lỵ Phù Yên diễn cho dân chúng tới xem. Cho nên buổi diễn hôm nay là buổi diễn trong chương trình vui Tết đón Giao thừa, vừa là buổi phúc khảo trước khi ban Văn nghệ “đem chuông đi đấm xứ người”.

Chương trình khu B, bên hình sự được diễn đầu tiên. Cũng đồng ca, đơn ca, một màn kịch ngắn “đánh Mỹ” và kết bằng màn dân ca Quan họ Bắc Ninh. Anh em hình sự chơi chương trình này đã “thuộc” nên đối đáp, tung hứng rất là nhuần nhuyễn. Nhưng vì “bổn cũ soạn lại” nên nó làm cho tù chính trị chúng tôi chăm chú hơn là khán giả sở tại.

Bên hình sự có một ca sĩ tên Ng. hát rất hay, rất kỹ thuật; nghe nói anh ta đã tốt nghiệp thanh nhạc nên hát đâu có thua gì ca sĩ trên đài phát thanh. Ca sĩ bị tù mút mùa vì nghe nói anh mắc tội làm tem, phiếu giả. Kịch “đánh Mỹ” thì không có gì mới. Vẫn theo công thức cũ. “Mỹ cút, ngụy nhào, quân ta kẻ thù nào cũng đánh thắng, khó khăn nào cũng vượt qua”. Nhưng phải công nhận anh em hình sự chơi nhạc cảnh Quan họ “Mời trầu, giã bạn” rất đằm thắm, ý nhị và duyên dáng. Đây là một tiết mục hay. Khi anh em cúi đầu chào khán giả, chúng tôi dù ở trên sân khấu, đang sửa soạn “ra trò” mà chúng tôi cũng không ngừng vỗ tay tán thưởng. Đoàn trưởng đoàn kịch khu B. Quách H., đứng ở cánh gà phía bên kia, đứng nghiêm, để tay lên ngực cúi đầu chào lại chúng tôi như một sự cảm thông cái tình tri âm, tri kỷ. Có lẽ “cái đinh” của đêm văn nghệ hôm nay đối với khán giả địa phương là Văn nghệ khu A, tù chính trị. Họ chưa bao giờ được biết miền Nam thật sự như thế nào? Miền Nam đã thua, đã tan nát nhưng những tàn dư của miền Nam, lũ tù chính trị chúng tôi, vẫn còn đây. Họ đã được nghe “nhà nước ta” nói rất nhiều về miền Nam, nhưng “trăm nghe sao bằng một thấy”. Văn nghệ, là một thái độ sống. Họ muốn biết thái độ sống của miền Nam thế nào qua những đại diện khốn khổ nhưng trung thực là chúng tôi. Chúng tôi cũng cảm nhận được điều đó nhưng trong tình trạng tù đày, bó buộc như thế này, biết ăn, biết nói làm sao? Thôi thì “sức người có hạn, được đến đâu hay đến đó”.

Qua mấy màn ca nhạc, đồng ca, đơn ca, tôi nghiệm ra là về kỹ thuật, chúng tôi không sánh bằng anh em hình sự. Điều dễ dàng nhận thấy là tù chính trị già hơn, nên hơi hám kém hơn. Nhưng hiệu quả sân khấu thì chưa chắc ai hơn ai. Lấy ví dụ như ca sĩ Văn B. của chúng tôi hát làm sao tốt bằng, khỏe bằng Ng. bên khu B, nhưng khi anh hát xong tiếng vỗ tay có lẽ nhiều hơn, nồng ấm hơn. Ng. hát giọng ngực, lớn, vang nhưng anh hát theo lề lối thường thấy ở ngoài Bắc, không rõ lời. Nhiều khi không biết anh hát cái gì nữa chỉ thấy trước sau giọng ngân vang rền rĩ mà thôi. Còn Văn B. anh là ca sĩ tài tử (ngoài Bắc kêu bằng nghiệp dư, thích thì hát chơi không phải nhà nghề) nên hát bài nào anh phổ tâm tình vào bài hát đó. Anh không trưng bày giọng hát mà như văn nghệ thường thấy ở miền Nam, anh có một tâm sự để mà kể lại. Anh thuộc loại ca sĩ trữ tình (chanteur de charme) không phải ca sĩ Opera như khuynh hướng ngoài Bắc. Cho nên nghe Văn B. ca sĩ miền Nam, hát không giỏi bằng, không khỏe bằng nhưng nó dễ nghe hơn, nó thấm thía hơn, nó con người hơn. Mà cũng có thể vì cách hát của anh khác lạ hơn nên anh được chú ý và tán thưởng.

