Wednesday, November 6, 2024

Hương Xuân - Tiểu Thu


Buổi chiều đi làm về, nghe mẹ báo tin năm nay nhà mình và nhà bác Minh sẽ ăn Tết chung. Liên cười trả lời mẹ: 
-Càng vui. Xưa nay nhà mình ăn Tết cu ky, buồn thấy mồ.  
Buổi tối trong bàn ăn, bà Thuần, mẹ Liên, nói: 
-Mới đó mà nhà bác Minh dọn tới khu này gần hai năm rồi. Thời gian đi mau phát sợ luôn! Ở tuổi mẹ, càng mong nó đi chậm bao nhiêu nó lại càng phi nước đại bấy nhiêu. Chẳng mấy chốc mà xuống lỗ! 
Bé Uyên, đứa con gái mười ba tuổi của Liên, vội vàng đính chánh: 
-Đâu có. Con thấy ngoại còn trẻ lắm mà. Ngoại mới sáu mươi hai, bà Minh bảy mươi, còn già hơn ngoại nhiều!  
Bà Thuần cười, mắng yêu con bé: 
-Mẹ mày! Chỉ giỏi nịnh. Tuổi bà ở Việt Nam, mọi người đã phải gọi bằng Cụ rồi. Ở đó mà trẻ lắm! 
Liên ngắt lời: 
-Còn một tuần nữa là Tết. Năm nay mẹ có định gói bánh tét như năm ngoái không? Con thấy gói vui nhưng mẹ cực quá. Hay mình đặt dưới tiệm dì Ba cho rồi. 

-Ối, ngoài bữa cơm chiều mẹ cũng đâu có bận rộn gì. Một năm mới có một lần. Hơn nữa mẹ gói bánh tét ba màu, biếu nhà nào họ cũng thích. Để mẹ rủ bác Minh qua gói với mẹ cho vui. 
– Mẹ vui là được rồi. Ngày mai thứ bảy, con chở mẹ đi chợ Kim Phát mua những thứ mẹ cần. Bánh mứt năm nay không biết sao, chớ đọc báo thấy hàng Trung Quốc ngán quá! 
Tiến, chồng Liên, xen vô: 
-Em tính đi. Hồi nào tới giờ em “tiếp thu” bao nhiêu chất độc trong  hàng hoá, thực phẩm chế biến từ Trung Quốc? Cứ tưởng ăn chay với đậu hủ là an toàn nhất. Ngờ đâu trong đậu hủ cũng có độc luôn! Rau, quả cũng đầy thuốc trừ sâu. Thôi, anh xuôi theo tự nhiên. Chừng nào ông trời gọi “Tiến” thì anh dạ. Nếu sợ thì chỉ có nước nhịn đói thôi em à! 
-Xời, nói như anh! Hồi nào không biết thì ăn, bây giờ biết rồi cũng phải tránh chớ bộ!  
-Cưng ơi, thịt bò, thịt heo, thịt gà ở đây họ cũng cho hormone tăng trưởng như điên. Em không thấy ngày xưa ở Việt Nam. Con gái mười bốn, mười lăm mới thấy “kinh” lần đầu. “Mặt tiền” giống như hai cái chũm cau. Con nít bây giờ í hả. Chín, mười tuổi đã “có” rồi và thay vì những cái chũm cau, toàn là cam với bưởi không à! 
-Trời đất! Sao anh rành sáu câu vậy hả? Liên tròn mắt. 
Tiến trả lời tỉnh bơ: 
-Thời “A Còng” mà em. Cứ lên mạng là thứ gì cũng có. Cả những “chiện” thâm cung bí sử từ thời ông Bành Tổ. Ngay những phương pháp giết người cũng có luôn mới là khiếp! 
Liên nhăn mặt: 
-Anh, trước mặt con mà anh nói chuyện ghê quá hà… 
Nhưng bé Uyên lại có thắc mắc khác: 
-Mẹ à, ông Bành Tổ là ông nào vậy mẹ? Trong lớp con có thằng tên Bành Trung Hiếu.  
Liên hất hàm qua phía chồng: 
-Con hỏi ba con kìa. Chắc ổng rành hơn mẹ! 
Tín cười hì hì: 
-À, đó là một ông già sống lâu nhất lịch sử nhân loại. Nghe đâu ổng sống tới tám trăm tuổi mới chịu khăn gói quả mướp về bên kia thế giới. À mà hôm nào con hỏi thằng bạn con, chắc nó rành hơn ba. Thế nào họ cũng có bà con mà. 
Nói xong Tiến đứng lên, xin phép mẹ vợ rồi đi ra phòng khách mở TV xem tin tức. Liên nhìn theo, lắc đầu: 
– Mẹ coi, ảnh già đầu rồi mà cứ như con nít! 
Nhưng bà Thuần cười hiền hậu: 
– Nhờ vậy mà vui cửa vui nhà. Ba con hồi trước nghiêm quá, thành ra tới bữa cơm ai cũng cắm cúi ăn. Nhà mình không có tiếng cười như bây giờ. Thôi để chút nữa mẹ gọi điện thoại nói chuyện chơi với bác Minh. Luôn thể rủ bác thứ năm qua nhà mình gói bánh tét với mẹ. Mẹ và bác Minh coi vậy mà có duyên. Ai ngờ hơn nửa thế kỷ còn gặp lại trên đất nước xa cả nửa vòng trái đất! Nhớ tới chuyện xưa mẹ còn buồn vô cùng! Thương cho bác và cậu hai của con! 
Nói xong  cặp mắt bà Thuần hơi ửng đỏ. Liên vội vàng gạt ngang: 
-Thôi, mẹ nhớ làm gì những chuyện buồn như vậy. Bề nào cậu hai cũng mất rồi. Hơn nữa con thấy bác Minh vẫn vui vẻ chớ có buồn rầu gì đâu! Ở đời ai cũng có số mà. Mà mẹ quên câu “tình chỉ đẹp khi còn dang dở, lấy nhau rồi… nham nhở lắm em ơi!” hay sao? 
Bà Thuần đang buồn cũng phải bật cười. Cái con nhỏ này tếu giống hệt bà hồi trẻ. 
-Bà ngoại. Bà ngoại kể lại chuyện ông cậu hai với bà Minh cho con nghe đi. Hôm trước con có nghe mà không để ý lắm. Như là ông cậu với bà Minh ngày xưa bồ nhau phải không? Bé Uyên nắm tay bà ngoại lắc lắc, miệng cười duyên. 
-Khiếp! Con nít con nôi mà nghe chi mấy chuyện này! Liên nhăn mặt. 
-Không sao. Mười ba tuổi cũng đâu còn nhỏ nhít gì. Để bà kể cháu nghe. Chuyện bắt đầu hồi bà mới tám chín tuổi gì đó. Gia đình ông bà ngoại ở Sàigòn, ngay Ngã Tư Bình Hòa. Ông cậu Hai của con năm đó hai mươi tuổi. Bà dì Ba mười bảy. Bà dì hồi con gái đẹp lộng lẫy. Da trắng như trứng gà bóc, mắt mũi đều đẹp như tranh. Mới mười lăm tuổi mà có cả chục chỗ đi coi mắt rồi đó. 
Bé Uyên ngây thơ hỏi: 
-Mắt bà dì bị gì mà người ta tới coi hả ngoại? 
Liên phì cười: 
-Coi mắt tức là đến nhà để xem bà dì xấu hay đẹp. Bà dì con nổi tiếng vừa đẹp vừa khéo. Được cả công dung ngôn hạnh nên nhiều người muốn cưới về làm vợ, hiểu chưa! 
Con bé nghe mẹ nói một tràng bèn le lưỡi, rụt cổ, tỏ dấu ngạc nhiên: 
– Còn bà ngoại, hồi nhỏ xấu hay đẹp hả ngoại? 
-Ngoại hả? ngoại vừa đen vừa lùn, răng cỏ rất là vô trật tự. Nhưng  “có diên” nên được mọi người cưng lắm!  


Bé Uyên chống tay ngồi nghe. Bà Thuần, cặp mắt mơ màng, như đang sống lại cái thuở còn là một con bé tám tuổi, hàng ngày cắp sách đến trường Tiểu học Chi Lăng, gần Lăng Ông Bà Chiểu…  
….Mẹ có cửa hàng bán gạo ngoài chợ Cây Quéo. Ba đi làm ngoài đường Tự Do. Anh Thiên học xong trung Học Pétrus Ký thì ghi tên học y tá. Chị Thu phụ mẹ ngoài cửa hàng. Gia đình có thể nói là êm ấm. Anh Thiên đẹp trai như tài tử xi nê nên được nhiều cô thương thầm. Trong số nữ sinh trong lớp có chị Thu Nguyệt. Chị thấy anh Thiên bảnh quá bèn rủ về nhà giới thiệu cho cô em gái tên Minh Nguyệt. Chị Thu Nguyệt đã có vị hôn phu là một sĩ quan Hải Quân. Trong nhà có ba cô con gái, mà cô nào cũng Nguyệt, nên họ có thói quen chỉ gọi tên lót. Do đó chị Minh Nguyệt được gọi tắt là Minh. 

