Thursday, November 21, 2024

Ăn Đậu Nành Tốt Xấu Ra Sao? - Huỳnh Chiếu Đẳng


Nguồn tin và  chi tiết: https://fortune.com/well/article/soy-health-benefits/?utm_source=flipboard&utm_content=user/fortune

HCD  tóm tắt bản tin:

Đậu nành có tốt cho sức khỏe không? Đây là những gì các chuyên gia nói

Ani Freedman • Fortune Well

Mặc dù đậu nành phổ biến khắp nơi, nhưng có nhiều tin đồn liệu nó có tốt cho bạn hay không. Để có câu trả lời, Fortune đã nói chuyện với các chuyên gia - đây là những gì bạn cần biết.

Theo Bộ Nông nghiệp, Mỹ là nước trồng đậu nành lớn nhất thế giới.

Nó được cho là một trong những cây trồng quan trọng nhất, cung cấp protein cho động vật và con người, ngoài việc được chế biến thành nhiên liệu sinh học, dầu thực vật và các sản phẩm thực phẩm khác. (hiện nay 99% đậu nành đang trồng là loại GMO, nó với bắp là hai loại cây lại tạo nhiều nhất)

Đậu nành có hại cho bạn không?

Chuyên gia dinh dưỡng Lauren McNeill, cho biết mối lo ngại về đậu nành bắt nguồn từ hai nghiên cứu được công bố vào năm 1987 và 1998. Các nhà nghiên cứu phát giác ra rằng đậu nành làm tăng nguy cơ ung thư vú của chuột. Lý do đậu nành chứa phytoestrogen, có cấu trúc hóa học tương tự như estrogen (kích thích tố nữ) sẽ khiến bạn có nguy cơ ung thư vú cao hơn, vì hoạt động của estrogen có thể hoạt động như một chất xúc tác cho sự phát triển của ung thư.

Các mối quan tâm khác về đậu nành là nó có khả năng ức chế tuyến giáp trạng, nghiên cứu trên động vật và ống nghiệm.

Nhưng những nghiên cứu đó về cơ bản là thiếu sót, McNeill nói.

McNeill nói với Fortune có bằng chứng thực sự đậu nành tốt sức khỏe con người.

Một số nghiên cứu gần đây đã phát giác ra rằng đậu nành không có tác động đáng kể đến chức năng tuyến giáp. Một nghiên cứu năm 2010 phát giác ra rằng không có tác động nào từ đậu nành đối với testosterone hoặc các hormone giới tính khác ở nam giới.

Bác sĩ Neil Iyengar, một bác sĩ ung thư vú tại Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering ở New York cho biết: “Chúng tôi hiện có tài liệu rất rõ ràng cho thấy không có mối liên hệ nào giữa việc tiêu thụ đậu nành và tăng nguy cơ ung thư và tăng tái phát ung thư,”


Lợi ích sức khỏe tiềm năng của đậu nành

Bs Iyengar thấy có lợi cho bệnh nhân của mình vì lợi ích sức khỏe tổng thể và tuổi thọ đến từ chế độ ăn uống thực vật. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng ăn đậu nành không chỉ giúp giảm nguy cơ ung thư của bạn, mà còn có thể cải thiện kết quả sức khỏe rộng rãi. Ông nói. “Thực tế tôi sẽ khuyên mọi người kết hợp đậu nành như một phần của chế độ ăn uống bảo vệ ung thư lành mạnh.”

 

Một nghiên cứu năm 2009 trên 5.042 phụ nữ ung thư vú ở Trung Quốc - từ 20 đến 75 tuổi bị bịnh trong khoảng từ tháng 3 năm 2002 đến tháng 4 năm 2006 - cho thấy những người ăn đậu nành nhiều (hơn số còn lại) có nguy cơ tử vong và tái phát ung thư thấp hơn đáng kể. Trong khi đó đối với nam giới, tiêu thụ đậu nành dường như cũng giúp giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt, theo một nghiên cứu năm 2018.

Nghiên cứu năm 2019 giải thích rằng phytoestrogen  có liên quan đến một số lợi ích, bao gồm chức năng tim mạch và nhận thức, sức khỏe da, giúp giảm cân và giảm thiểu các triệu chứng mãn kinh.

Bác sĩ Iyengar nói nên nhớ là đậu nành càng “xử lý” ít càng tốt (ít chế biến thì tốt hơn).


HCD: Kiến thức về thực phẩm, cũng y như thuốc men, thay đổi theo thời gian. Trước đây nói đậu nành không tốt. Nay thì nói đậu nành tốt.
Các quốc gia Âu Châu và Califormia (thất bại vài lần) không thích thực phẩm  GMO, đậu nành không GMO hiện giờ khó kiếm.

Xin hiểu cho rằng tôi không phải là người chuyên môn đâu, chuyển cho các bạn đọc để tham khảo mà thôi. 

 

Huỳnh Chiếu Đẳng (Quán ven đường)

Một Mình - Người Phương Nam

Wednesday, November 20, 2024

Thiền Ngôn & Cảnh Đẹp Nhật Bản

- Vô ngã có nghĩa là tất cả pháp đều không phải là ta hay của ta. Ta và của ta chỉ là ý niệm thôi chứ không có thật. Vì dù không có ý niệm "ta" gán vào thì pháp vẫn vận hành. Trong mỗi cá nhân có những yếu tố hợp lại mà thành như thân vật lý (physical body), cảm giác (sensation), tri giác (perseption), phản ứng tâm lý (mental action and reaction), tâm thức (mind, consciousness), chúng tương quan với nhau mà tạo thành quá trình sự sống (living process), trong đó không có gì là ta và của ta cả.

Viên Minh.

- Dù có tôn giáo hay không tôn giáo, dù kiến tánh hay chưa kiến tánh thì luật nhân quả vẫn là sự vận hành chung cho muôn loài vạn vật không trừ một ai. Người làm đúng là đúng, người làm sai là sai, người làm tốt là tốt, người làm xấu là xấu, luật nhân quả không dành riêng cho người nào cả. Còn việc đúng sai tốt xấu thì cứ để luật nhân quả cân nhắc phán xét, chúng ta không nên dựa vào hiểu biết về nhân quả hạn hẹp của mình để đánh giá hành động của người khác.
Viên Minh.

- Tin vui cho tất cả mọi người: có thể tự giải phóng mình khỏi sự hành hạ của tâm trí. Cách đơn giản nhất như sau: Hãy bắt đầu nghe tiếng nói trong đầu mình như bạn vẫn thường có thể nghe. Hãy đặc biệt chú ý tới bất kỳ hình mẫu ý nghĩ lặp lại nào, những thứ âm thanh này có lẽ đã lặp đi lặp lại trong đầu nhiều năm rồi. Quá trình như vậy chính là chứng kiến người suy nghĩ.
- Không gian và thời gian chung cuộc là ảo tưởng của tâm trí. Chúng chứa cốt lõi chân lý là hai thuộc tính bản chất của cái Một: vô hạn và vĩnh hằng.
Eckhart Tolle.

Hãy nhớ rằng không phải chúng ta đang cố gắng Ðể Trở Thành một ông thánh hay một cao nhân nào cả. Chúng ta cũng không nổ lực Ðể Tống Khứ một ác pháp nào hết. Hãy sống hồn nhiên và thoải mái. Cảnh giới nội tâm của chúng ta Là Như Vậy. Nó có thể là bất tịnh hay trong sáng và đó là một cặp hành trạng đối đãi nhau của ý thức. Thấy rõ Chúng như là Chúng, thấy rõ Chúng luôn vô thường, vô ngã thì đó chính là trí tuệ vậy. Trong khi đó, bằng một ý thức ngã chấp, chúng ta cố gắng mong mỏi "Tôi sẽ phát triển những gì thanh tịnh, tống khứ những gì không thanh tịnh " thì lập tức cái không thanh tịnh sẽ xuất hiện và kềm hãm chúng ta. Chúng ta lại vấp vào khối đá thất vọng trên đường đi của mình, thế là tiếp tục đau khổ. Hãy cẩn trọng với hai tháng cấm túc này. Vô minh luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta tự chuốc lấy những khổ lụy.
Sumedho.

- Ai trải qua sự thật về khổ thì người ấy thấy ra bản chất vô thường, khổ, vô ngã trên cõi thế gian, nhờ chấp nhận sự thật này mà người ấy thanh tịnh trong sáng, và ai thanh tịnh trong sáng thì giác ngộ giải thoát, thấy rõ thực tánh chân đế và Niết-bàn.
-Thấy pháp và chia sẻ pháp với những người hữu duyên hình như là sứ mạng rất tự nhiên và đương nhiên của bất kỳ ai nhận ra lẽ sống trong nguyên lý "tùy duyên thuận pháp, vô ngã vị tha". Thấy pháp thì một mặt chịu ơn sâu của Tánh Biết, mặt khác lại mang nghĩa nặng của Ðất Trời - khó mà có thể đáp đền.
Viên Minh.


Trong một nội tâm đầy chánh niệm, tất cả hạnh phúc và khổ đau đều đồng giá trị. Không có gì khác biệt giữa hai thực tại này hết. Cái nào cũng là Ðang Là, xuất hiện rồi biến mất. Hạnh phúc vẫn là Hạnh phúc, Ðau khổ cũng cứ là Ðau khổ. Chúng là cái Chúng Là. Chúng vô ngã và chỉ có vậy. Chúng ta đừng để mình phải đau khổ vì chúng. Chỉ việc đón nhận, nhìn mặt và hiểu biết chúng. Tất cả cái gì có mặt đều phải có lúc biến mất. Tất cả đều vô ngã!
Sumedho.