Tiết mục gây được nhiều tiếng cười sảng khoái là màn tốp ca. Anh em chúng tôi dựng tiết mục này theo lối AVT, nhằm kiếm được nụ cười trong tình trạng tối ám của nhà tù. Mà điều này cũng là một thực tế. Chúng tôi là phạm nhân nhưng trong đời sống chúng tôi vui cười nhiều hơn cán bộ coi tù. Ở ngoài Bắc, hoặc là người ta sống căng thẳng quá hoặc là người ta phải ngụy trang lối sống cho nên phần đông mọi người mặt khó đăm đăm. Đây là bệnh táo bón tinh thần thường thấy nơi xã hội thiếu tự do. Ba bạn Đỗ H., Văn B., Trịnh P. hát hò, đối đáp với nhau thoải mái. “Cái gì nhúc nhích là ta chén liền “. Tiếng cười đồng cảm vang lên. Từ cánh gà nhìn xuống, tiếng cười lan tỏa chỉ có người cau mặt là cán bộ giáo dục…

Màn gây ấn tượng sâu sắc là độc tấu Tây ban cầm. Đây là loại đàn nhiều người chơi. Nhưng tập tành đến nơi đến chốn chơi được nhạc cổ điển hay bán cổ điển thì có rất ít người. Người anh em chơi Tây ban cầm của chúng tôi đã có trên 10 năm cầm đàn. Anh bữa ấy độc tấu một bản bán cổ điển. Một cây đàn Tây ban cầm mà như một dàn nhạc. Có lúc réo rắt như violon, lúc nhảy nhót như mandoline, khi rộn rã như piano, khi trầm hùng như một đoàn quân nhạc đón đoàn chiến binh chiến thắng trở về . Tôi nghĩ đám đông khán giả kia chưa chắc đã hiểu hết ý nghĩa của bài vừa diễn tấu nhưng nhìn bàn tay buông bắt đầy kỹ xảo, nghe âm thanh tiết tấu phong phú, họ hiểu rằng chơi đàn như vậy là một kỳ công. Kỳ công ấy là văn hóa.

Bây giờ bắt đầu tiết mục cuối cùng, tiết mục chủ yếu chấm dứt đêm văn nghệ, kịch Lửa Kinh Thành, trung tâm đầu tư công sức của chúng tôi. Tôi nhìn suốt một lượt. Sân khấu đã trang trí chỉnh tề. Diễn viên đã sẵn sàng, đạo cụ đầy đủ. Th. già nhìn tôi. Tôi giơ tay ra dấu sẵn sàng. Trưởng ban đạo cụ kiêm trang trí sân khấu, họa sĩ Tr. đưa cho Th. một thanh gỗ. Rất trịnh trọng Th., nhà đạo diễn giơ cao thanh gỗ nện 3 lần xuống sàn sân khấu. 3 tiếng gõ truyền thống của sân khấu kịch bắt đầu. Màn từ từ mở. Tư dinh quan Đề Lĩnh với hoành phi, câu đối, lộ bộ, cờ hiệu trên án thư, kiếm treo trên tường đã phút chốc đưa người xem về không khí trang trọng và sương kính của thế kỷ 18. Một tràng pháo muộn của đêm mồng 4 Tết từ đâu vẳng lại. Đinh Đề Lĩnh, võ phục uy nghiêm, lưng mang đoản kiếm tiến lại gần án thư, cúi mặt thở dài. Chợt lính hầu khép nép hiện ra chắp tay thưa:

– Bẩm quan, người vừa đi chầu về.
– Có chầu chực gì được đâu. Hoàng thượng còn bận sang hầu Tôn Tổng đốc… Ở nhà có chuyện gì không ?
– Bẩm quan, có ông cụ Triệu mấy lần sang kêu về cỏ ngựa. (Có tiếng i ới bên ngoài vang lên: Quan lớn về chưa ?) Đấy lại có tiếng ông cụ…
– Ra mời ông cụ Triệu vào đây.
(Ông cụ Triệu, ông già chăn ngựa, tập tễnh vì thọt chân, lảo đảo vì say rượu, chầm chậm bước vào).
– Xin kính chào quan lớn.
– À cụ Triệu (giọng độ lượng), Thế nào ? Cụ đã làm lễ tạ ông vải chưa?
– Bẩm quan, các cụ nhà tôi có về đâu mà tiễn. Con cháu còn không đủ ăn lấy gì mà thỉnh các cụ. Bẩm quan, từ ngày Hoàng thượng hồi loan đến giờ, nhờ ơn Hoàng thượng mà cả nước này đói xanh xao cả người ra đấy quan lớn ạ.

Vừa nghe đến đó, cả khối B hình sự như chạm phải một luồng điện, vùng lên vừa vỗ tay vừa cười la ầm ĩ. Qua nửa chương trình, tôi nghiệm ra khán giả khu B thưởng thức văn nghệ rất nhạy bén. Không thích là ồ, là suỵt, là thở dài ào ào, mà thích là vỗ tay là cười la thoải mái. Ở đây kịch vừa mới bắt đầu, động tác chưa “chuyển”, tại sao anh em lại hoan nghênh như vậy? Sau hỏi ra mới biết là chưa có ở đâu dám động đến cái đói thâm căn cố đế của miền Bắc như vậy. Cả nước đói “xanh xao” mà vẫn phải luôn miệng “ơn đảng ơn người”. Đến những cảnh sau, khi động đến sự thối nát của đương triều, sự bạo ngược của đoàn quân họ Tôn là anh em hình sự lại vỗ tay rôm rả. “Cái quân họ Tôn này là nó vừa trí trá vừa ngông cuồng” (vỗ tay). “Tại sao nhà Lê lại có một ông vua ươn hèn như vậy, cõng rắn cắn gà nhà (vỗ tay rất lâu).

Người miền Bắc sống dưới một chế độ chuyên chính lâu ngày, đã trở thành một vương quốc nói dối. Không ai dám công khai nói thực ý kiến của mình. Có nói là phải nói gần nói xa, nói cạnh nói khóe. Đói phải nói là no, khổ phải nói là sướng. Đang trong tình trạng ấm ức như thế, ơn đảng ơn người như thế mà bây giờ có người dám nói thẳng ra giữa chốn trù nhân quảng tọa “là từ ngày Hoàng thượng hồi loan đên giờ nhờ ơn Hoàng thượng mà cả nước đói xanh xao cả người ” thì dân hình sự nghe nó sướng quá, nó thỏa mãn quá. Nói đến quân họ Tôn thì họ không nghĩ đến Tôn Sĩ Nghị mà nghĩ đến Tôn Đức Thắng”. Ông vua nhà Lê ươn hèn thối nát họ không nghĩ đến vua Lê Chiêu Thống mà lại nghĩ đến ông “vua” Lê Duẩn đương thời.

