Friday, May 9, 2025

Người Quân Tử và Kẻ Tiểu Nhân - Huy Phương


Trong “Bên Thắng Cuộc,” tác giả Huy Đức ghi lại lời thân phụ ông, di cư vào Nam từ năm 1954: “Chưa có thời nào mà bắt người thua trận bị tù hàng chục vạn như thời cộng sản. Các tay này không biết lòng dân là thế nào sao?

Thêm vào đó, cái ngỡ ngàng khó chịu nhất là dân Miền Nam, thấy mình không phải là người “được giải phóng,” mà là “người thua trận”, bị khinh miệt, bị làm tình làm tội, bị đối xử không ra con người. 

Sau đây là nguyên văn lời thân phụ Trần Đĩnh, nói về sự tùy tiện đối xử của một “anh bộ đội” đối với một người dân bình thường, trong vùng mới được “giải phóng:”

-“Bố đi bộ về đến đầu phố thì bị một anh bộ đội cầm súng gác giữ lại hỏi đi đâu mà nhanh thế. Bố nói tôi già nên muốn mau về nhà nằm.

- Không được, đứng nghiêm năm phút!

Bố lại ngỡ như thuở bé đi học đứng nghiêm là quay mặt vào tường nên quay vào tường thì anh ấy lại vặn sao quay mặt đi? Trốn giáo dục à? Lại quay lại nhìn thiên hạ qua lại nhìn mình. Đứng đã ngán lại phải nghe loa ca ngợi chiến thắng, phân tích chiến thắng…”

Người lính của phe thắng trận có thể hành xử như thế với một người dân vô danh hay sao, còn đâu là chuyện thu phục nhân tâm? Suốt hơn 40 năm nay, rõ ràng bọn cộng phỉ miền Bắc đã chiếm được đất đai, xóm làng, thành phố, nhưng không hề và CHƯA BAO GIỜ chiếm được lòng người Miền Nam và SẼ KHÔNG BAO GIỜ chiếm được lòng người dân Miền Nam Việt Nam.

Ngay trong những ngày đầu trong trại tập trung mà bọn cộng phỉ bắc việt lừa gạt dư luận thế giới với cái tên mỹ miều là trại “học tập cải tạo,” những người thất trận nhưng có văn hóa đã cảm thấy bị đối xử thô bạo bởi một lũ mọi rợ, thất học, vô nhân tính.

Từ sĩ quan cho đến một vị tướng lãnh Miền Nam khi gặp bọn cai tù (tên gọi là cán bộ vệ binh hay quản giáo,) đều phải đứng nghiêm, chào kính, nếu cần nói, phải dùng tiếng “thưa cán bộ!”

Khi ra trại tù đi làm lao động khổ sai, hay lúc trở về, đoàn tù Miền Nam, khi qua cổng, có tên vệ binh con nít mặt búng ra sữa, đang ngồi trên chòi gác, đều phải dở nón mũ ra, có khi cao hứng, những tên lính gác mất dạy miền bắc này còn bắt tù bỏ cả kính ra, dù là kính cận thị.

Ngày mới đi trình diện để tập trung lên xe đi vào trại tù, vì ác cảm với giới trí thức, một người bạn tôi đã bị một tên phỉ quân bắc việt lột cặp kính cận thị của anh, vứt xuống đất và đạp nát. Uất hận tận cùng, nhưng trong thế “chim lồng cá chậu,” người sĩ quan miền Nam đành nuốt hận vào lòng.

Theo cuốn hồi ký của một tác giả cựu sĩ quan Miền Nam, tại trại Đá Bàn, Khánh Hòa, một tên vệ binh oắt con có sở thích bệnh hoạn là vặt râu một ông già tù binh. Người tù khốn khổ này chỉ biết khóc! 

Không biết ai đã dạy dỗ những tên “lính cụ Hồ” có thái độ mất dạy như vậy và vì sao cấp trên của bọn chúng lại nhắm mắt làm ngơ trước những thái độ mất nhân tính như thế? Phải chăng chính cấp trên của bọn “lính cụ Hồ” cũng chỉ là một lũ tiểu nhân thất học, thất nhân, và thất đức.

Chuyện trả thù cũng rất dễ hiểu, như nhà văn miền Bắc, Tạ Duy Anh, đã viết: “Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình... Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế!” (Đi Tìm Nhân Vật, tiểu thuyết, NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2002.)

Thì ra mình giết nó, hành hạ nó, vì nó hạnh phúc, giàu có, sung sướng hơn mình. Điều này có thể rất dễ hiểu khi bọn cộng phỉ miền bắc “đánh” tư sản Miền Nam, bỏ tù người miền Nam, ăn cướp hết nhà cửa, tài sản, đổi tiền của người Miền Nam không tiếc tay. Tất cả những việc này của bọn chúng đều nằm trong một kế hoạch trả thù hèn hạ có quy mô và có hệ thống.

Sự thật đã ghi lại như một toàn Biệt Kích Dù 81 đã buông súng đầu hàng ngày 30/4/1975 nhưng vẫn bị bọn phỉ quân bắc việt tiểu nhân bắn chết và chôn họ trong một cái giếng sâu hiện nay chưa tìm ra dấu vết. Tại Hậu Nghĩa, nhiều sĩ quan chỉ huy của QLVNCH đã bị bọn tiểu nhân cộng phỉ xử bắn, nhân viên Cảnh Sát Quốc Gia bị bọn chúng nấu nước sôi dội lên đầu.

Trong “Hồi Ký Dang Dở,” Ông Dương Hiếu Nghĩa cho biết: “Ngay tại tỉnh Vĩnh Long, các ông cai tổng Nguyễn Văn Dần, Nguyễn Văn Xôm, Nguyễn Văn Thêm đều bị bọn cộng phỉ kết án là “có tội với nhân dân” mà không thông qua một tòa án nào, và bị bọn chúng hành quyết man rợ ngay sau khi bị bắt, bằng vũ khí thô sơ như búa, mã tấu …

Không nói lời gian dối, chúng tôi xin ghi lại đây danh sách của những viên chức tình báo cao cấp của VNCH, sau tháng 4-1975 bị đưa ra Bắc và đã bị bọn phỉ quyền Hà Nội hèn hạ bức tử. 

Sau khi được đưa đến trại tù Hoả Lò làm việc, các viên chức tình báo cao cấp của VNCH được bọn chúng “bồi dưỡng” một tô phở, nhưng ngay sau khi về đến trại, các vị đã ói máu ra mà chết trên tay anh em bạn tù:

- Chuẩn Tướng Bùi Văn Nhu, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia (nguyên Tư Lệnh Phó) người thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình.

- Đốc Sự Nguyễn Phát Lộc, Đặc Uỷ Trưởng Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo (thay TT. Nguyễn Khắc Bình)

- Ông Nguyễn Kim Thúy, Giám Đốc Nha Nghiên Cứu Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo.

- Đại Tá Dương Quang Tiếp,Phụ Tá An Ninh Tình Báo Phái Đoàn Liên Hợp Quân Sự 2 Bên.

- Đại Tá Nguyễn Văn Học, Đặc Trách Tình Báo và Phản Tình Báo Nha An Ninh Quân Đội VNCH.

Riêng trường hợp Đại Tá Lê Khắc Duyệt, Sĩ Quan Tình Báo Cao Cấp phục vụ tại Tổng Nha Cảnh Sát, được bà con bên kia mách nước là phải lo lót để khỏi ra Bắc, may ra còn có xác mà đem về chôn. Hai năm sau, ông qua đời tại tại Sài Gòn, cũng bị ngón đòn “trả thù” như các chiến hữu của ông bị đưa ra Bắc!

Tại các Bộ Chỉ Huy CSQG tỉnh, các Trưởng F. (tức Phụ Tá Cảnh Sát Đặc Biệt, đặc trách Tình Báo), phần lớn là cấp Uý, đều bị tập trung 17 năm, nếu không có sự can thiệp của Hoa Kỳ qua chương trình định cư cho những người bị tù “cải tạo,” sẽ chết mòn trong các trại tù lao động khổ sai khắc nghiệt ngoài miền Bắc!

Đó là chuyện trả thù người sống, với người chết, bọn tiểu nhân phỉ quyền Hà Nội cũng chẳng buông tha.

Ngay khi bọn cộng phỉ bắc việt vào ăn cướp Sài Gòn, ngày 3 tháng 5, Nghĩa Trang Quân Ðội Hạnh Thông Tây, Gò Vấp đã bị bọn cộng phỉ bắc việt dùng xe ủi đất san bằng hết ngay chiều ngày hôm đó. 

Tại Vĩnh Long, riêng ngôi mộ của Trung Úy Nhảy Dù Nguyễn Văn Ngọc, dù đã chết từ hơn một năm trước, vẫn bị bọn tiểu nhân phỉ quyền Hà Nội đào lên trả thù hèn hạ, đưa cả quan tài ra giữa chợ Ngã Tư Long Hồ để cho phá nát bằng cốt mìn (Hồi ký Dang Dở.)

Sau khi xâm lăng và cưỡng chiếm bất hợp pháp Miền Nam Việt Nam, phỉ quyền Hà Nội tiểu nhân hèn hạ đã phá hủy bức tượng “Tiếc Thương” mang đi, xem nghĩa trang này như một nhà tù, bị canh gác, rào kẽm gai, và không ai được thăm viếng, di dời phần mộ ra khỏi đây. Trong gần 30 năm, nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa thành một nơi hoang phế, quạnh hiu.