Năm đó chị Minh mười bảy tuổi. Khác với bà chị, chị Minh rất dịu dàng, nhỏ nhẹ. Chị có làn da trắng mịn và mái tóc thề xõa ngang lưng. Chị hay buộc tóc bằng chiếc băng đô màu tím, khiến khuôn mặt trái soan của chị càng nõn nà, xinh đẹp quyến rũ. Hàm răng đều, trắng như ngà. Khuôn mặt chị hoàn mỹ biết bao, nếu không có một nốt ruồi đen mọc ngay dưới khoé mắt! Dĩ nhiên trai tài gái sắc gặp nhau là dính như sam. Ba mẹ Thuần  theo tây học nên đâu có thèm để ý đến lời “cảnh cáo” của bà chị dâu “Thím tư thấy sao chớ cái nút ruồi trích lệ thương phu này không mấy tốt à nghen”. Ông bà trả lời “tụi nó thương nhau là được rồi. Con nhỏ vừa đẹp vừa hiền, tụi em ưng bụng lắm.” 

Bé Thuần đã từng theo mẹ đến thăm gia đình chị Minh. Nhà họ ở gần Cầu Bông. (Vì thế, sau này cứ nghe người ta hát ai đang đi trên Cầu Bông, té xuống sông ướt cái quần ny lông, là Mỹ Thuần lại nhớ đến chị  Minh, lòng rưng rưng buồn!). Mẹ chị góa chồng và tu tại gia. Bà ốm nhom như con mắm, đầu cạo trọc và mặc áo màu dà, nói năng nhỏ nhẹ. Hai gia đình qua lại rất thân mật và đã ngầm nhận nhau là sui gia. Chị Minh đến nhà Mỹ Thuần, xuống bếp nấu nướng thoải mái như ở nhà chị. Anh Thiên chầu đằng xóm Cầu Bông nhiều hơn xóm Bình Hòa. Hai nhà hứa hẹn khi anh Thiên ra trường sẽ làm đám cưới.  

Nhưng (chữ nhưng thật dáng ghét!) đùng một cái ông nội dưới quê đau nặng. Chú út của Mỹ Thuần đưa ông cụ lên nhà thương Saint Paul. Họ khám phá ra ông bị ung thư cuống họng. Điều trị gần một năm bịnh tình vẫn không thuyên giảm. Cuối cùng gia đình đành đem ông cụ về quê tịnh dưỡng… Một mình chú Út không thể vừa săn sóc cha vừa trông nom ruộng vườn, nên theo lệnh ông nội, gia đình Mỹ Thuần phải dọn về quê. Trừ anh Thiên đang học dở dang, phải ở tạm nhà người bác. Cô bé Mỹ Thuần và con bạn hàng xóm tên Kim Chi khóc mùi mẫn ngày cả nhà chất nhau lên xe rời Saigòn. Nhưng người buồn nhất có lẽ là mẹ. Công lao bà gầy dựng nên cửa nên nhà,  bây giờ phải bán dổ bán tháo cho người ta! May mắn lúc đó dân di cư vào rất đông, vừa để bảng bán là có người mua ngay. 

Tuổi trẻ mau quên, nên sau một thời gian ngắn là bé Thuần lại tiếp tục vui đùa với những người bạn mới và học hành bình thường. Chị Mai Thu có người đi hỏi. Ba mẹ bằng lòng ngay, vì anh Phú đúng điệu là một trang nam tử hán! Anh cao lớn, cặp mắt sâu sáng quắc dưới hàng lông mày rậm. Cái miệng nói chuyện dẻo quẹo, nhưng mà thứ dẻo quẹo thiệt tình chớ không phải giả dối. Ngoài nhân vật chính là chị Mai Thu yêu anh da diết, hầu như cả họ đều thích anh nên đám cưới được tổ chức thật linh đình. Có một điều ông nội không mấy hài lòng, là gia đình anh Phú không được môn đăng hộ đối! 


Anh Thiên sau khi ra trường về làm việc bên Long Xuyên. May quá, nơi đây có nhà bà cô của chị Minh. Ông bà không con, nên cưng anh Thiên như trứng mỏng. Thương yêu, săn sóc anh không khác con ruột. Bệnh tình ông nội càng ngày càng tăng. Ông sợ chết trước khi thấy mặt cháu dâu, nên thúc ba mẹ cưới vợ cho anh Thiên gấp. Khi trình với ông nội rằng sẽ cưới chị Minh Nguyệt cho anh Thiên, thì ba mẹ gặp ngay sự phản đối mãnh liệt! Tuy giọng ông thều thào nhưng không kém phần cương quyết: 
-Tao không muốn thằng Thiên cưới con gái Sài Gòn (?!). Hai nữa con nhỏ đó tuy đẹp nhưng có cái nút ruồi trích lệ thương phu. (Xui cho chị Minh, khi ông nội còn nằm nhà thương Saint Paul, anh Thiên có dẫn chị vô thăm  nên ông mới thấy cái nốt ruồi của chị!). Vợ chồng bây có một thằng con trai, chắc bây hổng muốn nó chết yểu chớ hả? Tao đã ngắm con Kim, con gái chú hai Lễ bên Hòa An rồi. Con nhỏ bằng tuổi con Thu nhà mình, mà giỏi lắm, chăn dắt nguyên một đàn em sáu đứa. Trước đây tao có nói hơi hơi với chú hai Lễ rồi. Họ bằng lòng lắm. 
Mẹ Thuần kêu lên thảng thốt: 
– Cha à. Con thấy chị hai Lễ đẻ sòn sòn năm một… 
Ông nội trợn mắt cắt ngang: 
– Bây nói gì kỳ vậy. Con một phải cháu bầy. Bây vỏn vẹn có một thằng con, phải có ít nhứt năm bảy đứa cháu. Hai đứa con gái đâu có ở với mình suốt đời. Bây mà cãi tao là tao từ đó đa! 

Anh Thiên được triệu về gấp để hỏi ý kiến. Trước cái tin sét đánh anh cũng muốn xỉu luôn! Mấy ngày liền anh năn nỉ ông nội, nhưng ông vẫn một mực lắc đầu. Anh định bỏ nhà lên Sài Gòn, nhưng thấy mẹ khóc lóc năn nỉ quá, sau cùng anh phải cắn răng vâng lời ông nội đi cưới chị Kim. 
Anh Thiên không dám gặp cô chị Minh. Anh viết cho hai ông bà  một lá thư, nhờ thằng con chú Út cầm qua Long Xuyên và thu dọn đồ đạc mang về cho anh. Theo lời thằng Trung kể lại thì khi đọc xong bức thư, cô chị Minh ngã lăn ra… xỉu ! Lúc tỉnh lại thì khóc như mưa sa bão táp. Anh Thiên và mẹ nghe xong cũng khóc quá trời! Nhưng người muốn mà trời định. Mà con người thì vốn nhỏ nhoi, địch sao lại với ông Trời!  
Ít lâu sau ông nội ra đi với gương mặt thanh thản và nụ cười mãn nguyện. Có ngờ đâu, để ông vui lòng mà bao nhiêu con tim tan nát. Cuộc tình tưởng đẹp đã trở thành đau thương, ai oán!    

Một năm sau chị Minh lấy một chàng trung úy Hải quân, bạn của ông anh rể. Anh này yêu chị Minh từ lâu, nhưng trái tim của chị đã trao cho người khác. Khi thấy chị Minh đau khổ vì bị anh Thiên bội ước, anh chàng đã đưa bờ vai rắn chắc của mình cho người đẹp mượn đỡ. Cuối cùng chị Minh cũng cảm động và nhận lời cầu hôn của anh ta.  
Trời xui đất khiến một lần anh Thiên qua Long Xuyên thăm vợ chồng bà cô chị Minh (lúc này đã nguôi giận!). Đúng lúc chị cũng đang có mặt ở đó. Chị sững sờ nhìn anh  mấy giây, rồi vội vàng bế con chạy vào buồng, khóc ngất. Gọi gì cũng nhất định không chịu ra. Anh Thiên trở về nhà mà mà lòng nát như tương!!! Thuần không biết chị Minh có thật sự hạnh phúc với chồng không, nhưng phần anh Thiên thì cứ sống với chị Kim một cách ơ hờ. May mà chị Kim tính tình hồn hậu, chất phác. Lấy được anh Thiên là  mãn nguyện, chẳng cần thắc mắc, suy nghĩ sâu xa. Cứ thế mà đẻ sòn sòn năm một như bà mẹ của chị. Chắc ông nội dưới suối vàng rất hài lòng! 