Thực tình khi trình diễn chúng tôí không hề có hậu ý đó. Chỉ cốt tìm một kịch lịch sử để cho anh em có chỗ diễn mà thôi, những sự kiện trên hoàn toàn là sự trùng hợp tình cờ. Nhưng anh em hình sự lại nghĩ chúng tôi cố ý nên khi vở kịch kết thúc là anh em hình sự đứng dậy vỗ tay như pháo nổ, nồi niêu xoong chảo gõ loạn lên, hoan hô kịch liệt. Đội trưởng đội văn nghệ khu B, Quách H. chạy lại nói với Th. và tôi: “Các đàn anh chơi kịch đâu ra đấy”. Mấy chú hình sự “đồng nghiệp văn nghệ” thì chạy lại cõng Đinh Đề Lĩnh, La Sơn Phu Tử mà quay mòng mòng.

Điều làm trại phó Đặng U., cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L. và cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. khó chịu hơn hết là họ muốn qua văn nghệ khu B dạy cho chúng tôi một bài học về văn hóa thì bây giờ chính anh em hình sự sau buổi trình diễn lại càng gần gũi thân thiết với chúng tôi hơn.

Cái vui của đêm văn nghệ không kéo dài được bao lâu. Ngày mồng 2 Tết, còn đang ngày nghỉ, Th. và tôi cùng mấy anh em bên ca nhạc có lệnh đi họp với cán bộ giáo dục, đã nhận được một tin choáng váng “buổi diễn hôm mồng 4 Têt ngoài huyện Phù Yên được hủy bỏ. Đội văn nghệ nghiệp dư giải tán ngay sau kỳ nghỉ Têt”. Chúng tôi phải về làm kiểm điểm về “những sai phạm trong công tác văn nghệ”. Ngày mồng 4 Tết trước khi nộp kiểm điểm, Th. và tôi được thiếu úy Q. phụ tá giáo dục, gọi ra nói khẽ: “Trước sau như một, phải cam kết là diễn y như kịch bản, không thay đổi một chữ”. Không hiểu bạn tôi Th, làm kiểm điểm ra sao, riêng tôi cứ y thế thi hành.

Có lẽ thiếu úy Q., người đi sát chúng tôi khi tập dượt, phần nào thông cảm chúng tôi sau hơn một tháng trời sát cánh nên chút thiên lương còn lại đã khiến y chỉ cho chúng tôi cái cạm bẫy mà chúng tôi cần tránh. Nếu chúng tôi, trong khả năng thường thấy của đạo diễn, có sửa đổi kịch bản cho nó thêm phần sống động, là chúng tôi có thể bị ghép vào tôi “bôi xấu chế độ có hệ thống” một trọng tội thuộc hàng quan điểm. Thực ra chúng tôi chỉ linh động phần trang trí mà không hề đổi thay kịch bản một chữ nào. Đương sự, phó trại trưởng Đặng U. đã chính thức lên trại trưởng khi Tết ra, cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L., cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. khi đọc lại nguyên văn kịch bản của Trúc Đường chắc cũng nhận ra điều đó. Nhưng người CS vốn luôn luôn cảnh giác, cảnh giác nhiều quá thành đa nghi nên mới “có tật giật mình” như thế. 

Sau một tuần lễ kiểm điểm đi kiểm điểm lại, người chịu tội thay cho toàn thể ban văn nghệ khu A là bạn trẻ Đỗ H. bên phần nhạc. Thật ra khi sáng tác ra bản nhạc vui kiểu AVT, nhiều anh em xúm lại cùng làm, trong đó có tôi. Nhưng khi bị cán bộ giáo dục quy tội “bôi bác chế độ” trong câu “cái gì nhúc nhích là ta chén liền” Đỗ H. một mình nhận hết cho anh em. Trong 3 người ca hát AVT, Đỗ H. cũng là người hát duyên dáng nhất, nên bị cán bộ gà mái Nguyễn Hồng L. cho rằng “nhảy dậm giựt phát huy văn hóa đồi trụy”. Tôi thường ngày rất gần gũi Đỗ H., bởi vì H. ngoài việc tính tình khẳng khái, hát giỏi, thơ hay, anh còn là một người “biết sống”. Nửa đùa nửa thật nhiều lúc anh gọi tôi là “ông thầy”. Có miếng khoai củ sắn anh thường chiếu cố đền tôi.