Chúng ta dược biết rằng, năm 2015, Ukraine đã tháo dỡ gần 140 tượng đài của Liên Xô và chính phủ Ba Lan có kế hoạch hạ bỏ khoảng 500 tượng đài Liên Xô, kẻ thù ngày trước, nhưng họ đã không hề đụng đến những tượng đài ở các nghĩa trang, nơi an nghỉ cuối cùng của những người lính Sô Viết.

Vẫn theo nhà báo Huy Đức, thời Đỗ Mười vào Nam đánh tư sản mại bản, trong một cuộc họp mật, đích thị tên Đỗ Mười đã hung hăng hò hét: “... Chúng ta phải róc thịt chúng ra!”

Theo tài liệu, kế hoạch trả thù X.1 do Đỗ Mười đề xuất theo kiểu Khmer Đỏ, thì sĩ quan “nguỵ” từ Trung Úy trở lên, công chức miền Nam từ cấp Chánh Sự Vụ phải bị tử hình.

Người ta đã có lần so sánh tháng Tư lịch sử của nước Mỹ (4-1865) và tháng Tư định mệnh của Việt Nam (4-1975.) Binh sĩ miền Bắc kính cẩn chào khi tướng Robert E. Lee cỡi ngựa đến nơi ký hiệp ước đầu hàng. Không có tiếng reo hò, nổ súng vui mừng của người thắng trận. Binh sĩ miền Nam không bị coi là quân đội phản quốc. Sĩ quan miền Nam không ai bị đi tù. Bên thắng trận không đụng tới hoặc làm phiền hà đến họ. Kỵ binh thất trận được quyền mang ngựa và lừa về nhà để giúp gia đình cày cấy làm ăn.


Nhưng đó là Hiệp Ước của Những Người Quân Tử (Gentleman's Agreement) của hơn 100 năm trước, nó không hề có trên đời này với những kẻ tiểu nhân phỉ quyền Hà Nội hôm nay./.

 

Huy Phương

Bước Đường Viễn Xứ - Nguyễn Duy Phước

Thursday, May 8, 2025

Gia Nã Đại - Thành phố VANCOUVER Chuyện Quái Lạ Bây Giờ Mới Biết - The Global News And Bloomberg


Có thể nói có lẽ chuyện này cộng đồng người Việt và kể cả người dân sống ở Gia Nã Đại nhưng khác thành phố sẽ không biết nếu không quan tâm đến chính trị và kinh tế trong và ngoài nước.

Chúng tôi người dân Việt ở Gia Nã Đại, đang vô cùng lo sợ vì dù sao Gia Nã Đại cũng là quê hương thứ hai của chúng tôi, Một quốc gia đã mở rộng vòng tay đón nhận người Việt chúng ta.

CANADA THIẾU...TIỀN!!

Trong cuộc họp quốc hội hôm 21 tháng 11 năm 2018 Tổng Trưởng Tài Chánh Bill Morneau đã cập nhật hoá ngân sách toàn liên bang là ngân quỹ Gia Nã Đại vẫn còn tiếp tục thâm thủng, và con số thâm thủng đến sang năm sẽ còn tăng thêm 2 tỷ dollar nâng con số thâm thủng lên đến $19, 6 tỷ dollars. Để cạnh tranh với Hoa Kỳ, chính phủ Gia Nã Đại đã làm đủ mọi biện pháp để có thể tăng thêm các nguồn tài chánh , tiền của và sự giàu có ….. và làm sút giảm các sự thâm thủng, thiếu hụt ngân sách quốc gia … Mới đây hãng GM của Mỹ lại tuyên bố đóng cửa ở Oshawa Gia Nã Đại khiến cho 2500 công nhân viên và 300 nhân viên văn phòng mất việc làm !! …

Kính mời quý vị đọc cho biết vì bản thân tôi cũng chỉ mới đọc và biết ngày hôm qua tất cả tư liệu này được tui trích lại từ báo The global News and Bloomberg do Ông Đổ Quân dịch.

CANADA KIẾM...TIỀN!!

Trong những cuộc bình chọn của các tổ chức quốc tế thì thành phố Vancouver của Gia Nã Đại là nơi hạnh phúc và đáng sống nhất Thế Giới. Nhưng có những điều mà The Economist Intelligence Unit không nhìn thấy hay là cố tình bỏ qua ????

ĐÓ LÀ TIỀN, TIỀN ÀO ẠT TỪ TRUNG CỘNG ĐỔ TRÀN QUA CANADA gần 20 năm nay

Khối lượng tiền khổng lồ của Tàu Cộng đó đã làm thay đổi hoàn toàn thành phố Vancouver Gia Nã Đại.

Những cửa hàng sang trọng nhất thế giới mọc lên chẳng hạn như con đường Alberni St trước đây tiêu điều nhếch nhác, nay tiền Tàu Cộng đổ vào đã làm biến đổi 100%, mặt tiền của nhiều cửa hàng hoàn toàn bằng thạch đen Prada , phòng trưng bày Rolex hay xe hơi ngoại sang trọng và lớn nhất Thế giới , và tòa tháp 62 tầng và nhiều khách sạn loại tiêu chuẩn Quốc Tế từ 5 sao trở lên Shanglia …

Nên nhớ tất cả nhân viên hay giám đốc từ trên xuống đều là nhân viên người Tàu Cộng nói tiếng Tàu loại quan thoại.

Trên thế giới nói người Tàu sống đông nhất là VN, thứ hai là Gia Nã Đại. Và kể từ đó bà con Canada được biết và nhìn thấy rất nhiều khoảng trên 2000 xe sang có giá thấp nhất là 300 ngàn dollars (đều có chủ nhân là Tàu chệt nha quý vị )

Còn giới sinh viên người Tàu toàn đi xe xịn, xế sang nên dân Gia Nã Đại đã đặt biệt danh cho trường Đaị Học BC là University of beautiful Cars vì bãi đậu xe toàn là xe hơi xịn của con cháu Mao Trạch Dông, mà lạ kỳ lũ sinh viên này chỉ đi học mà lại có tiền mua toàn những căn Condo hay nhà loại đắt tiền đây là lý do tại sao nhà cửa ở Vancouver và Toronto đắt khủng khiếp, ai có người quen làm địa ốc sẽ biết và sẽ rùng mình không tin là có thật , vi bao lâu nay ai cũng chỉ nhìn thấy nhà cửa ở California , Mỹ là đắt nhất , nhưng nếu đem so với Vancouver hay Toronto thì nhà ở California còn rẽ chán !! …

Chính phủ Gia Nã Đại vội vàng ban hành thuế cho những ai không có quốc tịch Gia Nã Đại mà mua bất động sản ở Gia Nã Đại, nên lũ Tàu Cộng 1 số chạy đến Toronto mua nhà nên mới đưa đến tình trạng nhà cửa nóng như lửa cháy là vậy đó .

VẬY TIỀN ĐÓ Ở ĐÂU RA ??

Tiền chính xác là từ Trung Cộng, chúng rửa tiền tại Gia Nã Đại, đủ loại tiền, tiền đen, tiền dơ bẩn , tiền dính máu người ….. Một chiếc xe 2 cửa màu đen , tấp vào trước cửa sòng bài Starlight Casino ở thành phố Vancouver Canada , tên tài xế xuống xe và lôi từ cốp xe ra 2 túi plastic màu đen, và đi vào hành lang bên cạnh bằng kính với các bảng hiệu viết bằng chữ Tàu quan thoại và tiếng Anh.

Đến quầy thâu ngân tên Tàu Chệt mở túi ra toàn giấy bạc Canada được cột bằng dây thun lỏng lẻo ,máy đếm tiền của thu ngân phải chạy đến hơn 10 phút mới xong đồng tiền đó , gần nửa triệu Canada ,rồi đổi thành những cái chip , sau đó có thể đổi lại thành tiền mặt dù có chơi đỏ đen ở sòng bài hay không ….

.Số tiền đó vẫn có thể tiêu xài bình thường hợp lệ ở tại bất cứ nơi nào trên đất nước Gia Nã Đại. Vậy mà bao nhiêu năm nay chính phủ Gia Nã Đại không thắc mắc hay điều tra gì về nguồn tiền lạ lùng đó cả !!

Tuy rằng nạn đổi tiền kiểu này đã được thu hình trong video của Bộ tư pháp tỉnh bang British Columbia ( BC ) … chỉ mới đưa ra hồi tháng 6 năm 2018 ….( !!!!) với bản phúc trình được đặt tên là : ” Detting Dirty money out of BC Casinos” * Vancouver Canada hiện là nơi rửa tiền , chuyển tiền bất chính lớn nhất Thế Giới đem từ Trung Cộng chuyển sang , đưa sang Tây Phương, chính ngành tình báo của Australia ( Úc Châu ) đã mỉa mai bằng 1 từ ngữ là : “The Vancouver Model “

Điều tra của mạng tài chánh Bloomberg cho rằng đây là lượng tiền lớn nhất thế giới của Tàu Cộng ào ạt đổ vào tủ sắt an toàn tính từ năm 2014 đến nay đã chuyển đến khoảng 800 tỷ Mỹ Kim.