- Trong thực tánh chân đế không có khái niệm toàn hảo và bất toàn. Nhưng khi có sự mong mỏi đạt đến một lý tưởng toàn hảo thì mới có khái niệm bất toàn đối nghịch với ý niệm toàn hảo mà sinh ra chấp thủ nhị nguyên. Khi nói câu này thầy chỉ muốn nhắc rằng nếu muốn cầu toàn trong ảo vọng một cách nhị nguyên như vậy thì tốt hơn là nên trở về nhận ra tính bất nhị ngay trong thế giới vô thường, bất toại và vô ngã này. Giác ngộ chính là thấy ra mọi hiện tượng thế gian đều không hoàn hảo như lý tưởng cầu toàn, do đó buông xuống cái ta ảo tưởng lăng xăng tạo tác để cầu toàn, mới giác ngộ ra thực tánh chân đế như nó đang là vượt ngoài khái niệm toàn hảo và bất toàn.
Viên Minh.

 

- Về bản chất, vô trí là nơi phát sinh mọi sự sáng tạo. Ða số những người có bằng cấp cao lại ít sáng tạo không phải vì họ không biết cách suy nghĩ, mà vì họ không biết cách dừng suy nghĩ.
- Một cách rất đơn giản để tránh xa tâm trí là đưa sự tập trung chú ý của bạn hướng vào thân thể. Cảm giác về thân thể bên trong của bạn là vô hình dạng, vô giới hạn và không dò được.
Eckhart Tolle.

 

-Tâm của người hành thiền thì không chạy đây đó. Nó nằm yên tại một chỗ. Khi tốt và xấu, hạnh phúc và đau khổ đến, người hành thiền chỉ đơn thuần nhận biết mà không để chúng thấm ướt tâm. Nói cách khác người hành thiền không dính mắc vào cái gì cả.
-Ðừng cố gắng trở thành cái gì. Ðừng nhẩy vào bất cứ chuyện gì. Cũng đừng là một thiền sinh. Ðừng mong giác ngộ. Lúc ngồi thì hãy ngồi. Khi đi thì hãy đi. Chẳng nắm giữ gì mà cũng không chống đối gì cả... Hãy để mọi sự tự nhiên.
Ajahn Chah.

 

Tánh biết thấy pháp là việc tự nhiên nên nó không cần dụng ý dụng công, chỉ có "người muốn biết" mới có dụng ý và phải dụng công. "Người muốn biết" chính là cái ta ảo tưởng, khi nó xen vào tánh biết thì cái biết trở nên chủ quan và trì trệ, khó thấy được pháp như nó đang là.
Cứ để tâm tự nhiên mà thấy thì tánh biết tự biết điều chỉnh cái thấy cho thích nghi với mọi đối tượng của nó. Ðừng cố gắng nhìn, nghe... để nắm bắt điều gì vì lúc đó khái niệm đã xen vào, mà khái niệm đi trước thì cái thấy bị trì trệ và không còn trung thực được nữa nên cái thấy không thể đồng nhất với pháp trên tính chất chỉ có duy nhất tại đây và bây giờ (thời, vị và tính) của nó. Tự nhiên, vô tâm (không trước ý) và giản dị là bí quyết mà cũng là phẩm chất của tánh biết đối với vạn pháp.
Viên Minh.

- Bạn “đạt tới” chứng ngộ (cứu giúp) bằng việc bạn nhận ra rằng bạn đã ở đó rồi. Bạn tìm thấy Thượng Ðế vào khoảnh khắc bạn nhận ra rằng bạn không cần tìm kiếm Thượng Ðế. Bạn không thể làm được điều này trong tương lai. Bạn làm nó Bây giờ hoặc không bao giờ làm được điều đó.
Eckhart Tolle.

 

- Khi tâm an tịnh tức là nó đang ở trong điều kiện bình thường. Khi tâm di động thì tư tưởng hình thành. Hạnh phúc hay đau khổ là một phần của tâm hoạt động này. Bất an và tham ái cũng được hình thành như thế. Nếu bạn không hiểu rõ chuyển động này, bạn sẽ săn đuổi đàng sau tư tưởng hình thành mãi, và trở thành nạn nhân của nó


Anh Thập chuyển 

Thầy Cô, Bạn Bè … Trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) Mai Khánh Thư - Phạm Doanh Môn


Hồi ức sơ sài - Nhớ gì viết nấy …

Đã về hưu muời năm, cũng có nhiều thời gian rảnh rỗi.

Ngồi trước bàn phím computer …, ký ức đưa tôi về quá khứ hơn 50 năm về trước trên đại lộ Hùng Vương với ngôi trường trung học công lập đồ sộ của thành phố xinh đẹp Mỹ Tho: trường trung học Nguyễn Đình Chiểu. Tôi chợt nghĩ rằng - cũng như tôi - nếu những ai đã từng mài đũng quần dưới mái trường này thì ít nhiều cũng có những kỷ niệm buồn, vui về ngôi trường thân yêu này. 

Mới đó mà đã 54 năm trôi qua, kể từ ngày tôi rời ngôi trường này. 

Trung học Nguyễn Đình Chiểu thân thương của tôi ơi! Trải qua bao chuyện bể dâu, thầy cô, bè bạn ai còn ai mất? Hôm nay, ngồi viết lại nhữung dòng này, biết bao kỷ niệm đẹp của thời học trò bỗng trở về và gợi nhớ trong tôi. Đối với tôi, những kỷ niệm này một “tài sản quý giá” mà tôi luôn chắt chiu, trân trọng! Thỉnh thoảng, khi nhàn rỗi tôi lại lôi ra “gậm nhấm” và cảm thấy rất vui khi có cái “gia tài” này. 


Thưa quý thầy cô và bè bạn,

Hồi ức này viết về những sự việc xảy ra trên 50 năm dựa vào bộ nhớ sơ sài của một người đã bước qua tuổi “bảy bó” (mượn chữ của nhà văn Hoàng Hải Thủy). Có thể có những điều đúng và chắc chắn cũng có những sai sót. Rất mong đưọc quý thầy cô và bè bạn niệm tình bỏ qua và giúp đỡ bổ sung những thiếu sót. Đây chỉ là hồi ức sơ sài, nhớ gì viết nấy … những lời tâm tình mộc mạc của một học sinh viết về ngôi trường yêu dấu ngày xưa.  

Và bây giờ xin mời thầy cô, bè bạn cùng dạo bước vào vùng kỷ niệm ngày xưa!

Xin chân thành cảm tạ.

Mai Khanh Thư- Phạm Doanh Môn

-------------------------

Trước hết, xin được nói sơ qua về cái duyên tôi đến với trường trung học Nguyễn Đình Chiểu (NĐC)

Đuợc biết, trường trung học Nguyễn Đình Chiểu đuợc thanh lập năm 1879, là ngôi trường trung học lâu đời thứ hai tại Việt Nam, chỉ sau trường trung học Lê Quý Đôn (1874). Năm 1956, sau khi trường nữ trung học Lê Ngọc Hân đuợc thành lập thì trường NĐC chỉ dành cho nam sinh. Tuy nhiên cũng có ít nữ sinh theo học ban C tại đây vì trường Lê Ngọc Hân không có ban C.

Gia đình tôi vốn sinh sống ở tỉnh Kiến Tường, một tỉnh lỵ nhỏ bé nằm cạnh sông Vàm Cỏ Tây (bây giờ là thị xã Kiến Tường thuộc tỉnh Long An). Tôi theo học bậc trung học tại trường trung học công lập Kiến Tường từ lớp đệ thất tới lớp đệ nhị (tức lớp 6 tới lớp 11). Sau khi học xong lớp đệ nhị và đậu tú tài I thì tôi được chuyển lên học tiếp lớp đệ nhất tại trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, vì khi đó trường trung học Kiến Tường chưa có lớp đệ nhất.

Vào trường NĐC, tôi được xếp vào lớp đệ nhất B2 (ban toán – Pháp Văn) và học tại dãy lớp phía bên phải khi đi từ cổng vào, đối diện hơi xéo với dãy văn phòng. Tôi có hơi bỡ ngỡ khi bước vào ngôi trường lớn này. Lớp tôi học gồm khoảng phân nửa là các học sinh NĐC học tiếp lên, phần còn lại là học sinh từ các trường khác chuyển đến và muốn được nhận vào thường phải đậu tú tài I hạng bình thứ trở lên. Vì vậy trong lớp tôi có nhiều học sinh rất giỏi, có ba bạn đậu tú tài I hạng ưu là Lê Quang Liệt, Nguyễn Văn Thạnh và Trần Văn Lộc, số còn lại phần lớn đều đậu hạng bình thứ hoặc bình.

Từ . Sau 30/4/1975 khi miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm, rất nhiều gia đình đã phải liều mình, vượt bao hiểm nguy để vượt biên, tìm đến bến bờ tự do, trong đó có nhiều thầy cô, học sinh trung NĐC.

Mọi người đã mất liên lac với nhau sau bao năm. Riêng tôi, cũng đã mất liên lạc với quý thầy cô, bạn bè … rất nhiều năm. Phần tôi , sau khi sang Úc định cư cũng cố gắng tim cách liên lạc với quý thầy cô, bạn bè trường NĐC … 

Về thầy cô, tôi có đuợc hân hạnh gặp được thầy Lê Phú Thứ vài lần. Về bạn bè cùng lớp thì có gặp đuợc Nguyễn Thanh Kỳ, Trần Hữu Đức, Trần Công Tiếng .

Cũng có nghe và liên lạc qua internet được vài giáo sư như thầy Huỳnh Chiều Đẳng, thầy Tô Văn Lai, thầy Nguyễn Văn Sâm , thầy Dương Văn Ba. …dù tôi không được học với quý thầy này.