Giòng đời cứ trôi, con người vẫn sống, dù cuộc đời có êm xuôi hay nghiệt ngã. Tháng Tư bảy lăm, tai họa đổ ụp xuống miền Nam. Gia đình tan tác, chia lìa. Anh Thiên là chủ tiệm ăn nên không phải đi học tập. Anh Phước, chồng chị Mai Thu và Khanh, chồng của Mỹ Thuần là quân nhân cấp tá nên bị đưa đi học tập tận ngoài Bắc. Vùng khỉ ho cò gáy, khí hậu khắc nghiệt Hoàng Liên Sơn. Ở lại Sàigòn, hai chị em nương tựa nhau, buôn thúng bán mẹt để vừa nuôi con vừa nuôi chồng học tập cải tạo. May mà Mỹ Thuần chỉ có một đứa con gái là Mỹ Liên. Sau mấy năm lăn lộn chợ trời, Mỹ Thuần cũng có được chút vốn. Sẵn dịp gia đình ông anh chồng vượt biên, cô gởi bé Liên đi theo, năm đó bé được chín tuổi. Gia đình người anh chồng chỉ có hai con trai nên cưng cháu như con ruột.  

Nhờ học tập “tốt” nên mười năm sau, chồng Mỹ Thuần được Đảng khoan hồng, đem cái thân xác xơ, bệnh tật về đoàn tụ với gia đình. Mỹ Liên đã có quốc tịch Canadienne, vội vàng lập hồ sơ xin cho ba mẹ qua theo diện đoàn tụ. Gặp lại đứa con gái thân yêu nay đã là một thiếu nữ dậy thì xinh đẹp, Mỹ Thuần khóc như mưa. Nhưng là những giọt nước mắt hạnh phúc tràn bờ!  
Những tưởng từ đây không gì có thể chia rẻ họ được nữa. Vậy mà cách đây năm năm, ông Khanh đã qua đời vì ung thư gan. Cũng may ông đã nhìn thấy gia đình hạnh phúc của đứa con gái cưng độc nhất. Từ đó vợ chồng Mỹ Liên mời mẹ về ở chung với họ… 

Cách đây mấy tháng, bà Thuần (bây giờ Mỹ Thuần đã là bà ngoại Thuần, tóc diểm sương!) đi chợ Kim Phát. Đang lựa những chùm trái vải đỏ tươi, mọng nước, bà chợt nhìn qua người đàn bà đứng tuổi bên cạnh. Có một cái gì đó khiến bà thấy lấn cấn trong lòng. Hình như bà đã gặp người này ở đâu rồi, nhưng ở đâu? Chắc chắn không phải ở đây. Chắc như vậy. Lúc đứng sắp hàng trả tiền, ngẫu nhiên bà ta lại đứng ngay phía sau. Bà Thuần làm ra vẻ tự nhiên bắt chuyện với bà nọ. Thì ra họ cùng ở St Léonard. Hai nhà cách nhau độ năm phút đi bộ. Coi như hàng xóm mà không bao giờ gặp nhau kể cũng lạ! Cái nốt ruồi dưới khóe mắt? Chưa kịp nghĩ tiếp thì tới phiên trả tiền. Đẩy xe thức ăn ra parking rồi mà bà Thuần còn nấn ná đợi chưa muốn đi. Thấy bà ta ra tới nơi, bà Thuần vội nói: 
-Hai chị em mình coi như hàng xóm. Nếu không phiền em xin số phôn của chị, chị lấy số phôn của em. Hai chị em mình thỉnh thoảng gọi nhau cho vui. Em tên Thuần. Mỹ Thuần. Chị cho em biết quý danh được không? 
Có lẽ tên Mỹ Thuần cũng gợi cho người đàn bà lớn tuổi kia một cái gì đó, nên bà ta nhìn bà Thuần có vẻ chăm chú hơn: 
– Tôi tên Minh Nguyệt. 
Chữ Nguyệt vừa thoát ra khỏi miệng bà ta là bà Thuần đã ào tới ôm bà ta chặt cứng, mếu máo: 
-Trời ơi, chị Minh. Em là Mỹ Thuần, em của anh Thiên nè! 
Nước mắt hòa trong nước mắt. Hai người chỉ biết ôm nhau khóc mùi mẫn. Mặc kệ những cặp mắt tò mò, kinh ngạc đang trố ra nhìn. Đến chừng có tiếng một người đàn ông cất lên, hai bà mới giật mình buông nhau ra. 
-Mẹ! mẹ… làm gì mà khóc dữ vậy? 
Bà Minh lau nước mắt, gượng cười, miệng méo xệch: 
– À Tú. Đây là dì Thuần. Còn đây là Tú, con trai của chị. 
Người đàn ông trạc năm mươi. Mặt mũi có vẻ hiền hậu, nhìn bà Thuần chăm chăm: 
-Dạ chào dì. Cháu là Tú. Chắc dì và mẹ cháu quen nhau từ bên Việt Nam, hôm nay mới gặp lại? 
Bà Thuần chưa kịp mở miệng thì bà Minh đã vội đỡ lời: 
-Ờ, Dì với mẹ hồi xưa ở cùng xóm. Thôi chị về. Rồi chị sẽ điện thoại cho em nghen. 
Bà Minh ôm siết bà Thuần, thì thầm:    
-Chị không muốn cháu Tú biết chuyện xưa. Em thông cảm cho chị. 
Trao đổi số điện thoại xong, bà Minh theo con trai ra xe. Bà Thuần đứng đó, nhìn theo bóng người xưa của ông anh, lòng bồi hồi khôn tả! Buồn vì nhớ tới người anh quá vãng đã mấy năm. Vui vì dù sao bà Minh cũng là một phần dĩ vãng của bà. Kỷ niệm dù vui, dù buồn vẫn đẹp. Nhớ lại thì lòng cũng thấy xuyến xao.! 


Về nhà bà Thuần kể ngay cho Mỹ Liên nghe cuộc hội ngộ kỳ thú vừa qua. Tối đó cơm nước xong, dằn lòng không được, bà Thuần nhấc phôn gọi cho bà Minh. Hai người tỉ tê tâm sự cả tiếng đồng hồ. Thì ra ông Tuấn, chồng bà Minh sau này lên tới Trung Tá Hạm Trưởng. Hai người có ba đứa con. Một trai, hai gái. Tú may mắn được bố mẹ cho sang Canada du học trước ngày mất nước. Chồng bà Minh bỏ xác trong trại cải tạo. Chính Tú là người bảo lãnh bà và hai cô em gái qua Canada. Trước kia Tú có vợ người bản xứ. Nhưng hai người đã ly hôn và bà Minh về ở với con trai cho tới bây giờ. Bà săn sóc con trai và hai đứa cháu nội. Bà Thuần không nén nỗi, đưa ra câu hỏi mà trong lòng bà vẫn thắc mắc từ lúc gặp lại bà Minh: 
– Chị à, em hỏi thật chị đừng giận nha. Có khi nào chị nhớ tới anh hai của em không? 
Sau mấy giây yên lặng, có tiếng cười khẽ từ đầu giây bên kia: 
– Cô này thiệt tò mò! Nếu chị nói không thì thật sự dối lòng. Dù sao anh Thiên cũng là mối tình đầu của chị. Em còn nhớ bản nhạc Sầu Lẻ Bóng của nhạc sĩ Anh Bằng hay không? 
Người ơi khi cố quên là khi lòng nhớ thêm, 
Giòng đời là chuỗi tiếc nhớ… 
…………………………………….. 
Đời việc gì đến sẽ đến, 
Nhưng ai bạc bẽo mình vẫn không đành lòng quên! 
Tuy là anh Tuấn yêu chị thiết tha, nhưng con tim trong trắng của chị đã bị thương tổn. Rồi vết thương nào cũng thành sẹo em à! Thật tình chị không trách anh Thiên. Có đứa cháu nào nỡ trái ý người sắp lìa đời. Nếu là chị, chị cũng sẽ hy sinh hạnh phúc của mình như anh hai em thôi. Chính vì nghĩ như vậy nên chị không hề oán hận anh ấy. Mà thôi, chuyện đã qua hơn nửa thế kỷ rồi. Chúng ta đều đầu hai thứ tóc. Cho nên việc gì cũng phải xem nhẹ. Từ lâu rồi, tâm hồn chị rất là an lạc, thảnh thơi.  
-Nghe chị nói vậy em rất mừng. Em sợ chị vẫn còn giận anh hai em. Thứ bảy tới em mời chị và các cháu tới nhà em ăn bánh xèo nghen. Cải xanh em trồng trong vườn bảo đảm là ngon. 
Bà Minh vui vẻ nhận lời. Và kế tiếp là những bữa cơm thân mật khi thì nhà bà Minh, lúc lại nhà bà Thuần. Hai bà tỏ ra rất tâm đắc… 
     