* Bộ Trường Tư Pháp BC Canada nói rằng Vancouver là 1 trung tâm rửa tiền xuyên Quốc Gia lớn nhất Thế Giới . Thực chất một phần nguồn tiền do phát xuất từ bọn buôn bán chất gây nghiện chết người là chất ma túy Fentanyl của băng đảng tội ác Trung Cộng.và cũng đã làm số người chết tăng nhanh vì dùng quá liều , chỉ riêng năm 2017 tại Vancouver đã có đến 1800 người bị chết vì ma túy !! … * Đồng tiền từ các nhà máy hoá chất ở tỉnh Quảng Đông của Tàu Cộng vận chuyển ma túy – trong đó có fentanyl – chuyển đến Vancouver, rửa tiền bán ma túy tại các sòng bài ở BC Vancouver và qua các bất động sản giá cao , và sau đó chuyển các đồng tiền đã rửa sạch qua các nhà máy Trung Cộng, để lập lại chu kỳ mậu dịch chết người này. (  Hoàng Lan Chi viết: ô Thái Quang Đáng có biết điều này không? Vẹt Châu Âu như “Thằng ngu ở Châu Âu” và Katum có biết không?

Hiện nay chính phủ Úc cũng đang lo lắng Sydney sẽ giống như ở Vancouver Buồn thay chính quyền Gia Nã Đại từ năm 2018 lại cho hợp thức hóa việc trồng và sản xuất , mua bán cần sa toàn quốc Canada ,,từ khi mà lũ Tàu Cộng dùng Gia Nã Đại làm nơi rửa tiền và cất giấu tiền của nó cũng như tiêu thụ ma túy , hàng giả , hàng dổm từ các phân xưởng , các chi nhánh của Tàu Cộng !! ….

GANH TỊ VỚI LÁNG GIỀNG!!

Ở Mỹ sướng thật, bao đời TT đều bị Tàu Cộng xây tượng Khổng Tử , truyền văn hóa Tàu Lao bao gồm cả chính trị về XHCN – CNCS , cũng như ăn cắp chất xám , ăn cắp phát minh , quấy động kinh tế Mỹ ..v..v… may thay TT Trump đã ra tay quét sạch , quét bạo …dù là đã trễ, nhưng trễ còn hơn không !! …. Nghĩ lại bà con người Việt ti nạn CS và người dân Mỹ đã có 1 vị T T tài ba đảm lược mạnh mẽ cứng rắn dám nói dám làm như TT Trump mà không biết quý trọng, kính mến !!!! Thật là đáng tiếc thay. Nhưng ở Gia Nã Đại thì Tàu Cộng vẫn bành trướng mạnh mẽ về mọi thứ.. lại thêm nạn cần sa, rồi lại bao nhiêu tệ nạn xã hội xảy ra liên miên, cộng với tai nạn xe vì có chất ma túy trong cơ thể nên không thể kiểm soát, kềm chế, điều khiển , control được các cảm xúc và hành động .. v..v … !!!!


Tác giả Jenny & Đỗ Quân

NguồnThe global News and Bloomberg

Vơ Vét ...


 

Lượm trên mạng 

Nắng...Tình - Sỏi Ngọc

 

Từ lúc sanh ra, hai chị em tôi rất ít khi gặp ba, chỉ biết có mẹ. Sau này chúng tôi mới nghe mẹ kể, ba là người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), ít về nhà. Khi chúng tôi hơi lớn lên một chút thì ông đã tử trận oai hùng vào dịp Tết Mậu Thân 1968, năm tôi mới được bốn tuổi và chị sáu tuổi.

Mẹ là một người phụ nữ hiền lành, mảnh mai, đẹp và quyến rũ, ai gặp mẹ, nói chuyện với mẹ là khó có thể quay lưng, nên cuộc đời mẹ thật truân chuyên, trong thơ Nguyễn Du có câu:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (Kiều-Nguyễn Du)

Sau hai năm để tang ba, mẹ đi thêm một bước nữa với ông giám đốc gốc Pháp, làm cùng công ty rượu ở Saigon, mẹ để hai chị em tôi vào trường học nội trú với các bà sơ Couvent Des Oiseaux, lâu lâu mẹ mới đón về nhà chơi. Mẹ góa vào lúc còn rất trẻ nên nhiều người theo tán tỉnh mẹ, mẹ chọn ông giám đốc Hugues dù ông ấy hơn tuổi mẹ rất nhiều và vì thấy ông giàu có thể bảo bọc cuộc sống của ba mẹ con, với lại sau này mục đích của mẹ muốn đưa chị em tôi sang Pháp sống, chứ tình yêu trong mẹ đã chôn theo cái chết vì tổ quốc của ba ở Kontum rồi.

Chị em tôi quấn quít bên nhau nhiều hơn là gần mẹ vì bà suốt ngày bận rộn với công việc, kiếm tiền trang trải cuộc sống và lo cho chúng tôi học chương trình Pháp ở nội trú. Hai chị em tôi ít dùng tiếng Việt, vì môi trường sinh hoạt chỉ dùng toàn tiếng Pháp. Điều này làm tôi xa cách mẹ hơn.

Mỗi lần được mẹ cho về nhà chơi, chị tôi như người mẹ nhỏ bên cạnh tôi, lo cho tôi ăn uống, tắm rửa, chơi đồ hàng với tôi trong lúc mẹ làm cơm hoặc thỉnh thoảng nói chuyện qua loa với các con, tôi cảm nhận một rãnh ngăn cách vô hình nào đó giữa hai mẹ con; còn ba dượng thì khôn khéo hơn để lấy lòng chúng tôi, cho thật nhiều đồ chơi, dắt cả nhà đi ăn, xem phim, nhưng trong tim chúng tôi vẫn không coi ông là ba của mình!

Mốc lịch sử không thể nào quên trên quê hương bé nhỏ, tội nghiệp, khi miền Nam bị đổi chủ. Lúc ấy ba dượng công tác ở Pháp hai tháng, nên bị kẹt lại bên đó không thể về với mấy mẹ con; tất cả chúng tôi được lệnh theo chân một trung úy người Mỹ trong công ty của mẹ do ba dượng gởi gấm, lên máy bay ngay buổi chiều ngày 27 tháng Tư 1975. Tất cả nhân viên trong công ty làm rượu có chi nhánh ở Saigon, ai muốn đi thì theo lên phi cơ đậu sẵn ở phi trường Tân Sơn Nhất sang Mỹ, họ chỉ có bốn tiếng đồng hồ để quyết định đi hay ở mà thôi.

Tôi không bao giờ quên đó là một buổi chiều ảm đạm với ánh mặt trời rực sáng đến chói chan gay gắt, làm cay mắt mọi người, không thể nào mở to mắt để nhìn những bực cầu thang rời rạc cứng nhắc khó leo mà họ đặt ngay giữa sân bay cho những người di cư tự chen lấn trèo lên; tôi nhớ mình bị rớt một chiếc dép giữa những bực cầu thang ấy, định cúi xuống nhặt nhưng đoàn người cứ ùn ùn đôn chúng tôi lên, tôi chỉ còn một chiếc dép bám vào chân và một chân đất khi vào đến bên trong!

Chúng tôi chỉ có chỗ ngồi xuống sàn mà không có ghế, mẹ tôi với đầu tóc rối bời, khuôn mặt lọ lem đầy nước mắt, tay mẹ vẫn ôm thật chặt giỏ giấy tờ; chị tôi quần áo xốc xếch vì bị xô đẩy, bàn tay vẫn nắm chặt lấy bàn tay tôi nhớp đầy mồ hôi và đất cát, không ai nói với ai câu nào, lo lắng, chen chúc ngồi sát vào nhau.

Ngày ấy tôi chỉ là một con bé 11 tuổi, đã hiểu được ngày ra đi sẽ là chia ly mãi mãi không bao giờ quay lại nữa vì trong thâm tâm tôi thấy đi như vậy là khó khăn lắm, khổ sở chen lấn để có một chỗ tốt trong máy bay, nếu quay trở lại vì bất kỳ lý do nào thì thật hoài công, phí sức! Nước mắt xối xả chảy như suối, tôi nhìn ra cửa sổ đoàn người vẫn bám theo chiếc cầu thang bên ngoài như một tổ ong vò vẽ bu vào hũ mật mà không một ai có thể lọt vào được, cánh cửa đã đóng lại vì quá tải.

Như một định mệnh, chiếc máy bay ấy đã đưa ba mẹ con tôi đến đảo Guam để sau đó vào Mỹ tại thành phố Garden Grove, tiểu bang California- USA, nơi đây cộng đồng người Việt rất lớn.

Mẹ liên lạc được với ba dượng, ông qua Mỹ, giúp đỡ mẹ con tôi rất nhiều tiền bạc trong lúc đầu nơi xứ người, chúng tôi không bao giờ quên ơn này! Nhưng ông và mẹ vẫn không về với nhau một nhà mà vài ba tháng ở Mỹ, ông lại quay về Pháp. Mẹ mở tiệm nail, chúng tôi vừa đi học ban ngày, chiều về giúp mẹ làm business. Lúc ấy chỉ có ít tiệm nails trên đường Bolsa nên tiệm chúng tôi lúc nào cũng rất đông, khách xếp hàng đứng chờ dài thườn thượt, đủ mọi sắc dân, ba mẹ con tôi làm đến tối mịt 10 giờ đêm mới về đến nhà, kể cả thứ bẩy chủ nhật. Khi nhắm mắt lại buổi tối, tôi chỉ thấy toàn những bàn tay, bàn chân đủ màu sắc của khách đưa vào mặt!