Tôi cũng có liên lạc với anh Đoàn Xuân Thu, học cùng niên khoá nhưng khác lớp. Anh Đoàn Xuân Thu hiện là nhà văn nổi tiếng ở Melbourne.

Bức tượng bán thân cụ Nguyễn Đình Chiểu trong sân trường Nguyễn Đình Chiểu 


Bây giờ xin được lần lượt ghi lại:

VỀ BAN GIÁM HIỆU 

Ban giám hiệu gồm thầy hiệu trưởng, thầy giám học, thầy tổng giám thị và các thầy giám thị.

Thầy hiệu trưởng  Phan Văn  Huấn

Hình như là giáo sư Pháp Văn. Thầy hơi to con nhưng không cao lắm và có nước da sạm nắng. Thầy rất hiền và ít la rầy học sinh. Sau khi tôi rời trường NĐC, nghe nói thầy về làm việc ở nha trung học. Nhà thầy ở Sàigòn trên đường Lạc Long Quân, quận 11 khá gần nhà tôi, trong thời gian học ở Sàigòn, thỉnh thoảng tôi có ghé nhà thầy vì con của thầy – Phan Đình Huân - học chung lớp đệ nhất B2 với tôi.

Cũng  nghe tin thầy đã mất cách đây khá lâu . Cầu nguyện hương linh thầy đuợc về cõi Vĩnh Hằng.

Thầy giám học Lâm Văn Bé 

Là giáo sư sử-địa. Thầy luôn đeo kính cận dầy, ít cười và có vẻ nghiêm nghị. Học trò rất sợ khi có chuyện gì phải lên gặp thầy! Thầy không dạy lớp nhưng thầy là giáo sư sử-địa giỏi và thầy có in sách luyên thi sử-địa tú tài II bán rất chạy.

Sau khi thầy Huấn đổi đi thì thầy Bé lên làm hiệu trưởng và sau này làm chánh sở học chánh rồi trưởng ty văn hoá giáo dục tỉnh Định Tường. Có thời gian thầy làm tổng thư ký viện đại hoc Tiền Giảng.

Nghe nói thầy cùng quê có bà con rất gần với phu nhân cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Thầy hiên định cư ở Canada và dành thời giờ viết sách biên khảo 

Thầy Lâm Văn Bé


Về thầy tổng giám thị, rất tiếc tôi không còn nhớ tên.

Ngoài thầy hiệu trưởng và thầy giám học, chúng tôi còn thường xuyên gặp các thầy giám thi. Các thầy giám thị phụ trách trông coi kỷ luật. Trong số các thầy giám thi, tôi nhớ nhất thầy Khánh (tôi quên họ!). Thầy rất khó nên chúng tôi đặt cho thầy biệt danh “Cò Khánh”. Với biệt danh này chúng tôi có ý nói thầy như cảnh sát (police) vậy. Mỗi sáng, thầy Khánh thường đứng trước cổng trường nhìn học sinh vào trường, học sinh nào không bỏ áo trong quần hoặc bỏ áo trong quần hơi luộm thuộm hoặc quên đeo phù hiệu thì đều bị thầy Khánh chiếu cố gọi vào ngồi ở phòng giám thị chờ tới khi nào học sinh vào hết thầy mới trở vào giảng “moral”. Học sinh nào không có phù hiệu phải trở về nhà, học sinh nào không bỏ áo trong quần thì phải sửa lại rồi mới được vào lớp! Riêng tôi, có một lần vì được nghỉ học hai giờ đầu nên la cà ra chợ Mỹ Tho chơi do đó bỏ áo bên ngoài quần cho có vẻ người lớn. Gần tới giờ học, nghĩ thầy Khánh không còn ở cổng trường nữa nên cứ tỉnh bơ để áo ngoài quần vào trường … nhưng không ngờ vừa bước vào cổng đã thấy thầy Khánh xuất hiện và gọi vào phòng giám thị. Hôm đó, thầy Khánh định gửi tôi lên phòng giám học vì thầy nói lớp lớn phải làm gương cho lớp nhỏ! Hú vía!!

VỀ NHỮNG THẦY CÔ CỦA TÔI 

Thầy Bùi Văn Chi

Năm học đệ nhất tôi được học toán với ba thầy. Thầy Chi dạy môn Hình học với số giờ nhiều nhất (4 giờ/tuần). Thầy Chi dáng người thấp nhưng trông khá bệ vệ, thong thả. Thầy là một trong vài giáo sư toán nổi tiếng của thành phố Mỹ Tho.Thầy thường mặc áo sơ mi có đai nhỏ ở cuối gấu và bỏ ngoài quần. Thầy đến trường bằng chiếc xe Vespa màu xanh. Thầy ít nói và khá nghiêm nên chúng tôi cũng hơi sợ. Khi lên lớp, lúc nào thầy cũng mang một cây com-pa gỗ và một cây bút ăng-ten. Tuy mang theo com-pa nhưng không hiểu sao thầy cũng ít dùng tới vì tôi thấy thầy vẽ vòng tròn không dùng com-pa nhưng “rất tròn”. Khi vẽ hình xong, thầy kéo cây bút ăng ten ra, dùng nó chỉ vào hình vẽ để giảng bài. Thầy giảng kỹ càng, chậm rãi và dễ hiểu. Thầy thường quan sát chúng tôi, nếu thấy ngơ ngác chưa hiểu thì thầy lại từ tốn giảng lại.  Khi vẽ hình, thầy dùng nhiều phấn màu và những đường nét đậm, nhạt làm cho hình rõ ràng.  Tôi học được nơi thầy về phong cách dạy toán và đã đem ra áp dụng khi đi dạy. Vào những tuần cuối cùng thầy thường đem những đề thi tú tài toán trong sách Pháp để chúng tôi làm thử vì thầy biết đề thi toán tú tài thường tương tự với đề thi toán tú tài Pháp. Thường khi chúng tôi muốn hỏi thêm thầy về một bài toán nào thì thường phải đưa sách cho thầy xem đầu bài rồi thầy mới giải. Nếu chỉ đọc hoặc viết ra giấy thì thầy từ chối không giải. Tôi nghĩ vì thầy sợ chúng tôi ghi chép lại không đầy đủ, vì nếu thiếu một điều kiện có khi bài toán không giải được làm mất thời giờ! 

Ngoại trừ những gì cần hỏi thầy về toán, chúng tôi ít dám nói chuyện với thầy. Nghe nói trước khi về dạy ở NĐC, thầy là chánh thanh tra phòng mật của Nha khảo thí (phòng lựa chọn, in ấn đề thi tú tài).

Cách đây hơn chục năm qua hội NĐC-LNH Pháp, được biết thầy đã qua đời tại Pháp. Xin được gửi những dòng này như là nén hương lòng muộn màng đến người thầy đáng kinh của chúng tôi.

Thầy Nguyễn Hữu Thông

Chúng tôi được thầy Thông hướng dẫn môn đại số và giải tích. Thầy Hữu Thông dáng người cao ráo, hoạt bát và nhanh nhẹn với giọng nói rõ ràng, sang sảng. Thầy rất vui tính và có vẻ gần gũi với học trò. Thầy Chi và thầy Hữu Thông là một cặp giáo sư toán giỏi và nổi tiếng ở Mỹ Tho thời đó. Tôi biết thầy Hữu Thông, ngoài những giờ dạy ở NĐC, hầu hết thời giờ còn lại, thầy dạy ở các trường tư và các lớp luyện thi tú tài khác (như lớp luyện thi Pascal nổi tiếng cuối đại lộ Hùng Vương). Thầy giảng bài rất mạch lạc và dễ hiểu. Tôi giỏi môn đại số là nhờ thầy.

Vẫn còn nhớ, ngày dạy đầu tiên, thầy cho làm một thử một bài tập kìểm tra. Hôm đó tôi làm bài khá. Tuần sau trả bài lại và chỉ có mình tôi làm đúng gần hết bài. Thầy gọi tên và khen tôi trước cả lớp làm tôi hơi mắc cở … nhưng cũng khoái chí và nở lỗ mũi!

Tôi nghe nói hiện nay thầy vần còn sinh sống ở thành phố Mỹ Tho.

Thầy Nguyễn Quốc Thông

Thầy Quốc Thông dạy môn số học. Mỗi tuần chúng tôi được học với thầy 2 giờ. Thầy Quốc Thông dáng người cao, một chút nghiêm nghị, thầy cận thị khá nặng, luôn đeo kính gọng nhỏ. Giọng Hà Nội nhỏ nhẹ, đều đều đôi khi làm cho chúng tôi hơi buồn ngủ. Một phần môn sô’ học cũng hơi khô khan nên không lôi cuốn chúng tôi nhiều! Ngoài những giờ dạy ở NĐC, thầy thường về Sàigòn để tiếp tục hoàn tất chương trình cao học toán ở trường đại học khoa học. Nghe đồn thầy học rất xuất sắc và năm sau thầy đã tốt nghiệp cao học toán với hạng danh dự. 

Thầy là bạn thân của thầy Nguyễn Trần Trác, giáo sư lý-hóa trường nữ trung học LNH thời đó. Tôi thường hay gặp hai thầy đi chung với nhau trên đại lộ Hùng Vương. Mới đây, tôi được thầy Trác cho biết, thầy Quốc Thông đã sang định cư bên Mỹ và khi sang Mỹ, dù đã lớn tuổi nhưng thầy vẫn ghi danh hoc thêm về toán và đã hoàn tất học vị tiến sĩ toán hạng ưu. Thầy là một tấm gương miệt mài học tập cho chúng tôi noi theo.