-Ngoại ơi, chuyện của bà Minh với ông cậu hai tội nghiệp quá hả bà. Ông nội của ngoại sao méchant quá hà. Nếu là con, con không chịu đâu! Bé Uyên dẩu mỏ nói với ngoại. Bà Thuần cốc đầu con bé: 
– Con có biết ngày xưa áo mặc không qua khỏi đầu hay không? Ở đó mà không chịu! Thôi, năm nay nhà mình tổ chức ăn tết thật to nha. Bà ngoại sẽ gói mười đòn bánh tét nè, sẽ làm chạo tôm nè, gỏi ngó sen, bạch mộc nhĩ trộn tôm thịt nè… 
-Thịt kho nước dừa ăn với dưa giá. Con mê món đó của ngoại làm. Bé Uyên ngắt lời bà Thuần. 
– Ừ, thì thịt kho nước dừa. Mà con nhớ tiếp đãi hai đứa cháu bà Minh cho thật tốt nghen. Hôm trước ngoại thấy con la con Alice làm nó khóc. 
-Tại nó phá đồ của con, Bé Uyên nhăn mặt. Mà thôi lần này Tết, con sẽ không la nó nữa.  
                                                                  
Đúng bảy giờ có người bấm chuông. Bé Uyên xinh xắn trong chiếc áo dài gấm màu hồng đào, nổi những đóa mai, lan, cúc trúc màu vàng ánh. Mái tóc thắt hai cái bím cột ru băng hồng, chân mang hài cũng màu hồng, chạy ra mở cửa. Cả nhà bốn người của bà Minh mặc áo măng tô từ đầu tới chân đi vào, xuýt xoa vì lạnh. Tiến từ trong nhà chạy ra bắt tay Tú, rồi treo những chiếc áo lạnh dày cộm vô tủ, xong mời mọi người vào phòng khách. 

Bà Minh hôm nay thật đẹp trong chiếc áo dài gấm Thượng Hải màu xanh đậm. Cổ đeo chuỗi hạt vàng. Mái tóc nhiều muối hơn tiêu được bới gọn ra  phía sau, để lộ đôi bông cẩm thạch xanh biếc. Bà trang điểm thật nhẹ  nhàng nhưng trông rất sang trọng. Hai đứa cháu nội mặc đầm. Chúng cứ theo rờ rẩm chiếc áo dài của bé Uyên, tỏ vẻ thích lắm. Bà Thuần từ trong phòng ăn đi ra. Ở tuổi sáu mươi hai, nhưng trông bà còn rất mượt mà trong chiếc áo dài màu tím hoa cà, có thêu những đóa mimosa vàng rải rác. Bà đeo toàn bộ nữ trang bằng hạt trai. Tóc cắt ngắn thật đơn sơ nên trông bà trẻ hơn tuổi thật rất nhiều. Mỹ Liên cũng mặc áo dài gấm màu vàng hoàng hậu, đeo nữ trang Chanel cho có vẻ tân thời.  
Tiếng chào nói, chúc tụng dòn tan như pháo nổ. Giữa phòng khách là chiếc độc bình bằng sứ, cắm những cành đào hoa nở bung khoe sắc hồng  tươi thắm. Củi trong lò sưởi nổ tí tách, ánh lửa đỏ nhảy múa trông thật ấm cúng. Bà Thuần mời mọi người qua phòng ăn. Dưới ánh đèn pha lê lung linh sáng, những đĩa thức ăn được bày kín trên chiếc bàn dài phủ khăn màu trắng tinh. Chỉ mới nhìn thôi đã thấy ngon, bà Minh không ngớt xuýt soa! Những cây chạo tôm bọc mía nướng vừa vàng, được xếp nằm khéo léo trên những lá sà lách xanh non. Đĩa gỏi ngó sen, bạch mộc nhĩ, tôm, thịt được Mỹ Liên trang trí thêm bằng những bông hoa khắc từ cà rốt, radis thật mỹ thuật… Nhưng đặc biệt hơn cả là đĩa bánh tét. Những khoanh bánh được cắt ra, xếp ngay ngắn trong chiếc đĩa sứ  màu trắng, càng làm tăng  nét đẹp của màu sắc trong chiếc bánh. Vòng ngoài cùng, nếp  trộn lá dứa nên có màu xanh cẩm thạch. Vòng kế, nếp trộn lá cẩm có màu tím. Vòng thứ ba là đậu xanh bóc vỏ màu vàng tươi và chính giữa là thịt heo ướp vừa miệng. Ăn miếng bánh vừa thơm, vừa bùi vừa béo. Món này bà Thuần học được từ người cô, lấy chồng miệt Sa Đéc. Nghe đâu những bà thuộc diện khéo vô địch, khi cắt ra, chính giữa khoanh bánh còn có chữ Thọ. Mục này thì bà xin chào thua! 


Tú có đem một cặp rượu Champagne để uống mừng ngày Tết tha hương. Cũng là để mừng cuộc trùng phùng hy hữu của hai bà “hàng xóm” ngày xưa bên Việt Nam. Trước khi cầm đủa, Champagne được rót vào những chiếc ly pha lê trong vắt (cánh nhi đồng chỉ được uống coca!). Mọi người nâng ly, trao nhau những lời chúc tốt lành nhất cho năm mới. Trên môi là những nụ cười rạng rỡ, nhưng trong khoé mắt của hai bà mẹ lấp lánh những giọt lệ. Trong lòng hai bà đang dâng trào một niềm hạnh phúc khó tả. Lâng lâng như sương khói (mà chắc chắn không phải vì ép phê của rượu Champagne!). Tuy ngoài trời tuyết lất phất rơi, nhưng trong ngôi nhà ấm cúng, hương xuân vẫn ngào ngạt trong lòng mọi người… 
Bé Uyên không quên nhắc nhở: 
-Ngoại, ba mẹ, đừng quên tiền lì xì cho Alice với Aline à nha. 
Bà Thuần cười: 
-Con nhỏ này. Bữa nay sao hiền quá vậy kìa! 
Bé Uyên nháy mắt: 
– Hôm nay Tết mà ngoại! 
 

Tiểu- Thu

LIVE: Bài Phát Biểu Trực Tiếp Của TT Trump Sau Khi Thắng Cử - Rachel Quý

Nghề Tay Ngang – Nghiệp Hốt Rác - Đào Nguyên Hà

 
Cơ sở hạt nhân Hanford ở Washington, Mỹ. Ảnh: Wikipedia


LTS: Người tị nạn Việt khi đặt chân tới đất nước nổi tiếng là nhiều cơ hội này, bất kể kinh nghiệm trước đó, đã phải làm đủ các thứ nghề để sinh sống. Có người còn làm tới mấy nghề khác nhau một lúc, vì nhu cầu một phần nhưng cũng vì việc sẵn đấy, muốn là xin được, không phải như tại nhiều nước khác, kiếm được một việc làm là điều may mắn. Nhưng có lẽ không ai hay ít có người làm nghề mà tác giả Đào Nguyên Hà sẽ kể với độc giả trong bài viết dưới đây. Chính tác giả ban đầu cũng không ngờ là mình đã sinh sống bằng nghề này sau khi đã thử qua các nghề khác, như mở tiệm bakery sau khi đi học làm bánh, rồi họa viên công chánh, chưa kể nghề thường xuyên là… nội trợ và nuôi một bầy con nhỏ ba đứa.

Trong số báo này, chúng tôi hân hạnh giới thiệu bài viết về cái nghề khá độc đáo của chị Đào Nguyên Hà, một thân hữu của Tôi Yêu Tiếng Nước Tôi. Chị về hưu đã mấy năm nay, hiện sống ở tiểu bang Washington và dành thì giờ đi du lịch các nơi. Một nơi chị và phu quân, anh Hà Quốc Bảo, không năm nào mà không về thăm vào mỗi cuối năm là Sài Gòn, để sum họp với “các con”— những người con này là các sinh viên hiếu học mà anh chị đã tài trợ từ nhiều năm qua, hiện còn đang theo học y khoa hay đã ra trường và đang hành nghề bác sĩ. (TYTNT)

—————–
Hồi nhỏ, tôi sống bình dị ở phố núi hiền hoà Đà Lạt. Giấc mơ của cô gái nhỏ cũng đơn sơ như vùng đất mình ở vậy. Tôi mơ lớn lên làm cô giáo, mơ gặp được người mình thương và thương lại mình, mơ làm đủ tiền để gửi con đi học ngoại quốc để khi nó ra trường thì mình có dịp đi ngoại quốc dự lễ tốt nghiệp của con rồi du lịch cho biết đó biết đây.
 