Khoảng bốn năm sau, ba dượng bị bệnh ung thư phổi, ông mất đi để lại gia tài kha khá cho mẹ. Mẹ không muốn cực nhọc nữa nên đã giao tiệm nail lại cho chị hai tôi, còn bà thì chỉ nghỉ ngơi, giúp cộng đồng và những người mới đến định cư.

Chị Hai sau khi học xong đại học ngành quản trị kinh doanh BBA, chị tiếp tiệm nail của mẹ, mở rộng to hơn và mướn thêm người làm; chị thật mát tay và có đầu óc kinh doanh, từ sáng đến tối, khách nườm nượp ra vào. Tôi ra tiệm giúp chị trong những ngày nghỉ, nơi đây tôi gặp tình yêu đầu đời, người con trai mang hai dòng máu Mỹ- Việt lớn hơn tôi 14 tuổi.

Ngày thứ Bảy, Jimmy thay thế chị tôi đến mở tiệm đón khách. Tôi xem chàng như người trong nhà nên rất tự nhiên; giờ cơm trưa chàng mua sẵn đồ ăn hâm nóng cho tôi, vừa ăn vừa nói chuyện khi bên ngoài mọi người vẫn tấp nập tiếp khách làm móng.

Chàng điềm nhiên khuyên tôi :

- Em không được bỏ bữa đâu, có bận cách mấy cũng phải ăn vì bữa trưa rất quan trọng cho cơ thể.

- Khách đông quá nên em sợ mình vào ăn, họ phải chờ thì thấy kỳ kỳ sao sao nên phải nhịn đến chiều về ăn luôn.

-Lúc nào tiệm cũng đông hết, chả lẽ em cứ nhịn bữa trưa hoài từ năm này đến năm khác sao? Sẽ có lúc bị thiếu máu cho xem, em có bao giờ thấy chóng mặt chưa?

Tôi lảng sang chuyện khác:

- Anh học ngành gì mà lại vào đây …mở tiệm nail với chị hai của em vậy?

- Thực ra anh đã có bằng kỹ sư cơ khí nhưng vì chưa tìm ra việc làm đúng ý mình, trong lúc đó lại thấy tiệm nail của chị em đăng báo tìm manager nên anh muốn thử vận mệnh; anh ở gần đây thôi, lái xe có 10 phút, với lại anh rất thích làm đẹp cho phụ nữ…

- Tức là sao?... muốn làm đẹp cho phụ nữ?

- Anh rất thích may những chiếc áo đầm, dạ hội, thích làm móng tay có gắn kim cương (giả) cho phụ nữ, hay chải tóc…

- Wow anh giỏi quá, có tay nghề tự nhiên như vậy hay anh đã học từ hồi xưa?

- Cái gì mình thích thì mình phải tìm tòi thôi. Từ lúc nhỏ anh đã đi học về cắt may, nghĩ sau này sẽ mở tiệm may âu phục cho nam nữ, nhưng không hiểu sao, đường đời cứ dẫn dắt anh không mở tiệm mà lại đi học ra kỹ sư cơ khí; còn chải tóc kiểu này kiểu kia thì anh để ý và học hỏi thêm ở những tiệm cắt chải tóc, anh làm cũng không tệ.

- Vậy anh đã làm cho cô nào chưa?

- Có chứ, anh làm trước hết cho mẹ, em gái và những người bạn nữ, họ rất thích… Bữa nào anh sẽ làm cho em nhé, nếu em tin tài nghệ anh.

Tôi mở mắt lớn, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, không ngờ người con trai ngồi trước mặt tôi với mái tóc thật nghệ sĩ màu nâu hơi quăn quăn dài ngang cổ, đôi mắt nâu trong bóng tối, nhưng xanh màu lá cây khi ra nắng, chiếc mũi không cao lắm của người Việt, dáng người tầm thước, ăn nói có duyên này lại là người tài hoa thế. Mọi ngày chàng đến tiệm chỉ hay nói giỡn chọc phá tôi, có bao giờ nói về bản thân mình đâu, nay nghe chàng tâm sự, đã làm trái tim của đứa con gái chưa một lần có mối tình nào, một chút xao xuyến.

Bỗng chàng để hai bàn tay lên vai tôi:

- Em cứ ngồi yên trong này ăn uống từ từ đi, phải ăn hết đấy nhé, anh ra ngoài xem khách ra sao!

Nhìn theo dáng chàng ra ngoài, trái tim tôi bồi hồi với những tình cảm lẫn lộn. Từ ngày chị hai mở tiệm, tôi đi làm về tối, chàng cho tôi quá giang mặc dù nhà chàng ở gần tiệm hơn, buổi trưa đều mua cơm đến cho tôi ăn, nhưng tôi cứ hay bỏ bữa vì khách đông, những lần tôi không đi làm được vì bù đầu học cho những kỳ thi cuối khóa, chàng đều phone hỏi thăm tôi, và cũng nói dùm với chị Hai. Vậy… không biết chàng có tình cảm gì với tôi không, nhưng thật sự khi biết về chàng, tôi phục chàng quá, hình ảnh của Jimmy mãi cứ ẩn hiện trong trái tim tôi.

Không quen ăn trưa, tôi lại bỏ ra ngoài, thấy chàng bận rộn tính tiền với những khách hàng, tôi lảng ra tiếp khách mới làm móng nước. Hết người này đến người khác vô, tôi không có chút thì giờ cho mình, chỉ biết cố làm sao cho cái hàng dài ngoằn ngắn lại một chút.

Trời về chiều, ánh nắng đã tắt, tiệm phải mở đèn thật sáng mà tôi vẫn thấy không rõ, tôi cảm thấy cả người nôn nao, bao tử réo gọi. Cuối tuần nên khách hơi đông hơn mọi ngày trong tuần, thầm nghĩ khoảng nửa tiếng nữa là xong, đóng cửa tiệm thì tha hồ ăn uống, xong người khách này tôi sẽ nghỉ tay; nào ngờ cả căn phòng như quay vòng tròn trước mặt, mắt hoa và tối đen, bất thình lình tôi gục xuống trong chậu nước dưới chân của người khách. Tôi nghe tiếng mọi người la hét xung quanh, có người bồng tôi lên, gọi tên tôi và chợt yên ắng.

Khi mở mắt ra, chỉ có tiếng nhạc Jazz nhẹ nhàng, tôi nằm trên giường phía trong của tiệm nail, Jimmy ngồi dưới chân giường, chạy đến bên tôi, mừng rỡ nắm lấy tay tôi:

- Em…em đã tỉnh lại rồi… May quá! …Anh định sẽ gọi chị Hai của em đến nếu em không tỉnh lại trong vòng 15 phút nữa, em đã ngất đi nửa tiếng rồi đó! Anh biết em không bệnh gì cả mà chỉ là đói và mệt thôi! Cả ngày không ăn, đêm thức khuya học bài thì sức nào chịu cho nổi, anh hiểu nên đã không cho gia đình em hay… Mà cũng lo lắm!

- Em…cám ơn anh đã không làm lớn chuyện, chị Hai biết được sẽ không cho em đi làm nữa, làm sao em có tiền đóng học và lo cho cuộc sống… Em không muốn mọi người coi em là gánh nặng, cũng không muốn ngửa tay xin tiền mẹ hay chị Hai, em muốn tự mình làm, lỗi tại em không ăn uống đàng hoàng, lần sau em sẽ cẩn thận hơn.

- Chiều nay, anh mời em đi ăn nhe, ăn xong mình đi dạo một chút để em bớt mệt rồi mới về nhà học bài sau, em phải lo sức khỏe chứ, em có bệnh gì làm sao đi học tiếp?

Tôi cảm động vì những lời lẽ chân tình của chàng nên đã nhận lời đi ăn tối. Chàng thật galant kéo ghế cho tôi ngồi ở một chiếc bàn khuất sau hàng cây và hồ cá trong một tiệm ăn Nhật, cẩn thận gắp những miếng thịt bò mềm mại, miếng cá tươi, dặn dò một cách dí dỏm:

- Em ăn nhai cho kỹ rồi hãy nuốt nhe, cẩn thận cho cái bao tử đang trống rỗng của em đó! Em ăn một bát soup miso trước cho có nước dễ nuốt nè…

Chúng tôi ăn uống nói chuyện thật vui. Qua câu chuyện, tôi mới biết chàng có người cha gốc Mỹ lấy người mẹ Việt khi cha chàng qua Việt Nam từ những năm 1950 dưới thời Ngô Đình Diệm, người Mỹ gởi những cố vấn quân sự qua Việt Nam, trong đó có cha chàng. Chàng được sanh ra ở Nha Trang-Việt Nam, đến năm 15 tuổi thì cả gia đình trở về Mỹ. Chàng nói viết được tiếng Việt giỏi vì được mẹ dậy dỗ từ khi mới lọt lòng.

Đẩy bát đậu hũ nước đường nóng hổi đến trước mặt tôi, chàng nài nỉ:

- Ăn bát tráng miệng này sẽ tẩm bổ cho em thêm, tối về sẽ ngủ ngon lắm!

- Làm như em là cái bịch không đáy hay sao mà bắt em nhét đủ thứ vào hết, từ nẫy giờ ăn nhiều lắm luôn rồi đó. Em no quá rồi!

-Vậy để anh nói họ bỏ vào cái hộp để ngày mai em ăn nhé, em thích ăn đậu hũ nước đường mà!