Thầy Nguyễn Văn Kiến 

Thầy Kiến hướng dẫn chúng tôi môn lý-hóa. Thầy rất điển trai và ăn mặc lịch sự đúng mốt. Thầy là giáo sư hướng dẫn lớp tôi năm đó. Là một giáo sư lý-hóa nổi tiếng nên cũng như thầy Hữu Thông, thầy khá bận rộn với những giờ dạy ở các trường tư thục và các lớp luyện thi tú tài. Bài giảng của thầy rất rõ ràng và mạch lạc. Thầy rất vui tính và thích “nói lái”. Khác với những giáo sư khác khi vào lớp thường đọc tên học sinh trong sổ đìểm danh, thầy Kiến không làm như vậy mà chỉ gọi trưởng lớp hỏi một câu ngắn “ai vắng?” với giọng miền Nam “ai giắng”. Mấy ngày đầu chúng tôi không hiểu nhưng sau này mới biết là thầy dùng lối nói lái. Cũng cần nói thêm là lớp tôi đều là nam sinh. Khi giảng về lý-hóa, đôi khi thầy hay phụ đề thêm những chuyện “tiếu lâm” để minh họa thêm cho lý thuyết vào làm cho cả lớp cười bể bụng. Trong giờ thầy, thỉnh thoảng mấy thằng bạn “trời đánh” hay phá tôi, chúng thường thưa với thầy: “Thưa thầy, Môn nó viết bài không chừa lề !”. Thầy không nói gì mà chỉ cười mím chi. Bài thi lý-hóa tú tài II năm đó tôi được điểm gần tối đa cũng chính là nhờ thầy cho chúng tôi luyện tập làm bài thi thử rất nhiều.

Cách đây hơn hai chục năm, qua cô Ngọc Hân, được tin thầy mất trên đường vượt biên, khi tàu vượt biên gặp hải tặc Thái Lan, thầy đã xung phong lên mũi tàu nói tiếng Anh cho họ biết đây là tàu vượt biên nhưng bọn hải tặc đã bắn chết thầy. Thật tội nghiệp. Chúng tôi thật đau buồn khi biết được hung tin này. Nguyện cầu hương hồn thầy được về chốn vĩnh hằng.

Thầy Phúc (xin lỗi tôi quên họ của thầy)

Thầy Phúc dạy Pháp Văn (sinh ngữ 1) lớp tôi. Thầy dáng người cao nhưng hơi gầy, nhác nhác giống thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Có lẽ do ảnh hưởng của nền giáo dục Pháp nên tôi thấy thầy khá nghiêm. Khi đi dạy lúc nào thầy cũng thắt cà vạt chỉnh tề, đôi khi mặc vest nữa. Thầy luôn luôn xách một cái cặp trong đó có nhiều tranh ảnh nước Pháp và luôn luôn có cuốn tự điển Larouse nhỏ dày cộm. Trong giờ Pháp Văn, thầy trò đều phải sử dụng tiếng Pháp, hầu như không nói tiếng Việt. Tôi vốn không nói giỏi tiếng Pháp nên cũng hơi ngán giờ thầy, mặc dù tôi làm bài khảo sát (etude text) thường được điểm cao. Vẫn còn nhớ câu danh ngôn “Nul ne peut se vanter de se passer des autres” tạm dịch là “Không ai có thể tự hào là mình không cần đến người khác” mà thầy hay nói để nhắc nhở chúng tôi về tính khiêm tốn mà mọi người cần có. 

Từ ngày rời trường NĐC tôi không được tin gì về thầy nữa.

Thầy Lê Phú Thứ 

Thầy Thứ là giáo sư Anh Văn nổi tiếng của trường NĐC và cả thành phố Mỹ Tho thời đó. Thầy rất vui tính và gần gũi với học trò. Thầy thường gọi học sinh là “chú”. Tôi nghĩ thầy gọi vậy vì thầy coi chúng tôi như những người em của thầy. Trước đây tôi hơi kém về môn Anh Văn nhưng sau một năm được thầy Thứ hướng dẫn tôi trở thành học sinh giỏi về môn này đến nỗi thầy cũng phải ngạc nhiên. Có thể vì vậy mà ba chục năm sau khi gặp lại thầy ở Úc thầy vẫn còn nhận ra tôi. Mặc dù năm đệ nhất, môn Anh Văn (sinh ngữ 2) chỉ có hệ số 1 nhưng nhờ thầy có phương pháp giảng dạy lôi cuốn cộng với sư thương yêu, gần gũi học trò nên lớp tôi nói chung và cá nhân tôi nói riêng, đều cố gắng học môn này và cả lớp đều tiến bộ thấy rõ. Riêng tôi năm đó, từ một học sinh “thường thường bậc trung” về môn này đã trở thành một học sinh giỏi về Anh Văn và cuối năm tôi đã đạt điểm cao trong kỳ thi tú tài II.

Thầy Lê Phú Thứ sang đinh cư ở thành phố Melbourne (Úc) đầu thập niên 80. Thầy là cố vấn của hội NĐC-LNH Úc Châu và với vai trò này thầy đã giúp hội nối kết lại với quý thầy cô và các cựu học sinh. Thầy rất tích cực tham gia các sinh hoạt của hôi. Thầy còn sinh hoạt trong hội cựu học sinh Petrus Ký nữa. Qua những bài viết, tôi thấy tên thầy được nhắc nhở rất nhiều. Điều này chứng tỏ học sinh rất thương yêu và kính trọng thầy.

Cuối năm 2000, trên đường đi Sydney tham dự buổi phát hành đặc san truờng Petrus Ký, thầy cô có ghé Canberra thăm tôi và các bạn tôi. Sau đó tôi cũng còn được gặp thầy cô vài lần nữa trong các dịp ra mắt đặc san của hội NĐC-LNH Úc Châu  

Hình chụp tại War Memorial (Viện bảo tàng chiến tranh) Canberra năm 2000 trong dịp thầy từ Melbourne về Sydney tham dự đại hội cựu học sinh Petrus Ký. Thầy ghé Canberra thăm một số cựu học sinh trung học NÐC (thầy Thứ ngồi bên trái)


Thầy đã về cõi vĩnh hằng cách đây gần hai chục năm . Sự ra đi của thầy đã để lại bao nhiêu tiếc thương cho quý thầy cô và học sinh NĐC-LNH Mỹ Tho.

Thầy Trần Quang Minh 

Thầy Minh dạy môn Triết. Dáng người thầy nhỏ nhắn. Thầy có bộ ria đẹp và luôn được chăm sóc cắt tỉa rất khéo. Thầy nói ít và có pha chút “gàn gàn”. Đúng là giáo sư triết! Học trò chúng tôi thường lén gọi “thầy Minh Râu”. Cũng có thể trong trường còn có thầy khác trùng tên nên gọi vậy cho dễ phân biệt. Môn triết vốn khô khan nhưng nhờ phương pháp giảng dạy linh hoạt pha chút khôi hài nên chúng tôi rất thích giờ học này. Nói ra đìều này không biết có đúng không nhưng rõ ràng tôi bị ảnh hưởng khi thầy dạy môn lý luận hoc, thầy nói đại ý toán chỉ là môn khoa học thuần lý, do đó chỉ dựa vào một số tiên đề ban đầu rồi từ đó cứ suy luận tiếp nối ra những định lý … và như vậy không cần biết đến những gì xảy ra chung quanh ta. Thậm chí, có thể khởi đầu nếu nói 2 nhân 2 là 5 thì từ đó người ta vẫn có những chuỗi lý luận tiếp theo được … Điều này khác với những môn lý-hóa, vạn vật là những môn khoa học thực nghiệm nên có liên hệ đến những sự vật chung quanh. Chính vì hiểu như vậy mà sau này lên đại học tôi không còn mặn mà với môn toán nữa mặc dù ở trung học tôi luôn xuất sắc về môn này! Tôi rất thích học triết và lối dạy triết của thầy Minh.

Sau khi rời trường NĐC, tôi nghe nói thầy Minh là giám học của trường. Được biết thầy định cư ở Mỹ và thầy cũng qua đời hơn mười năm rồi. trước đây, thầy là hội trưởng hội ái hữu NĐC-LNH Mỹ. Thầy cũng đã tốt nghiệp cao học tại Mỹ. Thầy là một tấm gương hiếu học cho chúng tôi.

Thầy Vũ Tuyên

Thầy Vũ Tuyên gốc người Hà Nội nhưng không hiểu sao họ tên thầy chỉ có hai chữ. Thầy dạy môn sử-địa. Thầy giảng bài như diễn thuyết khiến chúng tôi cứ há mồm ngồi nghe vì hấp dẫn quá! Đặc biệt khi dạy về sử, thầy kể lại những trận đánh trong thế chiến thứ nhất, thứ hai cứ như thật. Học trò cứ ngồi nghe mà không phải ghi chép nhiều nên rất thích. Vào lớp thầy thường nói thao thao bất tuyệt do đó thầy thường bị thiếu giờ. Tôi để ý thấy thầy ghi trong sổ đầu bài tựa bài dạy nào thì phải vài tuần sau thầy mới dạy tới bài đó! Nói theo lối nói bây giờ thì thầy luôn luôn bị “cháy giáo án!”.Năm đó môn sử-địa thi theo lối trắc nghiệm nên cũng dễ thở cho chúng tôi! Sau khi rời trường NĐC tôi không tin tức gì về thầy nữa. 

Rất tiếc tôi không còn nhớ thầy (hay cô) dạy môn vạn vật cũng như môn thể dục. Nếu các bạn nào còn nhớ xin bổ sung giúp.