Rồi những mơ mộng dần dần thay đổi theo năm tháng. Từ nghề cô giáo thành nghề thầy thuốc, rồi có lúc tôi lại chỉ muốn làm nội trợ. Người thương minh thì có gặp đôi lần mà người mình thương lại thì chưa thấy… Nhưng kệ, tôi cứ mơ để có động lực thúc đẩy mà nổi trôi với cuộc đời.

Rồi cuộc đổi đời năm 1975 đem lại những điều tôi chẳng thể ngờ tới. Nay đã qua tuổi 70, ngồi duyệt lại những thăng trầm trong cuộc đời, tôi mới hiểu có mơ ước thế nào thì cũng không qua khỏi số. Có bao giờ tôi tưởng tượng nổi là tôi đã vật lộn với một đống rác khổng lồ trong gần 40 năm trên đất Mỹ. Tôi đã dọn rồi hốt, hốt xong đem cất, rồi lại dọn, lại hốt, lại cất… Cứ vậy mà 40 năm chạy qua cái vù.

Bây giờ tôi sẽ kể về xuất xứ của đống rác và tại sao tôi lại có cái nghiệp dính vào nó nhé.

Khoảng năm 1940 khi thế chiến thứ hai bắt đầu, chính phủ Mỹ ráo riết muốn sản xuất ra vũ khí nguyên tử trước nước Đức, nên mới có dự án Manhattan. Dự án này là tìm phương pháp tách plutonium là nhiên liệu làm vũ khí nguyên tử từ uranium, đồng thời thiết kế và xây cơ sở để sản xuất nhiên liệu này.

Để hoàn thành, dự án đã quy tụ khoảng 130,000 người kể cả khoa học gia, kỹ thuật gia, nhân viên bàn giấy và thợ thuyền. Kinh phí khoảng 2 tỉ đồng Mỹ kim hồi đó, tương đương với 24 tỉ đồng ngày nay. Dự án nghiên cứu, thiết kế nguyên thủy từ Chicago, nhưng xây cất nhà máy sản xuất chính là tại khu Hanford ngoại ô thành phố Richland, tiểu bang Washington.

Vì dự án lúc bấy giờ được xếp vào loại bí mật quốc phòng, nên địa điểm xây nhà máy cũng được chọn lựa kỹ càng, để giữ sự biệt lập và không gian phải đủ điều kiện để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của dự án về phương diện kỹ thuật. Hanford là vùng đất khoảng 1,000 dặm vuông, nằm cạnh dòng sông Columbia, là một địa điểm lý tưởng cho việc xây dựng lò nguyên tử. Thứ nhất là cô lập, cách xa khu đông dân cư, thứ hai là gần nguồn nước để làm nguội nhà máy điện. Khi quyết định được chấp thuận thì trong vòng một tháng, khoảng 1,500 cư dân đã được bí mật di tản ra khỏi vùng đất này, với khoản tiền bồi thường rất nhỏ.

Khu sản xuất này dự trù được hoàn thành trong vòng 30 tháng, gồm một lò điện nguyên tử và khoảng 530 cơ sở lớn nhỏ.  Công trình lúc đầu tuyển mộ khoảng 16,000 nhân viên, bao gồm chuyên viên kỹ thuật, thợ thuyền, nhân viên y tế và bếp núc.
Nhân viên ở đây có đời sống và sinh hoạt như trong trại lính. Được chu cấp chỗ ăn, và ngủ trong những barracks lớn. Đồng thời chuyện giao tiếp cá nhân cũng bị hạn chế gắt gao bởi nhiều quy luật được đặt ra để bảo vệ tuyệt đối sự bí mật của dự án.
Năm 1943 công trình xây cất bắt đầu, và hơn một năm sau lò nguyên tử kích động Uranium thành plutonium-235, plutonium-239 được hoàn thành (B-Reactor) với tầm thước lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, cùng với một số nhà máy chế biến, dùng chất hóa học để tách plutonium ra khỏi  uranium được tạo ra từ lò nguyên tử.

Năm 1945, Hanford sản xuất mẻ plutonium đầu tiên, và được dùng để chế quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Narasaki ở Nhật vào tháng 8 cùng năm.  Hai quả bom này đã làm Nhật nhanh chóng đầu hàng, chấm dứt thế chiến thứ Hai.

Sau đó, với sự căng thẳng giữa Mỹ và Nga, thế giới chiến tranh lạnh được thành hình, và dự án Mahattan đã bành trướng để tiếp tục sản xuất nguyên liệu cho cuộc chạy đua vũ khí nguyên tử, kết quả là với một lò nguyên tử đầu tiên năm 1944, đến năm 1953 đã có 9 lò nguyên tử tại Hanford.

Từ khi bắt đầu xây cất đến khi hoàn thành, chính phủ Hoa Kỳ đã mướn khoảng 51,000 nhân công. Vì dự án quá lớn và cần bảo mật quốc phòng, nên nhân công làm việc ở khu Hanford bị cô lập tối đa, và họ chỉ biết hoàn thành công việc của mình, trong phạm vi nhỏ hẹp. Sự tiếp xúc với nhân viên khác và công việc lân cận bị giới hạn triệt để, nên không ai biết tổng thể dự án, và cũng không biết mình đang xây một công trình của khu chế xuất nhiên liệu cho vũ khí hạt nhân.

Công việc sản xuất plutonium đã để lại một đống rác khổng lồ vừa thể lỏng, vừa thể rắn, và tất cả đã bị phóng xạ hoá, rất nguy hiểm cho người tiếp xúc. Cả môi trường chung quanh từ đất đai, mạch nước và không khí cũng bị ô nhiễm. Việc giải quyết đống rác này rất phức tạp và tốn kém rất nhiều, vì loại rác này vẫn âm ỉ phóng xạ cả trăm năm hay cả ngàn năm, không ai biết được.

Đến năm 1973 toàn khu chế xuất đóng cửa hoàn toàn và Bộ Năng Lượng (Department of Energy) chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc giải quyết đống rác này. Bộ Năng Lượng ký hiệp ước sẽ dọn dẹp, cất giữ và trả lại cho tiểu bang cùng người da đỏ mảnh đất lành mạnh như trước.

“Rác” dạng lỏng là hoá chất thải ra trong quá trình tách plutonium-235 ra khỏi uranium, và dạng rắn là dụng cụ, thùng chứa, hầm chứa, ống kim loại chuyển rác lỏng, xác các lò nguyên tử, tàu ngầm và vùng đất đã nhiễm phóng xạ


Lan man giới thiệu lịch sử của đống rác, mà số mệnh của tôi đã đưa đẩy tôi gắn chặt vào hơn 35 năm. Chắc tử vi trong cung quan lộc phán là lớn lên làm “nghề hốt rác” nên chạy đi đâu cũng không khỏi số. Định mệnh đã an bài, đành nhắm mắt đưa chân với hy vọng ông trời dành cho chút đỉnh ân sủng mà thôi.

Đặt chân đến xứ Mỹ vào tháng 3 năm 1979 tại Fremont, California, trong vòng hai tuần, thì nhà tôi được phỏng vấn, và đi làm ở thành phố Richland, tiểu bang Washington. Mẹ con chúng tôi vẫn còn nấn ná ở lại Cali với nhà bảo trợ đến tháng Năm, vì phải đợi nhà tôi có lương, mới đi tìm thuê chỗ ở được. Hai tháng ở lại Cali tiếp xúc với hội viên của nhà thờ bảo trợ, với những người thân, và những người bạn mới, tôi bịn rịn không muốn ra khỏi Cali, không muốn rời xa môi trường mà tôi thấy bắt đầu được thoải mái sau bao biến cố từ thay đổi chế độ, đến lăn lộn kiếm sống, và cuộc hành trình vượt biển gian khổ.

Mẹ con tôi đến Richland vào cuối Đông, cây cỏ hoàn toàn xám, cây không lá, cỏ úa vàng, không bóng dáng của một nụ hoa, lòng tôi hơi chùng lại, nhưng phải tự an ủi rằng, số trời đã định ơn trên đã run rủi cho đến được chốn bình yên, là quý rồi.