- Ủa, sao anh biết hay vậy?

- Biết mới hay chứ! Con gái thích ăn món này lắm!

- Anh làm thầy bói giỏi ghê ta!

Ăn xong chúng tôi đi dạo như đã tính trước. Tôi không ngờ chàng rất tâm lý và tếu mà thường ngày chúng tôi chưa hiểu hết về nhau, chàng làm tôi cười đến chảy nước mắt; đến một đoạn đường hơi vắng và có những vũng nước lớn vì trận mưa tối hôm qua, chàng nhảy qua trước và nói với tôi:

- Nhảy qua đi, anh sẽ đón em ở bên này!

- Vũng nước to quá, em sợ không nhảy qua được đâu.

- Được mà, ráng lên, đã ăn no rồi …em có dư sức đó, tự tin lên!

Tôi ráng sức bình sinh, nhảy lên với bước chân thật dài để đừng bị té vào đống sình bùn. Nhảy quá đà, đến nỗi đâm sầm vào người chàng, tôi cảm thấy một vòng tay ôm gọn gàng thật chặt; không gian thật yên tĩnh, buổi chiều lắng đọng, tôi chỉ nghe tiếng chim hót từ xa vọng lại, tiếng thở dồn dập của tôi, và tiếng tim đập rộn ràng của ai đó. Tôi mắc cỡ khuôn mặt hồng đỏ không dám ngước lên, chàng nhẹ nhàng vén những sợi tóc lòa xòa trên mặt tôi, cảm thấy hương thơm của hơi thở chàng tỏa lên khuôn mặt mình, đất trời như hòa làm một, cả hai trái tim chúng tôi cùng đập một nhịp điệu hạnh phúc.

Chàng trở thành người yêu của tôi qua buổi chiều hôm ấy.

Mỗi ngày đi học, chàng đón tôi khi ra khỏi cổng trường, chúng tôi có rất nhiều thứ nói với nhau như hai người bạn thân lâu ngày gặp lại, chúng tôi rất hợp nhau, cùng thích một món ăn, thức uống, ngay cả đi bộ, đạp xe hay chơi cờ với nhau.

*

Ngày tôi ra trường, mẹ và chị không đến mừng tôi được vì bận với cửa tiệm nail, chỉ mình chàng đến với bó hoa thật to trên tay và nụ hôn nồng nàn chân thành. Tôi không bao giờ quên được cả đời này, ngày hôm ấy chàng đã nghỉ để sửa soạn mua hoa, bong bóng và làm tóc cho tôi đi lãnh bằng. Tôi chưa bao giờ hạnh phúc đến thế, chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời này thật ngọt ngào bên chàng.

Buổi chiều mẹ và chị đã hẹn làm tiệc đãi ngày đứa con gái út ra trường. Tôi sẽ giới thiệu người yêu với gia đình, chàng sẽ chính thức thành người con rể tương lai của mẹ, tôi náo nức và chủ quan nghĩ đến mẹ sẽ rất hài lòng thấy người con rể này rất yêu con gái út của mẹ, mẹ sẽ không còn lo lắng băn khoăn gì nữa cho tương lai của nó, mà sẽ phó mặc cho chàng rể đầy trách nhiệm này.

Jimmy và tôi bước vào nhà, mẹ đã ra tận ngoài cửa đón, mẹ mặc chiếc áo dài cổ hở, để lộ chiếc cổ cao đầy đặn và trắng ngần, chiếc áo dài gấm trắng chỉ vẽ vài cánh hoa thạch thảo nhụy vàng rơi rớt trên nền áo thật đẹp, nhìn mẹ sang trọng như một cành hoa lan tinh khiết, đúng độ nở và quyến rũ.

Như đã nói ở trên, mẹ tôi là một phụ nữ đẹp và quyến rũ. Ở tuổi 44 với những kinh nghiệm sống và trình độ kiến thức làm con người ta chin chắn hơn, mẹ như một đóa hoa nở rộ, đặc biệt có lối nói chuyện rất thu hút khó ai có thể cưỡng lại được.

Lần đầu tiên Jimmy gặp mẹ, chàng như bị thôi miên bởi sắc đẹp chín chắn và duyên dáng của người phụ nữ này, chàng ngồi yên nghe bà kể về quá khứ khó nhọc của gia đình ba mẹ con; hôm ấy mẹ đã tỉ mỉ sửa soạn mấy món ăn Việt đi kèm theo rau và sauce rất hợp khẩu vị mọi người.

Cuối cùng, khi mẹ đem món tráng miệng ra, món bánh flanc café là món tôi và Jimmy rất thích, chàng vừa ăn vừa tấm tắc khen không ngớt lời. Tôi sung sướng hạnh phúc khi thấy chàng rể và mẹ tôi thật tâm đầu ý hợp, hai người nói chuyện với nhau không dứt, chàng còn vào bếp giúp mẹ chọn rượu ngon để nhâm nhi; còn tôi và chị Hai vào phòng tâm sự với nhau, tôi kể rất nhiều về Jimmy cho chị nghe, chị cũng mừng cho tôi đã gặp được chàng hoàng tử của lòng mình.

Mười hai giờ đêm, sau khi hàn huyên với chị Hai xong, tôi muốn về nhà của mình, khi bước ra phòng khách, tôi thấy mẹ và Jimmy cả hai nằm trên cùng một chiếc ghế sofa dài salon, mỗi người đầu nghẹo qua một góc say ngủ và đầy mùi rượu. Chị Hai nói:

- Có bao giờ mẹ uống rượu nhiều như thế đâu, tiếp khách mà sao mẹ lại ngủ… chắc hôm nay phải gặp đúng “bạn rượu” mới uống say như vậy!

Trên bàn toàn những nước ngọt, rượu mạnh đủ loại ngả nghiêng, chắc mẹ tôi đã giới thiệu rượu khác loại cho Jimmy, hai người đã thử nhiều loại lẫn lộn nên mới ra nông nỗi này.

Nhìn dáng hai người cùng trên một chiếc sofa dài, buột miệng chị Hai nói với tôi:

- Mẹ và Jimmy… hai người có vẻ ngang tuổi nhau đấy, với em thì có vẻ anh ta hơi già giặn quá!

- Mẹ hơn Jimmy 8 tuổi, còn Jimmy hơn em 14 tuổi lận!

-... Thôi mình cứ để hai người ngồi ngủ như thế đi, hai chị em mình vào phòng của chị ngủ, chút nữa giã rượu mẹ sẽ tự động về phòng của mẹ, em đừng lo.

Không hiểu sao, tôi cứ cảm thấy không yên lòng, bồn chồn, muốn quay ra đỡ mẹ về phòng, hoặc gọi Jimmy dậy để chở tôi về nhà, nhưng chị Hai cứ rủ tôi tắt đèn lên giường, hơi đâu mà lo ra…

Vì không ngủ được, tôi trằn trọc, nửa đêm dậy đi washroom; từ trên lầu nhìn xuống, tôi không tin vào mắt mình, Jimmy đã nằm sát vào bên mẹ, hai chiếc đầu kề cận nhau, cánh tay phải choàng ngang người mẹ. Tôi như tỉnh hẳn ngủ, chạy một mạch xuống phòng salon, một tay bật đèn sáng, miệng la hét nói không thành lời:

- Mẹ!... mẹ làm gì vậy?... Jimmy tại sao? …tại sao…Jimmy tỉnh hẳn, dụi mắt và đứng bật dậy, miệng ú ớ:

-…Xin lỗi…xin lỗi… không phải… anh uống say quá!

Mẹ hãy còn nửa mơ nửa tỉnh:

- Nhức đầu quá, sao …chuyện gì thế này…

Mẹ đứng lên lại té xuống ghế, hai mắt hãy còn mơ màng; tôi nói trong cơn tức giận thảng thốt:

- Jimmy… đồ vô liêm sỉ!... Hãy cút đi!

Tức giận, nước mắt tuôn trào, tôi mở bật cửa bỏ chạy ra ngoài, bên ngoài không một ánh đèn đường, không trăng cũng không một vì sao, tối đen như người bị bịt mắt! 
Tôi nghe tiếng chị Hai nức nở gọi sau lưng:

- Hạnh! …Hạnh à…

Cả tiếng chân Jimmy chạy huỳnh huỵch phía sau gọi tên tôi, tôi cứ lao đầu chạy trong đêm tối mà chả biết phương hướng. Chỉ thấy từ đàng xa một vệt sáng chói lòa của chiếc đèn xe đang ung dung lao tới với một vận tốc thật nhanh; tôi muốn dừng lại, muốn quay đầu lại, nhưng không còn kịp nữa, chỉ nghe một tiếng động thật lớn, cả người bay bổng nhẹ như cánh diều của ngày ấu thơ, nhưng sao… đau nhói.

*

Ba năm dằn vặt trôi qua, tôi đã may mắn được các bác sĩ giỏi giữ lại cái mạng, quen dần với chiếc hông trái được thay bằng titan, tôi đi đứng  hơi khập khiễng với một chiếc giày bên trái cao hơn hai phân, xương chậu trái đã được lắp một phần bằng kim loại và khả năng mang bầu sau này cũng bị ảnh hưởng; tôi chọn đi làm kế toán cho một công ty người Mỹ cách chỗ tôi mướn nhà không xa lắm, tôi không muốn trở lại làm nail vì muốn tránh đi tất cả những ký ức gợi lại niềm xót thương.