VỀ BÈ BẠN LỚP CỦA TÔI 

Như đã nói ở trên, tôi chỉ học ở NĐC có một năm lớp đệ nhất, hơn nữa đây là năm cuối bậc trung học nên hầu như chúng tôi mọi người ai cũng lo tập trung học do đó không có những sinh hoạt chung với nhau như những lớp dưới. Lớp đệ nhất B2 gồm phân nửa là học sinh NĐC học tiếp lên, còn lại là học sinh từ các trường tư thục khác và để được nhận vào học thì phải đậu tú tài I từ hạng bình thứ trở lên do đó lớp chúng tôi có nhiều học sinh giỏi. Các bạn tôi và ai cũng miệt mài đèn sách để hy vọng cuối năm đạt được mảnh bằng tú tài II hạng cao để có cơ hội bước vào trường đại học mình muốn hoặc đuợc đi du học. Tôi còn nhớ tên một số bạn như Lê Quang Liệt, Nguyễn Văn Thạnh, Phạm Văn Lộc, Trần Hữu Đức, Phan Đình Huân, Trần Mạng, Nguyễn Văn Hòa, Cung Đình Hồng, Ngô Hồng Nho, Nguyễn Thanh Kỳ, Trần Công Tiếng….

Nguyễn Văn Thạnh, dáng người to con, đẹp trai,  em của Nguyễn Quang Hưng, Thạnh học nhảy lớp đệ tam và thi tú tài I đậu hạng ưu, gia đình Thạnh có tiệm vàng ở chợ Mỹ Tho. Nghe nói Thạnh học Dược và bây giờ đang là một đại gia thành công ơ thành phố Mỹ Tho. Thạnh đúng là mẫu người “đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi!”. 

Phạm Văn Lộc người nhỏ nhắn, ít nói, hình như học Luật rồi chuyển qua học quốc gia hành chánh. 

Trần hữu Đức, bạn học chung với tôi ở Trung học Kiến Tường, học rất giỏi, Đức học chứng chỉ MGP ở đại học khoa học đậu hạng bình thứ (không có ai đậu bình chứng chỉ này!), sau đó vào đại học sư phạm đệ nhị cấp ban toán đại học sư phạm Sàigòn, ra trường năm 1974 về dạy ở trung học Kiến Tường là quê của Đức. Ba của Đức là cán bộ tập kết, có chức vụ lớn ở Kiến Tường nhưng không hiểu sao do một vài bất đồng nên năm 1976 Đức đã nghỉ dạy, về sống ở thành phố Long An và là giám đốc một công ty cung cấp phân bón cho tỉnh Long An. Cũng là một đại gia có cỡ. Đức nhậu có hạng nên trong nhà Đức luôn luôn có hàng tá chai rượu tây hảo hạng. Nghe nói Đức đã phải vào nhà thương cấp cứu vài lần về chuyện rượu này! Đầu năm 2011, khi gia đình tôi về VN, tôi có gặp và nhậu với Đức vài tiếng. Hôm đó, có lẽ vì sau 40 năm mới gặp lại nhau, vui quá nên Đức và tôi uống hơi nhiều và khi về Đức bỏ quên cặp táp trong đó có một ít giấy tờ và tiền bạc. Khi biết và trở lại thì chiếc cặp không còn nữa! 

Cách đây khoảng mười năm, sau một chầu nhậu, trên đường về nhà, Đức lái xe hai bánh và bị té ngã, bị hôn mê… đuợc đưa vào bịnh viện Chợ Rẫy và sau hai tuần thì mất. Đức có hai người con du học ở Sydney và đã được định cư ở đây.

Cách nay vài năm, trong dip lên Canberra chơi, vợ chồng em Trần Hữu Nghị (con trai Tran Hữu Đức) có ghé thăm gia đình tôi.

 

Trần Hữu Đức và tôi trên đường đi dự cuộc họp mặt cựu giáo chức và học sinh Trung học Kiến Tường dịp tết Tân Mão 07/2/2011. Đức và tôi học chung với nhau từ lớp đệ thất tới đệ nhất tại hai trường trung học Kiến Tường và Nguyễn Đình Chiểu và đây là lần gặp mặt lại sau 40 năm! Người còn lại trong hình là anh Trần Văn Ngỡi cũng là một cựu học sinh đồng thời cũng là cựu giáo sư NĐC nữa đó nghe. Anh Ngỡi là giáo sư vạn vật NĐC 1972.


Vợ chồng em Trần Hữu Nghị  (con Trần Hữu Đức) trong một lần đến Canberra ghé thăm vợ chồng chúng tôi 

Phan Đình Huân là con thầy hiệu trưởng Phan Văn Huấn, Huân rất giống thầy Huấn. Cũng như Thạnh, Huân học nhảy lớp đệ tam để thi tú tài I.  Huân rất hiền. Huân học đại học khoa học, trong thời gian học ở Sàigòn, thỉnh thoảng Huân và tôi có đến nhà nhau chơi. 

Các bạn Lê Quang Liệt, Trần Mạng, Nguyễn Văn Hòa, Cung Đình Hồng … tôi chỉ gặp lần cuối trong các lớp luyên thi vào đại học ở Sài gòn giữa năm 1970. Không biết bây giờ các bạn này ở đâu? Ai còn, ai mất?

 

Ngô Hồng Nho định cư ở thành phố Brisbane và đã mất cách đây hơn mười năm. Mặc dù cùng sinh hoạt trong hội NĐC-LNH Úc Châu nhưng tôi không nhớ Nho và chúng tôi cũng chưa có dịp nói chuyện với nhau. Sau khi Nho mất, nghe anh Thẩm kể thì tôi biết Nho học cùng lớp đệ nhất B2 với tôi. Thật đáng tiếc!

Riêng vê trường hợp Nguyễn Thanh Kỳ thì khá hy hữu, Kỳ và tôi cùng sinh sống ở thủ đô Canberra (Úc), cùng sinh hoạt trong hội NĐC-LNH Úc Châu nhưng chúng tôi mới biết cùng hoc chung lớp đệ nhất B2 cách đây vài năm. Kỳ rất hiền và ít nói, hiên Kỳ đang làm việc ở sở bưu điện Canberra. Chúng tôi vẫn thường xuyên tới nhà nhau chơi khi có dịp. Phu nhân của Kỳ, chị Nguyễn Thị Duyên cũng là một cựu học sinh LNH. Chị Duyên trước  đây là một manager ở sở bưu điện Canberra. Cả hai hiện nay cũng đã nghỉ hưu lâu rồi.

Hình chụp năm  2012 trong dịp chị Phạm Thị Phia từ Pháp qua Úc thăm các cựu học sinh NĐC - Lê Ngọc Hân (thứ nhất từ phải anh Nguyễn Thanh Kỳ , thứ ba từ phải chị Phạm Thị Phia)


Trần Công Tiếng, học chung lớp đệ nhất B2 NDC và sau này chung lớp toán ở đại học sư phạm Sàigòn . Mỗi lần về VN tôi thường có dịp gặp lại Trần Công Tiếng. Rất tiếc, bạn Tiếng đã mất cách nay gần ba năm. Xin gửi đến bạn tôi lời cầu nguyện cho hương hồn bạn đuợc về cõi Niết Bàn.  

Ngồi thứ nhất bên phải là Trần Công Tiếng 

 

Lời kết:

 

Trải qua một cuộc bể dâu, thầy cô tôi, bạn bè tôi, ai còn, ai mất? Nếu có bạn nào đọc được những dòng này xin tin cho nhau nhé. Thời gian cũng không cò nhiều, hy vọng trái đất tròn và chúng ta còn cơ hội gặp lại thầy cô bạn bè ngày xưa.

 

 

Canberra những ngày  cuối xuân  2024

Mai Khánh Thư - Phạm Doanh Môn

Đôi Điều Buồn Vui - Đỗ Công Luận

 

Mẹ Thương - Tiểu Thu


Sáng thứ bảy, ngồi nhâm nhi ly cà phê một mình trong bếp, chợt nhìn lên tấm lịch Tam tông Miếu trên tường, Mai không khỏi buông tiếng thở dài. Chỉ còn một tuần nữa là đám giỗ mẹ. Cái đám giỗ thứ năm. Nhớ mẹ. Nhớ da diết. Mái tóc trắng như bông. Những năm cuối đời, bệnh hoạn liên miên, từ một người tướng mạo phương phi, mẹ trở nên gầy gò, khô héo, bước đi xiêu vẹo! Thân xác có thay đổi nhưng tấm lòng từ bi, thương con, thương cháu, thương tha nhân.... vẫn không suy giảm. Mẹ lúc nào cũng vậy. Trái tim rộng như biển cả, như bầu trời. Hồi trước, nhận những cánh thư từ các trại tị nạn, của những người quen thân, quen sơ, hay chưa hề quen (có thể là người quen của một người quen nào đó)! cầu cứu, mẹ đều hối hả gởi tiền bạc, thuốc men qua giúp đỡ. Có lần bé Châu cằn nhằn: 

– Ai quen lạ gì bà cũng cho.Rồi bà còn tiền đâu mà xài?

Mẹ cười hiền:

– Bà tích đức cho tụi bây đó. Đời bà đã gần cuối nhưng đời tụi bây còn dài. Đừng bao giờ quên mình ăn thì hết, người ta ăn thì còn đó con ơi. Vả lại bà già rồi, đâu cần mua sắm gì nhiều.