Lòng tự nhủ, mình phải làm lại cuộc đời, nhưng không biết khởi sự từ đâu, tiền bạc không có, nghề ngỗng thì từ ngày tốt nghiệp chẳng đụng đến kiến thức học được để tìm kế mưu sinh. Vốn liếng Anh ngữ là sinh ngữ thứ hai ở trung học, và hai năm học hội Việt Mỹ cứ tưởng có chút đỉnh dằn túi, nhưng thực tế thật phũ phàng ngay từ lúc đặt chân đến bờ tự do. Tiếp xúc với nhà bảo trợ, hội viên nhà thờ, đi chợ búa hoàn toàn không hiểu và không nghe được một chút gì, lúc ấy tôi thật hụt hẫng, hoảng hốt và mất tự tin.

Ngày xưa đi học thì ráng học cho giỏi, để cô thầy yêu quý để ý tới, ngày nay không còn lựa chọn, phải ráng học để kiếm miếng cơm cho gia đình, và tìm một chỗ đứng trong môi trường mới. Học nghe, học nói, học gói, học mở, học chữ, học lái xe, học cắt tóc, học nấu ăn, học cái hay lẫn cái dở của người bên cạnh. Gặp gì học nấy, học tuốt luốt, ai dè cũng được việc, khả năng sinh tồn của con người thật kỳ diệu.

Công việc đầu tiên của tôi trên đất Mỹ là làm họa viên cho một công ty xây cất nhà máy điện nguyên tử (lò xả rác).  Xin được việc cũng nhờ ông chồng làm việc cũng khá uy tín nên giới thiệu là họ nhận ngay. Resume thì cũng vẽ vời tí ti, dựa hơi làm việc tại văn phòng thiết kế và xây cất ở Việt Nam, nhờ đó quen thuộc với công việc vẽ vời và tính toán bê tông cốt sắt chút đỉnh, nên viết vào resume cho xôm tụ.  Nghề này thực sự không đòi hỏi sinh ngữ nhiều, chỉ có chút khái niệm về hình học không gian, biết sử dụng thước vẽ, học vài từ về kỹ thuật là an toàn, may mắn hơn nữa ông chồng là xếp của mình nên ngôn ngữ bất đồng không thành vấn đề nữa. Chồng thiết kế, vợ vẽ, tưởng là lý tưởng, nhưng than ôi thật là “bé cái nhầm”, ông xếp tôi khó tánh quá, không một bản vẽ nào trình lên mà không bị quẹt đỏ, mình phàn nàn thì ông ấy bảo phải có tự  ái dân tộc, bản vẽ phải hoàn hảo, tính toán phải chính xác, thì người ta không coi thường dân nhược tiểu được.

Năm 1981, thấy mấy ông bạn của chồng lục tục đi thi Engineer in Training (EIT), tôi lo nấu cơm cho mấy ông ấy ăn, ngày nào cũng nghe các ông nói về chủ đề này. Nghe mãi thành quen, lại nghe nói có chứng chỉ này thì tìm việc dễ hơn và lương khá hơn, nên tôi nảy ra ý định thử thời vận xem sao. Bên cạnh có thầy, có tài liệu sẵn thì sao không chụp lấy cơ hội, thế là lều chõng đi thi. Chắc tử vi có Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương đắc địa nên thi cử xuôi rót, vồ mảnh bằng EIT được liền.  Nhìn trước mắt lòng phấn chấn cứ tưởng quan lộ mở ra thênh thang nên nhắm mắt đổi job liền, đâu biết mình đang đi vào “khổ lộ”.  May mắn làm sao số có “quới nhân” phù trợ, học bài “moments distribution” thật kỹ, vô phỏng vấn trúng tủ, thế là tìm được việc cùng làm với các bậc tiền bối như các anh bạn của chồng (một dạo trọ ở nhà tôi và được tôi nấu cơm cho ăn). Tôi đi làm “quan tắt” khá dễ dàng, vì có gì không biết, thì đã có các anh cố vấn kỹ thuật đỡ đần. Ở Việt Nam tôi học Hóa Hữu Cơ mà giờ nhảy ngang vào ngành thiết kế sắt và bê tông cốt sắt, quả thật là gan cùng mình.

Ngày còn bé tôi lớn lên trong môi trường con trai được chuộng hơn con gái, ba tôi thỉnh thoảng vô tình nói ước gì mình có con trai đầu lòng để giúp được những việc mà chỉ con trai làm được thôi. Ít hay nhiều, những lời nói không cố ý của ba tôi cũng ảnh hưởng đến suy nghĩ của tôi. Lúc nào tôi cũng nghĩ để khỏi bị khinh rẻ mình phải làm được những gì mà con trai làm. Do đó những việc như vá bánh xe đạp, thay cầu chì, sửa ống nước rò rỉ, sửa đồ điện, đồ mộc, tôi làm được hết. Đến khi lên đại học, tôi cũng chọn theo học chứng chỉ Toán Lý Hóa làm khởi đầu (thực sự là vì văn kém và lười học bài nên chọn Toán Lý Hoá). Má tôi hoảng hồn, chỉ sợ tôi bị ế vì con gái mà tính tình giống con trai, lại đi học toán thì ai mà dám rớ.

Nhưng nghiệm lại, có tránh cũng không được. Số phận tôi là phải sống trong môi trường chung quanh toàn nam giới. Ở Đại Học Khoa Học trong lớp có hơn 100 mạng thì chỉ có 3 “thị mẹt”. Lấy chồng mở văn phòng thì chung quanh chỉ toàn nhân viên phái nam. Qua Mỹ nhảy vô làm cho công ty thiết kế và xây cất có khoảng hơn 80 kỹ sư, thì cũng chỉ có ba bà.

Công việc đầu tiên của tôi là làm trong bộ phận xây nhà máy điện nguyên tử. Hồi đó, trong ngành kỹ sư ở Mỹ, đàn bà vẫn chưa có chỗ đứng. Muốn được chấp nhận, thì mình phải làm việc gấp đôi và chứng minh rằng mình có đủ khả năng kỹ thuật để đáp ứng cho công việc. 

Đã quen sống trong xã hội trọng nam khinh nữ, nên khả năng phấn đấu của tôi rất cao. Tôi tình nguyện đi công trường, công việc cực nhọc, nhưng mấy ông làm được thì mình cũng ráng làm theo. Ngày đó chưa có máy tính hay AutoCad, Mathcad, cái gì cũng làm bằng tay. Đi công trường, đo đạc, leo trèo, giải quyết vấn đề khi thi công, tôi xông xáo như một bà cai chính hiệu. Trong khoảng thời gian này, tôi tiếp xúc và làm quen với mấy ông thợ ngoài công trường và khám phá rằng mấy ông thợ sắt, thợ hàn, thợ đổ bê tông là những ông thầy tốt nhất cho nghề nghiệp của tôi. Càng ngày tôi càng thu thập được nhiều kinh nghiệm sống trong thế giới mày râu để “moi” những bài học thực tế mà không có sách nào ghi chép lại. Những kinh nghiệm học hỏi này đã giúp tôi thiết kế giỏi hơn, và thực hiện đồ án dễ dàng hơn, giảm bớt vấn đề khi thi công.

Sau khi nhà máy điện nguyên tử hoàn tất, tôi lại xin được việc làm cho một công ty chuyên bảo trì các hầm và thùng chứa rác nguyên tử ở vùng Hanford. Vùng này nằm ngay cạnh nhà máy nguyên tử vừa mới xây xong. Tôi làm với công ty này từ 1984 tới 2000, công việc đầu tiên của tôi là làm trong nhóm thiết kế hệ thống dẫn nước và làm nguội cho một công trình trạm điện nguyên tử trong không gian.

Hồi tôi làm ở nhà máy điện nguyên tử trong thập niên 1970, kỹ nghệ computer còn sơ khai, tính toán bằng tay, giỏi lắm thì cũng chỉ dùng “punched card” để có người cho vào máy, chứ mình đâu được rớ tới máy điện tính. Thế mà năm 1983, kỹ sư trong sở tôi đã được làm quen với PC-286 rồi đến PC-386, nhờ vậy, công việc của tôi cũng nhàn hơn, vì thị trường đã bán những phần mềm về thiết kế, mình chỉ việc mang về cho máy chạy thôi. Nói vậy chứ để được tin cậy và giao việc mình cũng phải cập nhật kiến thức và kỹ thuật mới để lúc trình kết quả không lòi cái dốt của mình thì anh em mới nể được. Vì sở trả tiền cho đi học, nên tôi lại khăn gói ghi danh đi học buổi tối. Nào là concrete design, finite element, sức bền vật liệu, steel design, heat transfer, solid modeling, solid mechanics, computer programming, time history analysis, hoisting, rigging, vân vân, chung quy thì thấy hiểu được tận tường “MC/I” là xong hết.
Làm dược hai năm thì dự án trạm không gian bị hủy bỏ, tôi được thuyên chuyển về làm công trình bảo quản các hầm chứa rác của nhà máy nguyên tử, thế là đời tôi thực sự dính vào “đống rác” từ đó. 