Suốt ba năm nay, tuần nào tôi cũng nhận được lá thư không đề tên người gởi, chỉ thấy tên người nhận là tôi thôi, tôi biết người gởi là ai rồi, vì tôi đã mở ra đọc lần đầu tiên khi vừa mới từ nhà thương ra, nhưng tôi đã xé nát tan, oán hận vứt ngay vào thùng rác không chút xót thương, tôi không muốn biết tin tức mà chỉ muốn xóa sạch trong óc những gì thuộc về hắn! Và hôm nay cũng thế, không cần đọc, dửng dưng vò nát vứt ngay vào xọt rác dưới chân không chút ngần ngại; những lời xin lỗi, van xin, ngụy biện đối với tôi bây giờ như một trò hề! Tôi muốn trút bỏ lòng thù hận và muốn xem người ấy như kẻ xa lạ.


Ngày qua đời qua mất rồi

Một thoáng chớp mắt đời đã phai

Còn lại vết thương hằn trên đá

Để tình ta... rồi mãi là tình xa

(Vết thương hằn trên đá-Nguyễn Tường)

Chị có nói chuyện với tôi một lần rằng mẹ đã quyết định đổi đến tiểu bang Texas, dọn vào chùa Việt Nam ở Houston, tu từ hai năm nay, cạo đầu, ở hẳn trong chùa làm phận sự như một ni cô, mẹ tụng kinh sám hối rất nhiều cho chính bản thân và cho tôi, mẹ muốn hồi hướng công đức cho đứa con gái út này, mẹ rất hối tiếc chuyện xảy ra tối hôm đó mà mẹ không hề cố ý.


Khi tôi còn trong nhà thương hôn mê cả tháng, mạng sống như treo trên sợi tóc, các bác sĩ nói bệnh tôi trở nặng hơn, lên cơn sốt mỗi khi mẹ vào thăm nuôi, nên tốt hơn là hãy chiều theo ý nguyện của tôi; mẹ đã phải đau khổ, chịu hy sinh, tránh mặt tôi trong suốt những năm tôi bị bệnh cho đến bây giờ vì không muốn làm tôi bị tổn thương thêm.

Tháng Năm của ngày lễ Mẹ đã đến. Nơi đâu cũng quảng cáo rầm rộ những lẵng hoa đẹp tặng phụ mẫu. Ba năm vừa qua tôi chỉ biết khóc nhớ về mẹ, nhưng hôm nay tôi bỗng muốn có được một tâm hồn thanh thản như mọi người, muốn chui ra khỏi cái vỏ ốc phiền muộn, không oán giận nữa, tôi muốn đi chùa, muốn được lời khuyên của Đức Phật Như Lai soi sáng tâm hồn tôi, buông xuống tất cả mọi thứ hiểu lầm, tôi muốn đối diện với sự thật, nhất là đối với mẹ, người đã sanh thành ra tôi mà rất ít khi nào tôi cảm thấy gần gũi. Tôi ao ước được đặt đầu vào lòng mẹ thổn thức một lần để cho dòng nước mắt quét trôi đi tất cả mọi u sầu. 

Tôi đã tự dằn vặt, nước mắt tủi hờn không bao giờ khô mỗi đêm, khốn đốn khổ sở để quên đi cái trái ngang của tình yêu đầu đời, tôi đã phải trả một giá quá đắt. Tôi biết chắc lỗi này chẳng phải do mẹ gây ra. Cuộc đời mẹ cũng đã trải qua nhiều thử thách gian truân để nuôi hai chị em tôi đến ngày hôm nay; có phải con người chả có ai vẹn toàn, cuộc đời là những bài học giúp ta đứng vững hơn mỗi khi vấp té.

Mặt tiền của ngôi chùa Việt Nam- Sugar Land, tại Houston- Texas nổi bật với khuôn viên rộng lớn và hồ sen đẹp mắt, đặc biệt là tượng Quan Âm hiền hòa an lành cao 72 feet đứng trên tòa sen với bàn tay nghiêng xuống như cứu vớt những tâm hồn trầm luân. Trái tim tôi đập rộn rã hồi hộp như đứa con nhỏ về thăm nhà, mong gặp lại người mẹ yêu thương sau biến cố cách đây ba năm.

Người đàn bà ngồi giữa sân sau chùa, dáng gầy, đầu đội chiếc nón lá phủ kín chiếc đầu cạo nhẵn thín, bộ quần áo lam, cặp mắt u buồn nhưng yên tịnh, khuôn mặt trái soan vẫn phảng phất vẻ duyên dáng, đôi tay thoăn thoắt đang nhổ cỏ dại; hai dòng nước mắt nóng hổi đã ràn rụa trên mặt tôi từ lúc nào, thông thường ánh nắng tháng năm thật dịu, nhưng sao ánh nắng của ngày hôm nay thật chói chang, chói làm người ta phải che tay lên nhìn mới rõ, gợi nhớ cái nắng gắt của cách đây 50 năm, ngày chúng tôi rời khỏi quê hương! 

Tôi khập khiễng đến bên mẹ, mẹ ngừng nhổ cỏ, nhìn hai bàn chân với hai chiếc giầy một cao một thấp, kỳ quặc của tôi ngay trước mặt, mẹ vội vã ngước lên, một phút bàng hoàng như không tin được vào mắt mình, mẹ đưa tay lên dụi mắt, rồi quay nhìn lại tôi, không gian như ngừng lại, miệng mẹ há ra đầy ngạc nhiên và khuôn mặt bỗng dúm dó, tiếng nói tắt nghẹn, cả tôi và mẹ nước mắt chan hòa ướt mặt, chúng tôi cùng đổ ập vào vòng tay nhau, xúc động, nghẹn ngào: 

- Mẹ ơi! Mẹ …tha lỗi cho con! 

- Con, chính mẹ mới phải xin con tha lỗi cho mẹ!... Con gái út yêu quý của mẹ!

Chúng tôi thật sự không nhớ mình đã nói những gì, kể cho nhau nghe những gì mà thì giờ trôi qua thật nhanh, hai mẹ con đã vừa khóc vừa cười khi gợi lại những kỷ niệm xưa.

Hôm nay mới thật sự là ngày lễ Mẹ đáng nhớ nhất trong cuộc đời tôi. 

Ánh nắng tắt ở cuối chân trời, tôi đã được toại nguyện đặt đầu lên vai mẹ, cảm thấy mùi hương xưa của riêng mẹ vẫn làm tôi quyến luyến, bàn tay ấm êm của mẹ vuốt lên lưng tôi, với tiếng hát rất khẽ, quen thuộc của mẹ mãi còn trong ký ức:

Lưng mẹ còng theo tháng gió sương,
Đêm thâu thức trắng đợi con đường.
Tay gầy vá nắng trong ngày lạnh,
Mắt ướt che mưa giữa chập chờn.

Cơm nhạt nhường con mùi thơm đượm,
Áo sờn giấu bớt chỗ chông chênh.
Ngàn câu chưa nói thành câu chữ,
Một tiếng “Mẹ ơi” đủ ấm lòng.

(vô danh)

 

Sỏi Ngọc

Montreal, 22 tháng Tư, 2025

Những Vòng Xe Thương - Trầm Vân

Wednesday, May 7, 2025

Cuộc Đời 50 Năm Nhớ Lại - Phạm Xuân Thái


Năm 2025 đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, 50 năm Việt cộng xua quân tấn chiếm miền Nam Việt Nam, đã đưa tôi trở về với ký ức của 50 năm về trước. Ngày 30/4/1975, khoảng 140 ngàn người Việt Tị Nạn[1], trong đó có tôi, đã lênh đênh trên các con tầu buôn mong manh, trên các chiến hạm của Hải Quân VNCH, và Hạm Đội 7 của Hoa Kỳ để tiến tới vùng biển của Phi Luật Tân. Sau buỗi Lễ Hạ Quốc Kỳ VNCH đầy nước mắt, tên của các chiến hạm Hải Quân VNCH đã được sơn phết để tẩy xóa những vết tích cũ, cờ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ được dương lên, và đoàn tầu đã được cặp bến Subic Bay.


Tiếp theo những thủ tục căn bản, chúng tôi mỗi người được cấp phát cho hai bộ quần áo dân sự, được tắm đ tẩy sạch bụi trần của cuộc hải trình gian khổ gần 10 ngày từ Vũng Tàu tới Subic Bay. Sau đó, chúng tôi được chuyển lên một thương thuyền để tới đảo Guam. Ở Guam, những căn lều vải, trạm xá, nhà ăn, văn phòng làm việc đã được công binh Hoa Kỳ dựng lên để đón tiếp nhóm người tị nạn. Hàng ngày chúng tôi đứng xếp hàng để lãnh đồ ăn sáng, trưa, tối. Những cơ quan thiện nguyện cũng đã vào trại để giúp đỡ người tị nạn trong nhiều lãnh vực khác nhau. Ở Guam khoảng một tháng, tôi được chuyển qua trại tị nạn Indiantown Gap, Pennsylvania, và sau đó được nhà thờ St. Luke tại thành phố McLean, tiểu bang Virginia bảo lãnh vào ngày 1 tháng 7 năm 1975.