 

*****

Ngày xưa mẹ đẹp lắm. Đẹp và thông minh nhứt trong số 5 cô con gái của ông bà ngoại. Người dong dỏng cao, da trắng nõn, cặp mắt lá răm. Hai bàn tay búp măng tuyệt đẹp. Ông ngoại là điền chủ miệt Hậu giang. Nhưng không giống những người cùng thời, ông rất cấp tiến. Trai gái đều được cho đi học như nhau. Trong nhà ông đặt mua tất cả các thứ sách báo để mọi người cùng đọc, cùng học hỏi. Ông có một người em làm Đốc phủ sứ tại Sóc Trăng. Ông bà Bảy có 2 trai, cậu Thuận và cậu Hòa. Rất thèm có một cô con gái, nhưng sau hai cậu, bà không còn sanh thêm lần nào nữa. Một hôm về Đốc Vàng dự đám giỗ nhà ông ngoại, thấy 5 cô tố nữ sàng sàng tuỗi nhau, cô nào cũng tươi như ngọc như ngà, ông bà ngỏ ý muốn xin một cô làm con nuôi. Sẵn dịp mẹ vừa học xong hết lớp tại trường làng, lại là đứa lanh lợi, thông minh, ngoại liền cho mẹ về làm con nuôi ông bà Bảy. Năm đó mẹ vừa tròn 11 tuổi. Từ nhỏ quen sống trong cảnh vui nhộn với anh chị em (cả nhà 3 trai, 5 gái),tự do cười giỡn chạy nhảy, quanh nhà vườn tược rộng mênh mông, bây giờ phải sống gò bó trong phủ, cậu Thuận và cậu Hòa lại học tuốt trên Sàigòn,chỉ ngày Tết hay nghỉ hè mới về nên mẹ cảm thấy lẻ loi, nhớ mấy đứa em, buồn vô tả! Mỗi lần bà ngoại xuống Sóc Trăng là mẹ lại khóc lóc đòi về. Ngoại phải dỗ dành, khuyên nhủ mẹ ráng học thành tài, bỏ ngang uổng lắm. Nhưng ráng tới hai năm là mẹ đuối! Một lần bà ngoại xuống Sóc Trăng thăm, lúc về chở đầy một ghe than đước, lợi dụng lúc hai bà đang bận rộn từ giã nhau, mẹ lẻn trốn xuống ghe. Đi được mấy tiếng đồng hồ, biết chắc ghe không thể nào trở lui lại được, mẹ mới ló đầu ra. Tuy tức giận hết sức, nhưng nhìn thấy mặt mũi, mình mẫy mẹ như con lọ lem, bà ngoại phải phì cười... Về tới nhà mẹ bị ông ngoại cho một trận đòn nhớ đời! Bị đòn đau lắm nhưng mẹ nhứt định không trở xuống Sóc Trăng nữa. Ông bà ngoại đành cho mẹ theo dì Trâm học nữ công, gia chánh.

Trong thời gian còn ở Sóc Trăng với ông bà Bảy, có nhiều chuyện nho nhỏ xảy ra khiến cho khối óc non nớt của mẹ nhớ hoài và cũng là tấm gương sáng cho mẹ sau này. Số là một hôm mẹ theo chị bếp xách giỏ đi chợ. Mua xong nải chuối già hương chín vàng, 2 người ngồi xề xuống gánh bánh canh kêu 2 tô. Cái giỏ có nải chuối đặt bên cạnh. Say sưa với tô bánh canh bột lọc, giò heo, tôm cua béo ngậy... không ai để ý đến cái giỏ. Chừng ăn xong quay qua kiếm, thì cái giỏ cùng nải chuối đã không cánh mà bay mất tiêu! Hai người dáo dác chạy đi kiếm. Cuối cùng bắt gặp cái giỏ có nải chuối trên tay một chị nhà quê. Chị bếp giận dữ giựt cái giỏ lại, nhưng chị kia cũng không vừa, nhất định không buông. Hai bên vừa giằng co vừa cãi lộn om sòm, người nào mặt mũi cũng đỏ như gấc, thì may có chú Đội đi qua. Chị bếp mừng quá gọi chú lại. Có mẹ làm chứng, nên chú Đội bắt người đàn bà kia dẫn về phủ, phạt nhổ cỏ trước sân.

Tan buổi hầu, dùng cơm trưa xong, ông Bảy đi thơ thẩn trước hàng ba cho tiêu cơm, chợt nhìn thấy một người đàn bà đang lom khom nhổ cỏ dưới cái nắng chang chang. Nhưng điều làm ông ngạc nhiên là ngoài cổng có một người đàn ông, tay bồng đứa nhỏ chừng 1 tuổi, đi qua đi lại, cặp mắt nhìn chăm chăm vào người đàn bà. Đứa trẻ thỉnh thoảng lại giẫy dụa, khóc ré lên. Người đàn ông vừa dỗ con vừa nhăn nhó ra chiều rất đau khổ! Ông Bảy kêu người nhà ra hỏi. Biết được nguyên nhân, ông cho gọi chú Đội lên rồi quở rằng:

– Làm người ai cũng biết xấu hổ. Nếu cô ta có đánh liều ăn cắp nải chuối cũng bởi cô ta thèm mà không có tiền mua. Tội này không đáng bị trừng phạt như vậy, nhứt là bắt đứa trẻ phải chịu khát sữa, tội nghiệp quá!

Ông bảo tha người đàn bà về và cho luôn nải chuối. 

Giáp ranh nhà ông ngoại ở Đốc Vàng là nhà ông Ba Thạnh. Ông này có bà con xa. Tuy không nghèo nhưng bản tánh keo kiệt, tham lam, nhiều lần lén lút lấn ranh đất nhà ông ngoại nên hai gia đình thường xảy ra cãi cọ. Sau này giặc giã, gia cảnh sa sút, ông ba Thạnh xoay qua buôn bán. Có lần ông chở một ghe đồ gỗ đi bán dọc theo các tỉnh hai bên bờ sông Cửu Long. Ghé tới Sóc Trăng, ông ta bị bắt vì tội không đóng thuế thân. Lúc bị đưa vào công đường, nhìn thấy ông Bảy, ông ta hồn bất phụ thể, chắc mẻm phen này thế nào cũng bị ông Phủ phạt nặng để trả thù cho ông anh. Nào ngờ, khi nhận ra ông ba Thạnh, ông Bảy niềm nở hỏi han và còn ứng 3 đồng bạc cho ông ta đóng thuế. Nói làm sao hết nỗi vui mừng và lòng biết ơn của ông ba Thạnh! Khi trở về Đốc Vàng, đi tới đâu ông ta cũng hết lòng ca ngợi ông Bảy và cuộc chiến tranh lấn đất với ông ngoại cũng tự động tan biến luôn…

Mẹ lấy ba năm 17 tuổi, qua sự mai mối của một bà bác dâu. Bà này góa chồng sớm, một tay bương chải nuôi đàn con thơ. Quanh năm với chiếc áo dài đen, tay xách cây dù xuôi ngược khắp nơi.Nhà nào có cam quít, soài, dừa... là có bà đến thăm. Bà cũng là thân chủ thường xuyên bao trái cây vườn nhà ông nội của Mai. Khâm phục sự đảm đang, giỏi dắn của bà, một hôm ông hỏi bà có cô cháu gái nào đến tuổi cập kê thì làm ơn mai mối cho con trai của ông (ngược lại với ông ngoại, ông nội có 5 trai, 3 gái). Ông nói: 

– Tui chắc cháu chị cũng sẽ giỏi giang như chị. Nói dại sau này con tui có qua đời sớm, tui cũng yên tâm cho lũ cháu.

Không ngờ lời tiên đoán này lại trúng phóc! Cha chả, gì chớ cháu gái bà đâu có thiếu! Vả lại một bên là ông Cả, một bên là ông Chủ, môn đăng hộ đối quá rồi còn gì nữa! Bà bèn nhận lời và về bàn bạc với ông bà ngoại.

Mẹ 16, ba 20. Hôm đàng trai đến xem mắt, vẻ khôi ngô tuấn tú của ba làm mẹ xiêu lòng liền và nét duyên dáng, yểu điệu của mẹ cũng khiến ba khó mà từ chối!

Sau đám hỏi, mẹ bắt đầu sửa soạn may áo quần, mùng mền... chuẩn bị cho cuộc đời làm vợ tương lai. Nhưng mẹ đâu có ngờ giấc mộng đầy hoa gấm của mình tan tành như mây khói, chỉ vài ngày sau khi bước chân qua ngưỡng cửa nhà chồng! Bà nội là người có đầu óc cổ hủ. Bà khắt khe với tất cả các con dâu. Bác ba Đại là trưởng nam của ông nội. Lúc còn học trên Sàigòn, bác gặp và thương bác gái, ông bà phải lên Sàigòn tổ chức đám cưới. Gia đình bác gái dân tây, quen cách sống phóng khoáng nên về nhà quê làm dâu chưa đầy một tháng, bác chịu không nổi, nhứt định đòi trở về với gia đình trên Sàigòn. Cuối cùng bác trai cũng đành cuốn gói chạy theo tiếng gọi của con... tim! Rồi lập nghiệp luôn trên đó.

Bà ngoại biết mẹ yếu đuối, không quen cực khổ, nên lúc về nhà chồng, bà cho một cô tớ gái đi theo, hầu đỡ đần những công việc nặng nề. Nhưng bà nội có một lập trường dứt khoát, chắc như đinh đóng cột: 

– Nhà tôi là nhà làm ăn, không phải chỗ cho mọi người bẹo hình bẹo dạng, quần là áo lượt!

Mẹ đành thở dài, xót xa xếp những chiếc áo gấm, áo thêu, mà mẹ đã bỏ ra biết bao nhiêu tâm huyết để hoàn tất, xuống tận đáy rương. Những chiếc quần cẩm tự, sa ten tuyết nhung trắng muốt được đem nhuộm đen. Từ một tiểu thư đài các, nếu không thêu may thì cũng đọc sách hoặc làm các thứ bánh trái, bây giờ phải thức khuya dậy sớm, suốt ngày làm quần quật không ngơi tay, nên mẹ cứ bịnh hoài. Bà nội càng ghét, cho là mẹ làm bộ nhõng nhẽo với ba để trốn việc!