Một hôm trời mưa không đi ra ngoài làm được anh cũng “bồi dưỡng” tôi miếng sắn. Tôi thấy rõ ràng sắn khẩu phần của trại đâu phải sắn cải thiện bên ngoài. Cho nên dù luôn luôn đói, tôi không nhận củ sắn H. cho. “Anh cứ ăn đi mà” – “Chú mày coi tao ra làm sao mà lại đi ăn sắn khẩu phần của chú mày cho được”. Đỗ H. đủng đỉnh “Nóỉ thật với anh, H. chỉ ăn môt nửa số sắn trại phát là đủ rồi. Tập cho cái bao tử nó quen đi. Chế độ này nó chỉ giỏi nắm cái bao tử của mình. Mình tập cho bao tử nó teo lại thì dù có bị nắm, nó cũng không ảnh hưởng bao nhiêu. Em thấy ngoài hiện trường anh cuốc hăng quá. Cuốc chút chút thôi chớ”. Nghe xong tôi mới tỉnh ra mà nói: “Thôi chú mày đừng có gọi tao là ông thầy nữa, chú mày mới đúng là ông thầy của tụi tao”.

Người anh em của tôi, Đỗ H. bị lên làm việc trên phòng an ninh chấp pháp liên miên. Đỗ H. có nhắn một người bạn Nguyễn T. La Sơn Phu Tử nói với tôi là bất cứ ở đâu, trong trại ngoài hiện trường đừng gặp Đỗ H., coi như không quen biết. Một buổi sớm mai, Đỗ H. được đi làm trở lại. Đỗ H. gầy rộc, mặt mũi vêu vao, thâm tím. Sau này tôi mới biết, đối với tù chính trị, cán bộ khi cần không có đánh công khai. Gọi lên “làm việc”, đánh kín trong phòng chấp pháp.
*
Từ ngày trại phó Đặng U. lên làm trại trưởng, lũ tù cải tạo chúng tôi gieo neo vất vả hơn nhiều. Khẩu phần ít đi, làm việc nhiều hơn. Làm quần quật ban ngày, đêm còn “ngồi đồng” bình bầu, tự phê, tự kiểm.. . Trời đã sang tháng 3, hoa gạođã bắt đầu nở đỏ, chim “bắt cô trói cột” mà cán bộ bắt chúng tôi gọi là chim “khó khăn khắc phục” đã ra rả ở đầu rừng. Từ khi trại phó Đặng U. lên, tôi được thăng chức làm “phân cục trưởng” chuyên môn đi gánh c… Mỗi buổi sáng, gánh từ trại ra đội rau 3 chuyến là xong. Chuyến cuốì cùng, tắm rửa xong ra về anh em chúng tôi bất ngờ gặp ông cụ Việt, nguyên trại trưởng đang ngồi trên chiếc xe đạp gần nhà kho của trại. “Thưa cụ, cụ từ trên huyện về thăm trại”. – “Vâng, các ông đi làm; tôi về lĩnh chút tem, phiếu”. Ngày ấy chế độ bao cấp còn thịnh hành, người ta sống bằng phiếu gạo, phiếu đường, phiếu sữa, phiếu bột ngọt, phiếu thuốc lá, thuốc lào, v.v… ông cụ Việt chắc chưa chuyển hộ khẩu về huyện Phù Yên nên hàng tháng vẫn phải lên trại lĩnh chút nhu yếu phẩm. Tôi nghĩ vậy.