Liên tiếp từ 1975-1996, hàng triệu người Việt đã vượt biên, vượt biển tới các trại tị nạn vùng Đông Nam Á. Hàng trăm ngàn người Việt đã bỏ mình trên biển cả và tại biên giới Thái Lan, Cam Bốt. Theo ước tính có gần nửa triệu người tị nạn đã đến trại tị nạn Palawan (Philippine First Asylum Center)[2] và trại chuyển tiếp Bataan (Philippine Refugees Processing Center)[3] trong giai  đoạn đau thương  ấy.


Năm 1996, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc tuyên bố chấm dứt tài trợ cho Chương Trình Tị Nạn Đông Dương. Các nước trong vùng Đông Nam Á bắt đầu áp dụng chính sách cưỡng bức hồi hương, chỉ riêng Phi Luật Tân là quốc gia duy nhất cho phép người Việt Tị Nạn ở lại, do ảnh hưởng  của Thiên Chúa Giáo tại xứ sở này.[4]

Vào tháng 10 năm 2009, khoảng 2500 người Việt cuối cùng sống trên đất Phi trong nhiều năm trời đã được chính phủ Canada đón nhận qua chương trình Freedom At Last[5], do sự tranh đấu của tổ chức VOICE[6] và cộng đồng người Việt hải ngoại.

Ngày 30/6/1975, ban quản trị của khu 6, trại tị nạn Ft. Indiantown Gap, tại tiểu bang Pennsylvania gọi tôi lên văn phòng, và cho biết tôi đã được nhà thờ St. Luke tại tiểu bang Virginia bảo trợ. Họ trao cho tôi  một vé xe bus và một phong bì do Red Cross tặng, rồi yêu cầu tôi về thu xếp hành lý để sáng mai lên văn phòng lúc 9 giờ sáng. Tại đây, sẽ có người chở tôi ra bến xe Bus đi Washington, D.C, và đại diện nhà thờ sẽ đón tôi ở đó.

Tôi bước vội về barrack thông báo cùng bạn bè. Ai ai cũng mừng cho tôi, và lo cho thân phận mình, vì trong cảnh tranh tối tranh sáng của cuộc đời, không biết ngày mai sẽ ra sao? Tối hôm đó, một buổi văn nghệ bỏ túi đã được bạn bè tổ chức để tiễn tôi đi, có sự hiện diện của nhạc sĩ Đỗ Đình Phương, Hoàng Quốc Bảo, thi sĩ Du tử Lê, và một số bạn văn nghệ. Chúng tôi uống trà, cà phê, và ca hát tới gần nửa đêm mới “vãn tuồng”. Đêm hôm đó, tôi trằn trọc không ngủ được, không biết tương lai mình sẽ đi về đâu nơi xứ lạ quê  người? Gia đình còn kẹt lại ở Việt nam bây giờ như thế nào? Việt cộng sẽ làm gì những người miền Nam thua cuộc? Cái cảm giác đau đớn của kẻ thất trận và nỗi niềm chia ly làm tôi ray rứt.


Sáng hôm sau, ngày mùng 1 tháng 7 năm 1975, tôi dậy từ hồi 6 giờ sáng, thu xếp hành lý, bao gồm vài bộ quần áo do trại tị nạn phân phát cho, những giấy tờ quan trọng, vé xe bus, và phong bì đựng 5 Dollars do Red Cross tặng. Loay hoay pha ly cà phê buổi sáng, bước ra sau barrack, châm điếu thuốc, ngồi tư lự, lòng nửa vui nửa buồn. Vui vì không còn bị gò bó trong trại tị nạn; buồn vì sắp sửa phải xa bạn bè. Một số bạn đã cùng đi với tôi từ Guam qua Indiantown Gap, một số khác, tôi tình cờ gặp lại trong trại tị nạn này.

Đúng 8 giờ sáng, bằng hữu đã tụ tập tại barrack của tôi, trong số đó có vài bóng hồng. Tôi ghi vội số phone của người quen, trao cho bạn bè. Hy vọng khi ra khỏi trại, họ sẽ liên lạc, và chúng tôi lại có dịp gặp nhau. Chúng tôi bịn rịn chia tay, những cái bắt tay xiết chặt, những lời chúc may mắn; các cô nghẹn ngào xúc động, nước mắt lưng tròng.

Sau đó, cả nhóm đi cùng tôi lên văn phòng quản trị trại. Tại đây, lại những lời ly biệt, chúc tụng, và những giọt nước mắt. Tôi nhìn từng người bạn, cố thu trọn hình ảnh họ vào tâm khảm. Miệng tôi cười như … mếu.

Xe từ từ chuyển bánh. Tôi quay lại nhìn các bạn lần cuối. Indiantown Gap xa dần, nhạt nhòa, và … mất hút.

Bà Nancy Urbanczyk và bà Elise Siebentritt, đại diện nhà thờ St. Luke Catholic Church, đón tôi tại bến xe bus Greyhound, Washington, D.C. Bà Elise cho biết nhà thờ bảo lãnh tôi, và gởi tôi cư ngụ tại nhà bà. Gia đình bà cùng giáo dân của nhà thờ sẽ giúp tôi làm quen với đời sống mới và sẽ hổ trợ tôi tìm kiếm việc làm.  Khả năng Anh ngữ của tôi lúc đó thuộc loại ấm ớ, mà hai bà lại nói liên tục để chào mừng và trấn an tôi. Tôi không hiểu nhiều, đành chỉ nhe răng ra cười, những nụ cười rất ngu ngơ.

Gia đình Siebentritt cư ngụ tại thành phố McLean, cách thủ đô Hoa thịnh Đốn 45 phút lái xe. Bà Elise mở cửa đưa tôi vào nhà, giới thiệu mọi nơi trong căn nhà 7 phòng ngủ của họ. Họ dành cho tôi một căn phòng nhỏ đầy đủ tiện nghi với closet chứa quần áo rất rộng, chiếc giường trải khăn đẹp đẽ, và phòng tắm riêng với khăn tắm trắng muốt treo sẵn trong phòng. Thêm vào đó, một bàn viết gọn gàng đặt trước cửa sổ nhìn xuống khu vườn đầy bóng mát và hoa cỏ. 

Bà Elise cho biết ông Carl Siebentritt là một cựu chiến binh trong thế chiến thứ hai, đã góp phần giải phóng Âu châu khỏi Đức Quốc Xã. Hiện ông là Khoa học gia làm việc cho bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Bà Elise là y tá, làm việc lâu năm cho một nhà thương trong vùng. Gia đình họ có 6 người con: người con trai trưởng 18 tuổi, vừa tốt nghiệp trung học và sắp vào đại học tại tiểu bang Massachusetts. Con gái kế, 16 tuổi. Tiếp đó là hai cậu con trai 14, 12, và hai cô con gái út 10, và 3 tuổi.

Sau khi giới thiệu về căn nhà và gia đình, bà Elise cho biết trong vài ngày nữa, ngày mùng 4 tháng 7, sẽ có một buổi họp mặt để  những người trong nhà thờ có dịp gặp tôi.

Tôi đóng cửa phòng, đặt chiếc xách tay chứa ba bộ quần áo vào closet. Nằm xoải tay trên chiếc giường nệm êm ấm. Bao ưu tư lo lắng cho số phận tạm lắng xuống, tôi từ từ nhắm mắt tận hưởng giây phút êm đềm, và chìm vào giấc ngủ.


Ngày mùng 4 tháng 7 năm 1975, gia đình ông bà Siebentritt tổ chức buổi liên hoan mừng Lễ Độc Lập, và cũng để giới thiệu tôi với ban quản trị nhà thờ, cùng một số giáo dân và bằng hữu của họ.

Từ sáng sớm, mọi người trong gia đình Siebentritt đã sửa soạn nấu nướng, cắt cỏ, tỉa cây, hốt lá, kê bàn ghế ngoài vườn để đón khách. Mới chân ướt chân ráo ra khỏi trại tị nạn được ba ngày, tôi cũng nhào ra góp sức, làm thợ bê, thợ vịn. Khoảng 5 giờ chiều, hơn 100 người đã hiện diện tại khu vườn. Họ mang theo đủ loại thức ăn, bia rượu, trái cây, bánh ngọt. Tay bắt mặt mừng, họ cười nói ỏm tỏi, vui như Tết.

Trước khi nhập tiệc, ông Siebentritt nói vài lời phi lộ chào mừng mọi người. Sau đó ông giới thiệu tôi, một nạn nhân của chiến tranh Việt Nam vừa được nhà thờ bảo trợ, tạm cư tại nhà ông. Tôi ngượng ngùng bối rối đứng lên, không biết nói gì, chỉ nở một nụ cười, và cúi đầu chào mọi người. Sau đó, bà Barbara, thay mặt nhà thờ, chào mừng tôi đến được bến bờ tự do. Bà cám ơn gia đình Siebentritt đã cung cấp cho tôi chỗ ở, dưới sự bảo trợ của giáo dân nhà thờ. Bà cho biết ban quản trị nhà thờ đã thu xếp được người lái xe đưa tôi đi học Anh ngữ buổi tối; đã kiếm cho tôi việc làm dọn dẹp, lau chùi tại một vườn trẻ; và cũng có vài người muốn thuê tôi cắt cỏ, tỉa cây cho họ cuối tuần. Ông bác sĩ Larry tình nguyện khám bệnh cho tôi miễn phí; bà nha sĩ Linda sẵn sàng chữa răng cho tôi; ông Bill sẽ cho tôi mượn chiếc xe đạp để đi làm cho tới khi tôi lấy được bằng lái xe… Sau đó, họ bắt đầu nhập tiệc. Mọi người vui vẻ xếp hàng, lấy đồ ăn, thức uống. Tiếng cười nói vang vọng không ngớt.