Lúc anh Tùng chào đời, mẹ mừng lắm, tưởng sẽ được tự tay săn sóc cho con,nào ngờ bà nội dành luôn nhiệm vụ đó. Nhiều lúc anh khát sữa khóc lả người, bà vẫn điềm nhiên cho anh bú... vú da! Mẹ đứt từng đoạn ruột nhưng không dám phản đối. Ông nội biết tánh bà nên hay binh mẹ. Điều này chẳng những không có lợi, mà còn bị “ép phê” ngược!!!

Ba là một người đàn ông rất đẹp trai, tính tình hào hoa, ăn nói lại duyên dáng, nên các bà các cô mê như điếu đổ. Trong đám tá điền của ông nội có gia đình ông Sáu Can ở cách nhà độ 3 cây số. Hai ông bà có một cô con gái rất đẹp tên Kim Phụng. Người đẹp nhưng tính nết lẳng lơ. Không hiểu cô ta ỏn thót làm sao, mà ông thân sinh hào hoa phong nhã của Mai quyết định lập cô ta làm...phòng nhì (tất nhiên bà chánh thất không hề được đức lang quân thông báo cái chương trình rất ư là kém hấp dẫn này)! Có điều ổng mù tịt là bà có một màn lưới gián điệp rất bén nhạy. Nhờ Mai có một bà cô họ nổi danh Sư Tử Hà Đông: ông chồng bà thuộc loại già không bỏ nhỏ không tha nên bà có tai mắt khắp nơi. Mấy “con đĩ ngựa” vừa mới nhúc nhích ngón tay út là bà đã được... vô tuyến truyền miệng thông báo liền tức khắc. Vì vậy mẹ biết đích xác ngày giờ và nơi chốn của buổi tiệc “tân hôn” sắp diễn ra.

Tối “hôm đó”, sau bữa cơm chiều, ba lấy xe đạp ra đi, trên tay có cầm một gói giấy khá lớn.Mẹ hỏi đi đâu, ông trả lời đi họp. Mẹ vẫn thản nhiên, mặt không hề đổi sắc. Độ mươi phút sau, bà tập hợp đám tay chân bộ hạ gồm có chị Xuân, chị Yến (con cô hai Bạch) và chị Thư (con bác ba Chung). Tất nhiên là mẹ phải trả tiền công và năn nỉ gãy lưỡi họ mới chịu hợp tác. Mấy cô sợ bị chú Tân đánh đòn. Năm đó lớn nhất là chị Xuân, 13 tuổi, chị Thơ 12, chị Yến mới 11. Nhà quê ban đêm trời tối như mực. Mấy thiếm cháu phải đốt đuốc mới thấy đường đi. Gần tới nhà cô Phụng, mẹ tắt đuốc đứng xa xa rình. Trong nhà đèn đuốc sáng choang, tiếng cười nói vang ra tới ngoài lộ. Khi nghe tiếng ba dặn người câu đem được bao nhiêu tôm cá cũng phải đem lại hết thì mẹ mất bình tĩnh, kéo đám lâu la tới ngay trước cửa. Tội nghiệp đám nhi đồng run như cầy sấy! Mẹ sôi gan khi nhìn thấy ông chồng yêu quí của bà đứng song song với “con” Kim Phụng trước bàn thờ gia tiên nghi nghút khói hương. Lại còn dám diện cái áo dài gấm xanh nữa mới là động thiên đình! Cặp mắt toé lửa, bà xông vô nhà, túm ngay vạt áo dài của ông kéo mạnh. Vạt áo tét lên tới nách! Tay kéo miệng la:

– Anh làm cái gì đây? Đám cưới hả?

Ba Mai thấy vợ thì rụng rời. Một tay bụm miệng bà, một tay ôm ngang eo ếch, lôi ra khỏi nhà. Mẹ giãy dụa kịch liệt, nhưng vốn yếu đuối nên chống cự không nổi, bị lôi trở ra đường lộ. Để bà đứng đó dậm chân khóc lóc, ông vội chạy đi lấy xe đạp, rồi kéo bà lên ngồi trên đòn dong, hối hả đạp đi, mặc cho đám nhỏ vừa chạy theo sau vừa khóc ỏm tỏi vì... sợ ma!! Hôm sau, biết được chuyện, mẹ bị bà nội rầy cho một trận:

– Trai năm thê bảy thiếp là chuyện thường. Nó đi chán rồi lại về, có...hao mòn, sứt mẻ gì đâu mà phải ghen!?

Mỗi lần được về thăm ông bà ngoại là mẹ mừng còn hơn bắt được vàng. Mặc sức ăn, ngủ, cười giỡn. Càng gần tới ngày phải trở về nhà chồng, mẹ càng u sầu, ủ dột. Bà ngoại chuẩn bị đủ thứ quà cáp để mua lòng bà sui. Mẹ kể, ghe về gần đến nhà, xa xa nhìn thấy cái cầu tàu nhà ông bà nội, mẹ chỉ muốn nhảy xuống sông tự tử phứt cho rồi! Có lần Mai nói nếu là con thì con không thèm trở về. Ở luôn nhà ông ngoại cho khỏe! Mẹ lắc đầu, chép miệng:

– Bộ con tưởng mẹ chưa từng nghĩ đến điều đó sao? Nhưng thời xưa, con gái bỏ chồng là một điều sỉ nhục cho gia đình. Ai gặp trường hợp của mẹ cũng đành phải cắn răng chịu đựng thôi.

Mai thầm nghĩ các cụ ngày xưa quả có một “nội lực” phi thường. Có lần cô Tư Xuân của Mai phát biểu một cách khinh bỉ, khi nghe cặp bạn của con bà sắp sửa ly dị vì lý do... hổng hợp tính tình:

– Chèn ơi, hồi đó mà như bây giờ, chắc tao đã bỏ ba tụi bây cả trăm lần rồi! Ngày nay thay vợ đổi chồng còn lẹ hơn thay áo. Tao thấy mà bắt chóng mặt!

Có điều an ủi là mẹ được mọi người trong làng yêu mến. Bất cứ ai cần gì mẹ cũng giúp đỡ tận tình. Ngay từ thuở còn chạy chơi với đám bạn nhỏ trong xóm, mẹ đã biểu lộ cái tánh thương người. Trong làng có một người đàn bà tên Lý. Lúc trẻ lên tỉnh làm nghề “không vốn”. Mới ngoài 30 đã vướng phải bịnh giang mai. Thân tàn ma dại, đi đứng không nổi cũng ráng mò về làng cũ. Nhưng đi đến đâu cũng bị thiên hạ xua đuổi. Mẹ thấy vậy huy động các bạn, cất một cái chòi lá phía sau đình làng, để bà ta có chỗ che nắng che mưa. Lúc đầu phân công mỗi ngày một đứa đem thức ăn cho bà. Sau đó đám bạn bỏ cuộc dần dần, cuối cùng chỉ còn mẹ hằng ngày vẫn đem cơm nuôi bà ta cho đến lúc qua đời. Chuyện này đương nhiên vì không có thuốc làm sao hết bịnh?!!

Trong cuộc đất của ông nội, có gia đình bác Hai Dần, con đông lại nghèo xác nghèo xơ. Bác cho đứa con trai tên Hiền, năm đó độ 15-16, ở cho ông nội sai vặt. Bác gái hằng ngày xách cần đi từ bến nọ qua bến kia, câu những con cá lụn vụn như cá lòng tong, cá chốt, cá mại, cá trèn... đủ cho hai bữa cơm. 3 cô lớn, đến mùa lúa thì cấy mạ mướn, lúc lúa chín thì đi gặt. 2 đứa nhỏ nhứt mót lúa để dành ăn. Riêng bác trai mắc bịnh lao, ốm yếu hom hem nên được miễn lao động!…

Năm ngoài Bắc bị nạn đói chết hơn 1 triệu người, miền Nam cũng gặp nhiều khó khăn. Một hôm mẹ qua nhà bác Dần định nhờ việc gì đó. Thấy trong nhà im lìm, mẹ lên tiếng gọi cũng không ai trả lời. Lấy làm lạ bà bước vô xem thử, chợt thấy bác trai nằm trên cái chỏng tre, thở thoi thóp. Thấy mẹ, bác gượng ngồi dậy nhưng không nổi lại nằm vật xuống. Mẹ định lên tiếng hỏi thì vừa lúc bác gái xách cần câu và cái giỏ có lèo tèo mấy con cá lòng tong về tới.Bác gái cũng ốm nhom,đi không muốn nổi! Vừa thấy mẹ, bác òa lên khóc. Mẹ hỏi mới biết rằng cả 10 ngày nay nhà bác không có 1 hột gạo. Phải ăn rau luộc cầm hơi,chờ mấy cô con gái đi cấy lúa mướn đem tiền về.Chỉ lo bác trai yếu quá sợ không qua nổi. Nghe xong mẹ vội vàng về nhà, lén bà nội xúc một thúng gạo biểu anh Hiền bưng về cho mẹ anh nấu cơm. Từ đó, thỉnh thoảng mẹ lại giấu diếm ít gạo, nước mắm tiếp tế cho gia đình bác Dần qua cơn túng quẩn.

Một gia đình khác, bác Tư Đức cũng nghèo và đông con như bác Hai Dần (cái mục này rất dễ hiểu, vì nhà nghèo không có thú vui lành mạnh nào ngoài cái thú vui sản xuất... nhi đồng)! Cậu con trai 14 tuổi tên Đẩu ở chăn đàn bò cho ông nội. Cùng nạn đói ngoài Bắc, trong Nam bị nạn thiếu vải trầm trọng nên dân nghèo phải mặc rách rưới, vá chằng vá đụp. Còn rận thì vô số kể. Người nào người nấy ngồi đâu gãi đó, gãi đến tóe máu mới thôi! Quần áo cả nhà mẹ luôn luôn bắt nấu với nước sôi để diệt trứng rận.