Khu chứa rác nguyên tử này gồm rác tích lũy trong 177 thùng chứa ngầm dưới đất, với dung tích 500,000 gallons mỗi thùng, và hai hầm chứa 2,100 tấn những thanh uranium đã bị phân hạch trở thành một chất phóng xạ rất nguy hiểm.  Rác này thường được đưa tới hầm chứa và được ngâm trong nước để chặn các tia phóng xạ. Ngoài số rác thể lỏng trong các thùng chứa, còn có xác của những nhà máy điện hạt nhân và khu chế xuất nguyên liệu của vũ khí nguyên tử cũng như rác từ các tàu ngầm nguyên tử và nhiên liệu thải từ các nhà máy điện nguyên tử khác trên đất Mỹ.

Vì khu vực này được cô lập từ vị thế đến an ninh, nên chính phủ tiếp tục đem những rác nguyên tử bị phóng xạ về nơi này để chứa và xử lý. Rác lại sinh ra rác, cho nên vấn đề phân định, chứa rác, hốt rác thật là thiên hình vạn trạng. Rác để trong thùng lâu ngày rò rỉ ra đất, ra mạch nước, nên phải xây thùng/hầm mới. Càng nhận định, phân tích, phân loại các thứ rác tồn trữ ở đây, càng thấy vấn đề thật phức tạp và nan giải.

Công việc nhiều vô số kể, từ nghiên cứu kỹ thuật mới để giải quyết rác đến xây thùng/hầm chứa mới và bảo trì những hầm chứa cũ để rác không làm ô nhiễm môi trường. Ngày ngày tụi tôi thắng bộ đồ ngăn phóng xạ bước vào các hầm chứa rác để đo đạc, sửa chữa, kiểm tra nên được đặt tên là nhóm toả hào quang (glow in the dark).  Tuy nhiên chúng tôi được bảo vệ an toàn quy định bởi cơ quan liên bang Nuclear Regulatory Commission giới hạn nhiễm xạ tối đa là 5 rem mỗi năm, và suốt thời gian làm việc ở đây tôi chưa bao giờ bị nhiễm tới giới hạn đó.

Công trình cuối cùng tôi tham dự vào năm 2001 là xây nhà máy phân loại rác và chuyển rác từ thế lỏng qua thể rắn dạng thủy tinh. Dự án này dự trù 7 năm thì hoàn tất với kinh phí 8 tỉ Mỹ kim. Đến nay đã 23 năm, phí tổn đã lên hơn 30 tỉ nhưng vẫn chưa hoàn tất. Rác vẫn còn đó, nhưng một người hốt rác, là tôi, đã dứt nghiệp, về nhà nghỉ hưu. Mong rằng thế hệ sau tiếp tục đảm nhận công việc xử lý đống rác một cách tốt đẹp để trả lại môi trường xanh cho mảnh đất này.

Tuy cái tên “hốt rác” không mấy đẹp đẽ và chỗ đứng cho nghề này gần như nằm cuối trong danh sách các ngành nghề, nhưng tôi rất hãnh diện với nghề của mình.  Sau hơn 30 năm lăn lộn với các hầm rác ở Hanford, tôi đã học được bao nhiêu thứ, từ kỹ thuật, lịch sử cho đến nghệ thuật quản lý và, nhất là, tình người. Ngoài tiền lương, tôi đã thu được những lợi ích vô giá về tinh thần.

Những giọt mồ hôi đổ ra trên đống rác đã giúp tôi tin rằng, mai đây, khi rời bỏ cõi tạm, tôi sẽ không hối tiếc. Tôi sẽ thong dong ra đi với đầu ngẩng cao, tự hào mình là kẻ tị nạn đã góp tay làm sạch nước Mỹ, đã trả ơn được phần nào cái ơn to lớn từ đất nước đã cưu mang mình.


Đào Nguyên Hà 

"Nắng Chiều": Bản Tình Ca Hoài Niệm Đượm Buồn Của Lê Trọng Nguyễn - Youtube Phan Ngọc Thuận

Tuesday, November 5, 2024

Ánh Sáng Trong Mắt Người Mù - Nguyễn Thảo Nam


Tôi đến Nebraska vào đầu mùa Đông giá lạnh. Người đón ở phi trường là một người chưa bao giờ gặp mặt. Tên anh là Thomas. Một vài câu chào nhau lạnh lùng giữa mùa đông lạnh. Lặng lẽ, anh dẫn tôi ra khỏi phi trường và lao mình trên chiếc xe truck trong cơn gió tuyết. Mùa Đông Nebraska quá khắc nghiệt hơn tôi dự đoán. 

Từng cơn gió tuyết réo rắt đến rợn người. Một màu trắng xoá trải dài, dài như vô tận. Những khu nhà thưa thớt của dân nghèo da đen gần phía phi trường phủ ngập tuyết. Tuyết phủ cao có khi lấp hẳn cả những chiếc xe nằm bất động bên đường. Không gian tĩnh mịch. Trong lòng đơn côi. Tôi hoang mang sợ hãi! Không biết mình có vượt qua nổi mùa Đông khắc nghiệt này không? Lần đầu tiên trong đời chạm trán với Muà Đông Nebraska với mười mấy độ âm. Những ngày trước đây còn háo hức cho chuyến thực tập này bao nhiêu thì bây giờ cảm thấy ớn lạnh bấy nhiêu. Nỗi cô đơn xâm chiếm, một hoang mang vây quanh. Tại sao mình lại chọn mảnh đất xa xăm này? Tại sao lại bỏ gia đình ấm cúng để đi vào trong chốn đơn côi? Một hoang mang khơi dậy trong hồn.

*****

    Về đến nhà trời đã sẫm tối. Đón ở cửa là một người đàn ông mù trạc tuổi 60. Ông có mái tóc bạc trắng đều đặn và một khuôn mặt phúc hậu. Ông mở to đôi mắt, nhưng ông lại chẳng thấy. Lúc đầu chẳng để ý, nhưng khi nhìn ông quờ quạng chiếc gậy dành cho người mù bên cạnh, tôi mới biết ông ta mù. Cái tối ngoài trời, xen lẫn cái tối trong nhà, lại thêm cái tối của một người mù làm cho bầu khí thêm ảm đạm. Rồi một tiếng nói vọng lên trong góc tối và một bàn tay vươn ra để bắt tay:

- Tôi là Cha Gilick, rất vui được gặp anh. Ngài tự giới thiệu và nở một nụ cười nồng ấm.

- Con là Thảo Nam, rất hân hạnh được gặp cha.

- Chúc mừng anh đến cộng đoàn này. Tôi là Cha bề trên ở đây và sẽ là linh hướng của anh trong thời gian anh ở đây. Hãy coi tất cả như người nhà nhé. Ngài niềm nở tiếp đón. Tôi bối rối tự hỏi: Sao ông mù này lại là Cha bề trên ở đây? Chắc cái cộng đoàn này hết người sáng mắt hay sao mà lại đặt một ông mù làm bề trên của một cộng đoàn mắt sáng?

    Thắc mắc. Nghi ngờ. Rồi bắt đầu đón nhận. Một hành trình mới đi vào thế giới người mù.

Mỗi một người mù có lối sống đặc biệt của riêng mình. Đây không phải là lần đầu tiên tôi sống với linh mục mù. Trước đây tôi đã có dịp chung sống với hai linh mục mù khác, và đây là vị mù thứ ba. Chẳng hiểu có bí ẩn gì đây mà sao lại có duyên ‘‘làm bạn’’ với lắm Cha mù như thế. Câu hỏi ấy vẫn mãi là một chuỗi suy tư.


*****

     Những ngày ở Việt Nam, tôi giúp lễ nhiều năm cho một Linh mục mù về hưu tại nhà riêng. Năm giờ sáng, ngài thức dậy. Quờ quạng. Cầu nguyện. Rồi dâng lễ mỗi ngày. Ngài đã dâng lễ đều đặn suốt hơn mười năm mù loà như thế. Thánh lễ trong suốt mười năm là một thánh lễ duy nhất: Lễ về Đức Maria. Ngài đã thuộc lòng kinh tiền tụng, không cần sách lễ. Tôi dọn bàn thờ, chọn áo lễ và khoác cho ngài. Rồi hai cha con dâng lễ. Một linh mục, một giáo dân suốt bao năm dài đăng đẳng. Những thánh lễ êm đềm trong nắng ấm ban mai. Cô quạnh, nhưng cũng tràn đầy ủi an. Có mệt mỏi, nhưng có ân sủng đỡ nâng. Có những ngày muốn bỏ lễ, nhưng rồi lại tiếp tục vươn lên. Tuổi già, lại thêm mù loà là một thách đố lớn cho đời Linh mục. Tôi không dâng lễ, nhưng cảm nghiệm nỗi mệt mỏi

trong từng thánh lễ của người Linh mục mù ấy. Tôi ngần ngại. Liệu sau này mình có rơi vào trong cảnh đơn côi này không?