Tôi ngắm nhìn những sinh hoạt của nhóm người này với lòng tri ân và cảm phục. Họ là những người có trái tim nhân ái, giúp đỡ tha nhân vô vị lợi. Họ làm việc cật lực để có được một đời sống tốt đẹp; sẵn sàng mở lòng giúp đỡ người khốn khó, và thoải mái chấp nhận những dị biệt của người khác chủng tộc. Quốc gia này quả thật đẹp đẽ, thanh bình, phú cường, và đầy tình người.

Tôi tự hứa với lòng mình: sẽ làm việc hết sức mình để trả lại công ơn đất nước đã cưu mang tôi; sẽ góp tay xây dựng và bảo vệ đất nước này; sẽ luôn trau dồi kiến thức để thăng tiến trong xã hội. Và sẽ theo gót những ân nhân của tôi, để giúp đỡ những người kém may mắn hơn tôi trong kiếp nhân sinh này.

“Dù xây chín bậc phù đồ

Không bằng làm phước cứu cho một người”

Cũng như những người Việt Tị Nạn của thế hệ thứ nhất khác, tôi đã làm việc miệt mài và trau dồi trí tuệ để tìm cách vươn lên trong miền đất mới. Con đường Old Dominion tại vùng McLean, Virginia, gần Great Falls, 50 năm về trước trông thật đìu hiu, hút gió, đầy đồi cao, dốc sâu. Ngày ngày, có một chàng trai trẻ dong duổi đạp xe đạp lên đồi, xuống dốc để đi làm những công việc tạp nhạp, thỉnh thoảng chàng lại huýt sáo líu lo, hoặc hát những bài hùng ca, quân ca vang trời.

Sau 4 tháng, tôi kí cóp để dành được $700. Tháng 11/1975, tôi đã mua chiếc xe hơi đầu tiên giá $450, và bảo hiểm xe $200 một năm. Chiếc xe Volkswagen Beetle, đời 1962 bé nhỏ xinh xinh. Dù hình dáng và nhan sắc em Beetle đã tàn tạ, phai mầu theo năm tháng, nhưng đối với tôi, em vẫn đẹp nhất! Tôi say mê và chăm sóc em rất cẩn thận. Tôi đã tự học thay dầu mỡ, bu-gi, bố thắng, và thỉnh thoảng còn hút bụi, đánh bóng để “điểm phấn tô son” cho em có thể “nở với nhân gian một nụ cười”.

Khi có xe, tôi bắt đầu tìm tòi và ngỏ ý muốn học lớp chuyên viên điện tử tại một công ty huấn nghệ. Nhà thờ đồng ý tiếp tục giúp tôi ở với gia đình Siebentritt cho tới tháng 12/1976 khi tôi tốt nghiệp lớp học này. Tiền học phí, tôi sẽ trả góp khi ra trường. Trong thập niên 1970s ngành điện tử rất thông dụng và dễ kiếm việc ở Mỹ.


Cuối năm 1976 cũng là lúc bắt đầu cuộc sống tự lập của tôi trên nước Mỹ. Không thể nào quên được! Sau 20 tháng bỏ nước ra đi, đến một bến bờ xa xôi, hít thở không khí Tự Do và được sống bình an trong vòng tay nhân ái của những người xa lạ, tôi đã đứng vững chãi trên đôi chân của mình. Tôi ra trường và may mắn kiếm được việc ngay với hãng American Electronic Labs. Họ trả tôi $5/giờ mà mức lương tối thiểu lúc bấy giờ chỉ khoảng $2/giờ. Có việc làm, tôi thuê một appartment tại Arlington và dọn ra khỏi nhà ông bà Siebentritt trong tháng 12/1976. Tôi rất quý gia đình ông bà bảo trợ và ông bà cũng thương mến tôi, coi tôi như một người con nuôi của gia đình. Bao năm qua tôi vẫn đều đặn liên lạc thăm viếng gia đình họ. Con cái ông bà cũng đã trưởng thành, còn ông bà thì già theo năm tháng và đều qua đời vào năm 2019.

Tưởng cũng nên ghi lại một mẩu chuyện vui khi tôi đi phỏng vấn tại hãng American Electronic Labs. Khi ấy tôi mới quen với nhà tôi, nên đi đâu chúng tôi cũng hay đi với nhau. Hôm được gọi phỏng vấn, tôi vì mới lần đầu tiên đi xin công việc chuyên nghiệp nên quá nhà quê và ấm ớ, đã chở nàng đi cùng. Chúng tôi ngồi chờ ở lobby của hãng. Ông Hiring Manager ra gặp tôi, và ngạc nhiên khi thấy có bóng hồng ngồi cạnh tôi. Tôi vội vàng giới thiệu: Đây là bạn gái của tôi. Nếu ông mướn tôi, cô ta sẽ trở thành vợ tôi. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ: sau khi phỏng vấn, ông ta đã mướn tôi. Và thế là sau đó… tôi có vợ!

Tôi bắt đầu vừa làm việc full-time với hãng American Electronic Labs, vừa làm part-time với một hãng Electronic nhỏ gần đấy từ 5 giờ chiều cho tới 9 giờ tối. Một năm sau, ông chủ hãng tôi làm part-time đã giúp tôi khai thuế, và khuyên tôi nên mua nhà để khỏi phải trả nhiều thuế. Tôi nói: tôi là dân tị nạn mới qua Mỹ được hai năm, tôi đâu có tiền để mua nhà! Ông ta nói: tôi sẽ cho cậu mượn tiền down payment. Vậy là ông cho tôi mượn ngay 10 ngàn dollars, số tiền bằng cả một năm lương tôi làm lúc ấy để mua căn nhà đầu tiên tại Springfield, VA.


Sang tới năm 1978, tôi vào làm việc cho hãng computer Burroughs Corporation. Tôi xin nghỉ làm part-time, trả hết số tiền nợ ông chủ đã cho mượn, và bắt đầu đi học đại học về computer buổi tối và weekends. Thuở ấy, ngành Computer còn phôi thai, chỉ có mainframe và chưa có PC và Microsoft Windows. Năm 1982, Microsoft đã cùng IBM chế tạo ra PC, và Microsoft Windows sau đó. Tôi may mắn làm việc trong ngành computer đúng thời điểm nên cứ thế học hỏi và vươn lên. Tôi đã là một trong những nhân vật chính của nhóm biến đổi máy đánh chữ của Bộ Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ qua Office Automation với Word Processing, Email, Telecommunications, Systems và Network. Tôi cũng làm việc 10 năm trong nhóm tiêu chuẩn hóa Systems và Network cho Citigroup, công ty mẹ của Citibank.

30/4/2025 đánh dấu 50 năm ngày tôi xa rời Việt Nam lưu vong nơi xứ người, ký ức lại hiện về dạt dào cảm xúc… Nhìn lại cuộc đời sau 50 năm sống tại quê hương thứ hai này, tôi cảm thấy vui vì đã thực hiện được những điều tự hứa với bản thân trong ngày 4 tháng 7 năm 1975, tại buổi tiệc tiếp đón tôi tại nhà ông bà Siebentritt.

Lớp người Việt tị nạn đi trước đã hết sức phấn đấu làm việc, học hỏi, và đã đóng góp không nhỏ cho sự hưng thịnh của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Họ đã dồn hết nỗ lực để gầy dựng và hướng dẫn con cái; tạo điều kiện cho thế hệ thứ hai có số vốn kiến thức và khả năng, để cùng tiến bước, sát cánh bên người bản xứ trong mọi lãnh vực.

Ngày hôm nay, thế hệ thứ nhất của người Việt tị nạn đã vào tuổi xế chiều; một số lớn đã vĩnh viễn ra đi. Con cháu của người Việt tị nạn nay đã trưởng thành, đang bước những bước vững chắc đi vào giòng chính. Họ đang tiếp nối truyền thống mà cha anh đã miệt mài gầy dựng, và nhận lãnh trách nhiệm xây dựng đất nước, cộng đồng, làm vẻ vang dân tộc Việt.


Sáng nay, một buổi sáng mùa Xuân ấm áp, tôi ngồi một mình sau vườn, uống ly cà phê, nhìn ngắm hàng cây lá bung ra xanh mướt, muôn hoa nở rộ, bên tiếng chim hót líu lo. Hồi tưởng lại chặng đường dài trải qua trong suốt 50 năm, những kỷ niệm của ngày xưa tràn về, tôi xin đội ơn Chúa, nước Mỹ, và các ân nhân đã cho tôi cơ hội để học hỏi, thăng tiến, và một cuộc sống đầy đủ, bình an ở tuổi về chiều.

 

Phạm Xuân Thái

(Virginia, tháng 4/2025)

[1]The State of The World’s Refugees 2000 – Chapter 4

[2]http://www.refugeecamps.net/PalawanCamp.html

[3]http://www.refugeecamps.net/BataanCamp.html

[4]http://www.independent.co.uk/news/world/philippines-to-let-vietnam-refugees-stay-1329233.html

[5]http://www.voanews.com/content/a-13-2008-04-08-voa15-66746692/562384.html

[6]http://www.youtube.com/watch?v=qurLIdSgaHI

Nguồn: https://vietbao.com/p321826a321947/cuoc-doi-50-nam-nho-lai