Trong Nam, khoảng tháng 10, tháng 11 âm lịch, cũng có chút gió bấc thổi hiu hiu. Tuy gió hiu hiu nhưng cũng lạnh se da. Một hôm ra thăm ruộng, mẹ ngạc nhiên tột độ khi nhận ra giữa đàn bò đang nhởn nhơ ăn cỏ, anh cu Đẩu trần truồng như nhộng ngồi trên lưng con bò Đốm. Mỗi khi cơn gió bấc thổi qua, cậu ta lại run lên cầm cập! Hỏi ra mới biết cả nhà bây giờ chỉ còn mấy bộ đồ rách te tua, dành cho bác gái và mấy cô chị của cậu. Ngay cả bác trai cũng chỉ đóng cái khố. Ba Mai làm sở lúa gạo dưới Sađéc nên nhà lúc nào cũng có trữ nhiều bao bố tời. Mẹ lén lấy một mớ, bảo anh Đẩu đem về để bác gái cắt thành quần áo cho cả nhà mặc đỡ và không quên đưa thêm vài bộ đồ cũ của mẹ cho mấy chị mặc khi đi ra ngoài. Kể sao cho hết những nghĩa cử của mẹ đối với chòm xóm, láng giềng...

Rất lâu, sau này đi làm ăn xa trên vùng cao nguyên Trung phần, một hôm Mai thấy mẹ dẫn về nhà 1 cô gái độ 17-18. Người ngợm chỉ còn là một bộ xương biết đi. Mẹ nói gặp cô ta đang lang thang ngoài đường, đi đứng xiêu vẹo như người hết hơi! Cô ta nói bị bịnh thương hàn, nằm nhà thương mới xuất viện sáng nay. Tứ cố vô thân không biết đi về đâu. Động lòng trắc ẩn mẹ dẫn về nhà nuôi cho mạnh, sau đó muốn đi đâu thì đi...

Những năm giặc giã sôi động, ba lên Sàigòn ở với chú Sáu Tú. Một mình mẹ phải cáng đáng hết mọi việc trong ngoài. Thỉnh thoảng còn phải dẫn chị em Mai chạy tuốt vô trong đồng sâu trốn những trận ruồng bố của lính Tây. Cực ơi là cực. Vậy mà không bao giờ mẹ mở miệng than van.

Đến khi chú út Khang lập gia đình thì ông bà nội cho ba mẹ ra riêng. Cũng từ lúc đó ba bắt đầu bị đau bao tử và chai gan, nên sức khỏe yếu dần và mẹ cũng bắt đầu đi vào con đường thương mại. Cũng giống như bà bác dâu thủa nào, mẹ đi khắp nơi tìm mua những thứ có thể bán được. Từ gà vịt, heo bò đến trái cây đủ loại... Mai còn nhớ như in một lần theo mẹ chở một ghe soài hòn xuống Vĩnh Long. Giữa đường giông gió nổi lên, mưa như trút nước. Chiếc ghe nghiêng qua ngã lại như sắp chìm. Mai run như cầy sấy, ôm mẹ chặt cứng vì tưởng hai mẹ con sắp bỏ mạng trên giòng sông Cửu Long, mà thường ngày Mai thấy rất hiền hòa!... May mắn lần đó tai qua nạn khỏi.

Anh Thăng và chị Lan lần lượt lập gia đình. Đến năm Mai lên 14 thì ba mất vì chứng xuất huyết bao tử. Sau đó Mai rời bỏ miền Hậu giang cây trái sum suê,theo mẹ lên lập nghiệp nơi miềnCao nguyên đồi núi chập chùng.

Những tháng đầu lạ nước lạ cái lại không quen ai, mẹ gặp rất nhiều khó khăn. Bị những người đi trước chèn ép, hiếp đáp. Nếu là người khác chắc chắn đã bỏ cuộc. Nhưng mẹ là một người tính khí quật cường, lại từng được tôi luyện trong “lò” của bà nội suốt mười mấy năm ròng, nên nhất định không lùi bước! Và bà đã thắng cuộc. Khách hàng thích tánh tình vui vẻ, cởi mở của mẹ nên tiệm lúc nào cũng nườm nượp khách.

Mỗi lần về quê thăm nhà, mẹ mang rất nhiều tiền bạc, vải vóc để giúp đỡ cho người nghèo. 

Những năm cuối đời, bà nội bị lòa và đi đứng không được, chỉ ngồi một chỗ. Có lần Mai về thăm bà, bà nắm chặt tay Mai, mếu máo nói:

– Tội nghiệp mẹ con, hồi xưa cực khổ quá! 

Mai cảm động bóp bóp tay bà, nói vài câu an ủi. Trong thâm tâm, Mai cho rằng đó là những lời nói sáng suốt nhất trong cuộc đời của bà! 

Thiếm út Khang, đầu tắt mặt tối với đàn con gần chục đứa, đâu hơi sức nào để ý đến những lời chì chiếc của bà nội, nên bà nói gì thì cứ nói, thiếm xem như gió thoảng bên tai, tỉnh rụi như không!

Dù ở xa, nhưng mỗi lần có chuyện cần kíp là anh Thăng, chị Lan lại đánh điện cầu cứu. Mẹ vội vàng bỏ hết công việc, về quê để giải quyết mọi vấn đề rắc rối cho các con.

Sau 75, theo vợ chồng Mai sang Canada, mẹ trăn trở, thở dài, than vắn. Cắc ca cắc củm nào vải vóc, thuốc men, tiền bạc... gởi về Việt Nam cho gia đình anh Thăng, chị Lan. Mỗi bận nghe có thiên tai, bão lụt mẹ lại mất ăn, mất ngủ, đêm ngày ngóng trông tin tức….

Trời sinh ra mẹ là để lo cho tha nhân. Có cái quần cái áo nào đẹp, ai ngỏ ý thích cũng sẵn sàng tặng ngay. Món ngon vật lạ gì cũng dành cho con cho cháu. Không bao giờ nghĩ cho chính bản thân mình. Mẹ không đi nhà thờ, cũng chẳng đi chùa, nhưng lại giúp đỡ người vô số. Sau khi qua đời, có cả chục gia đình, đã từng thọ ơn bà, xin ảnh để thờ.

Cái mảnh vườn con con ở góc sân, lúc còn sanh tiền mẹ trồng đủ thứ rau: mồng tơi, quế, răm, húng, tía tô, thìa là... Mai vẫn giữ y nguyên. Mấy cây bạc hà tươi tốt, cứ đến mùa đông là Tiến lại đánh vào chậu, mang vô garage. Từ 6 năm nay, mỗi sáng đứng trong phòng nhìn qua cửa sổ, Mai vẫn có cảm tưởng như nhìn thấy bóng mẹ với mái tóc bạc phơ, thấp thoáng bên mấy luống rau, vừa tưới nước vừa nhổ cỏ dại, hoặc đang nâng niu từng cọng ngò, lá cải…

Bé Ngà trong phòng đi ra, thấy mẹ bèn xà xuống ngồi bên cạnh. Mai nói với con:

– Chúa nhật tới này cả nhà mình đi chùa. Tới ngày giỗ ngoại rồi đó con.

Bé Ngà chu mỏ:

– Đi dự lễ, dự văn nghệ thì vui, nhưng nhớ bà quá à! 

Con bé lẩm nhẩm tính rồi nói tiếp:

– Ngoại mất 6 năm rồi hả mẹ?

Mai gật đầu, giọng sũng buồn:

– Ừ, 6 năm rồi. Nhưng kỳ ghê, lúc nào mẹ cũng có cảm tương như bà vẫn còn sống trong gia đình mình.

Bé Ngà cười cười:

– Mà có cái lạ nữa là từ xưa mẹ rất sợ ma. Bây giờ tự nhiên mẹ “tiến bộ” hẳn, dám ở nhà một mình.

– Đâu có gì lạ. Ngoại lẩn quất ở đây, ma cỏ nào dám hiện hồn nhát mẹ? Có ngoại bảo vệ là mẹ yên chí lớn.

Ngà ôm cổ mẹ, cười như nắc nẻ:

– Trời ơi, con không ngờ mẹ chưa già đã lẩm cẩm! Theo con, người tốt như bà, giờ này chắc phải đang “hưởng phước” trên thiên đàng mới hợp lý.

Mai cười theo con:

– Ừ, mẹ cũng biết điều đó. Nhưng mẹ thương ngoại quá, cứ “nghĩ đại” như vậy, có chết ông tây đen nào đâu mà sợ. 

Rồi nhìn đồng hồ Mai hối con:

– Lẹ lẹ lên cô nương, kẻo trể giờ học tiếng Việt. Tuần rồi mẹ nghe cô giáo nói sẽ dạy tụi con bài Lòng Mẹ của nhạc sĩ Y Vân đó. Bài này mẹ đã từng hát cách đây 40 năm.

Ngà lúc lắc cái đầu, tay vuốt mái tóc huyền chảy xuống tới thắt lưng:

– Con biết bài đó rồi, con nghe trong cuốn băng của cô Hoàng Oanh.

Rồi con bé cất giọng trong như giòng suối mát:

Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào

Lòng mẹ tha thiết như giòng suối hiền ngọt ngào…

Mai không ngăn được niềm cảm xúc, len lén đưa tay chùi vội giọt nước mắt vừa lăn tròn xuống má, gọi thầm: Mẹ ơi…

 

Tiểu Thu