Nhưng buổi chiều đi làm tôi vẫn gặp ông cụ ngồi trên chiếc xe đạp cũ bên cạnh cửa kho. Chưa ai phát nhu yếu phẩm cho ông cụ, mà cũng không ai mời ông cụ vào nghỉ chân qua lúc ban trưa. Tôi tự nghĩ tại sao cùng là cán bộ với nhau, người ta lại phũ phàng với ông già như vậy? Tôi chợt nhớ đến câu nói của người tù hình sự khi mới về đây “Đang phát động chiến dịch đánh tư sản mại bản nếu bố tôi có bị đi cải tạo tôi cũng phải quên bố tôi luôn, nếu tôi muốn có bát cơm mà ăn “. Sự nghỉ hưu bất ngờ và vội vã của ông cụ Việt có liên hệ gì đến việc ông cụ đối xử tử tế với tù nhân, đến việc ông gọi chúng tôi là “các ông”. Câu hỏi này cứ làm tôi băn khoăn thắc mắc mãi. Bất giác, một người tù khổ sai biệt xứ là tôi lại thấy cảm thương một người cai tù già “cùng một lứa bên trời lận đận “.

Bạn T. “La Sơn Phu Tử” cái thư của bạn làm tôi bồi hồi nao nức về chuyện văn nghệ trong tù 19 năm xưa. Bạn nói là có lúc nào chúng ta gặp lại nhau “chơi” lại cái màn kịch “Lửa Kinh Thành” không nhỉ? Khó lắm bạn ơi. Làm sao người ở lục địa này, người lục địa kia hội họp bên nhau cho được. Lại còn chuyện người còn kẻ mất. “Tướng nhà Thanh”, người bạn Lê Văn Hóa của chúng ta đã đi rồi. Anh mất ở trại Thanh Phong rừng sâu Hạ Lào. Anh cứ phù lên xẹp xuống như “thủy triều”. Hôm cáng anh lên tuyến trên rồi nghe tin anh mất ở đó, nằm trên cáng mà anh vẫn hát “ò e con ma đánh đu, thằng Tây nhảy dù, Zoro bắn súng”. Người đâu mà lạ. Cười ngoài đời, cười trong tù, cười luôn khi sắp chết.

Bạn nói trong thư “ước gì chúng ta…”. Bạn ơi nếu tôi có một điều ước, tôi ước mong cho ngày nào trời đất phong quang, chúng ta được trở về đất nước Việt Nam yêu dấu, muốn đi đâu thì đi. Tôi sẽ đi tới những trại tù năm cũ, thăm lại người xưa, thăm lại các bạn tù chúng ta còn nằm lại. Tôi sẽ tới trại Yên Hạ, tới quận Phù Yên hỏi xem ông cụ Việt trại trưởng năm xưa còn sống hay không? Nếu gặp được ông cụ tôi sẽ nầm lấy tay mà nói “Tôi là là cựu tù nhân Yên Hạ đây, cụ còn nhớ tôi không, thưa cụ?”


Phan Lạc Phúc. 

Vài dòng tiểu sử:

Sinh năm 1928,
Tốt nghiệp Khóa 2 Thủ Đức.
Năm 1965, là Chủ bút của tờ nhật báo Tiền Tuyến và mở mục Tạp Ghi dưới tên Ký Giả Lô Răng.
Sau biến cố tháng Tư, 1975, Trung Tá Phan Lạc Phúc đã qua các trại tập trung Long Giao, Suối Máu, ra Bắc ở Liên trại 2 Sơn La, Phù Yên, Thanh Phong, Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh), Hà Nam Ninh, sau cùng là Xuân Lộc Z30D.
Ra tù năm 1985, năm 1991, vợ chồng ông đến định cư tại Sydney, Úc theo diện đoàn tụ.
Ông cầm bút trở lại, và cũng với thể loại tạp ghi xuất hiện trên nhiều tờ báo khác tại Úc Châu như Chiêu Dương, Văn Nghệ, Việt Luận, Dân Việt và Ngày Nay (Mỹ), Quê Mẹ (Pháp), Thời Báo (Canada).
Ông mất năm 2016 vì đột quỵ tại Sydney (NSW) Australia