    Rồi những ngày đến Cali, tôi lại có dịp sống với Linh mục mù thứ hai. Ngài không mù hẳn, nhưng mắt bị loà. Phải viết chữ thật to ngài mới đọc nổi, và ngài chỉ có thể nhận ra anh em trong nhà qua giọng nói.

    Bây giờ, nơi vùng đất xa xăm của Nebraska, vị linh mục mù thứ ba này lại đến với tôi như một ngạc nhiên quá lớn. Sững sờ. Rung động. Ngỡ ngàng. Không ai cho tôi biết về người mù này trước khi đến, nên lần gặp gỡ bất ngờ này đã để lại trong tôi một ấn tượng mạnh, một xúc cảm nội tâm sâu xa. Ngài không mù vì tuổi già, nhưng mù từ lúc bé. Vào dòng chỉ ước mong đơn sơ làm ông thầy vĩnh viễn. Rồi tình yêu Chúa nhiệm mầu, lớn hơn cả lòng người ước mong, dẫn đưa ngài đến chức linh mục với đôi mắt mù. Ai có thể hiểu nổi những huyền nhiệm trong cuộc đời !

 ******

    Cộng đoàn ở đây có chừng mười người. Một số cha dạy học, còn lại một số anh em vẫn cắp sách đến trường. Cha mù bề trên chuyên lo về linh hướng, chỉ đường thiêng liêng cho anh em sáng mắt. Chao ôi, người mù lại chỉ đường thiêng liêng cho người sáng mắt. Dẫn nhau đi trong u tối cuộc đời để vào ánh sánh huyền nhiệm. Mắt thể xác mù loà, nhưng đôi mắt tâm hồn thì sáng rực. Ngài còn làm lễ tại giáo xứ, và đi giảng tĩnh tâm trên khắp nước Mỹ.

     Có lần cha quản lý khuyên tôi:

- Nếu có gì thắc mắc thì đến hỏi cha mù ấy, ngài mù nhưng lại thấy nhiều sự lắm. Mù mà thấy nhiều sự thì chẳng phải là mù. Tật nguyền đôi mắt không làm cản ngăn lối bước đi về chân lý. Hành trình cuộc đời là hành trình tìm về chân lý, nhưng chân lý lại không phải vật chất để đôi mắt thể lý trông thấy, nên ánh mắt tâm hồn mới là đèn soi cho mọi khát khao kiếm tìm. Có đôi mắt sáng chưa hẳn là tìm được lối đi. Nhiều khi ta vẫn đi trong đêm tối tội lỗi với ánh mắt sáng ngời.

     Đã bao năm, tôi vẫn tự hào mình có đôi mắt sáng, nay đối diện với vị linh mục mù này tôi mới thấy mình mù loà và cần ngài hướng dẫn, chỉ đường. Cuộc sống vẫn luôn có những nghịch lí thú vị.

    Những ngày đầu gặp gỡ, tôi cảm thấy tội nghiệp và thương tâm cho Ngài. Những ngày sau chung sống, tiếp xúc và học hỏi, tôi lại thấy thương hại cho chính mình, vì mình có đôi mắt sáng mà chẳng thấy những gì cần thấy và đáng thấy. Trong khi vị mù này lại có thể thấy những điều từ đáy sâu thẳm của tâm hồn, thấy được ý nghĩa sâu xa của cuộc sống tâm linh và thân phận con người. Thấy Chúa trên cao. Thấy Chúa trong lòng cuộc sống. Thấy Chúa trong hạnh phúc cũng như trong từng nỗi đau.

Mù mà thấy nhiều sự quá !

    Văn phòng của ngài ở ngay trong trường đại học của nhà dòng. Phải mất khoảng mười phút mới có thể tản bộ tới đó; phải băng qua hai con đường xe chạy tấp nập. Vậy mà ngài đã đi qua về lại trên con đường ấy suốt hai mươi năm qua không hề hấn gì. Tôi vẫn thích tản bộ tới trường với ngài mỗi buổi sáng trên con đường ấy. Ngài vẫn thích có ai đi bên cạnh để chuyện trò, níu vai, để khỏi phải quờ quạng chiếc gậy.

    Có lần ngài nắm vai tôi vừa đi vừa nói:

- Có cậu đi bên cạnh thì chiếc gậy mù này thất nghiệp!

    Tôi cũng nhẹ nhàng đáp lại:

- Vậy từ hôm nay con sẽ là cái gậy của cha mỗi sáng trên con đường này nhé. Trong thâm tâm, tôi không nghĩ mình giống chiếc gậy, nhưng giống những con chó đã được huấn luyện để dẫn dắt người mù. Công việc chút xíu như thế cũng có ích cho đời lắm chứ! Và mình lại thấy vui với ý tưởng đó. Rồi quay lại với ngài tôi tiếp tục bông đùa:

- Con thấy mình giống con chó dẫn dắt người mù hơn là chiếc gậy cha ạ, đời con bất tài nên làm công việc này chắc thích hợp đấy.

Ngài cũng tinh nghịch phản ứng:

- Phải mất hai mươi lăm ngàn dollars mới huấn luyện được con chó đó, cậu có được bằng

giá đó không?

Rồi cả hai cùng cười khúc khích, biết đùa với nhau là cả một món quà. 

*****

Sống với ngài được một tuần, ngài bắt đầu nhờ tôi chở đi làm lễ ở một giáo xứ vào mỗi sáng Chúa nhật. Lần đầu tiên ngài nói:

- Ngày mai cậu chở cha đi làm lễ nhé!

- Thưa cha, nhà thờ ở đâu, có xa không? Tôi hỏi.

- Chừng ba mươi phút lái xe. Ngài đáp.

    Tôi bắt đầu do dự. Đường sá chưa rành, tuyết phủ khắp nơi, chở người sáng mắt thì người ta còn chỉ đường, chứ chở người mù chắc dẫn nhau ra nghĩa địa quá! Trong đầu do dự, nhưng lại không muốn từ chối lòng tín nhiệm của ngài.

Rồi tôi hỏi:

- Cha có bản đồ không?

- Hình như không. Ngài trả lời.

Hỏi xong tôi thấy mình ngớ ngẩn. Ngài đâu thấy đường đâu mà hỏi bản đồ, và nếu có bản đồ thì ngài cũng chẳng chỉ đường được. Tôi quay lại nói tiếp:

- Nhưng mà con chưa biết đường!

- Lo gì! Cha sẽ chỉ cho. Ngài tự tin trả lời.

Tôi thấy nghi nghi trong lòng. Làm sao ngài biết đường? Nhưng rồi tôi cũng đánh liều

nhận lời.

    Ngày hôm sau, lấy chìa khoá và đề máy xe. Trong lòng run lắm. Ngày Chúa nhật trong nhà đi vắng cả nên chẳng kịp hỏi ai. Lòng nghĩ thầm, ông cha mù này liều quá, dám nhờ mình chở đi đường tuyết phủ ở nơi lạ lẫm thế này.

Đề máy xong, ngài chỉ đường bằng miệng:

- Con ra khỏi cổng, quẹo trái; đến stop sign đầu tiên quẹo phải; qua hai đèn xanh đèn đỏ, quẹo phải, rồi vào xa lộ. Và cứ tiếp tục như thế... Tôi lái xe, ngài chỉ đường; qua bao con đường ngoằn ngoèo để đến nhà thờ. Tôi sửng sốt. Làm sao ngài có thể nhớ đường?

Rồi tôi tò mò hỏi:

- Làm sao cha biết đường hay vậy?

- Cha có bản đồ. Ngài vừa cười vừa đáp.

- Sao cha nói với con là cha không có bản đồ. Tôi phản ứng.

- Bản đồ ở trong đầu. Ngài lại cười đùa giỡn.

Thì ra, người mù lại có một bản đồ thật chính xác trong đầu.


Giáo xứ ngài đến dâng lễ là một giáo xứ giàu. Ngôi thánh đường xây bằng gạch đỏ tươi trên một khu đất khá cao. Chung quanh là những khu nhà khá sang trọng, nên nó làm cho ngôi thánh đường thêm đẹp. Mùa đông không có những vườn cỏ, cây xanh hoa lá, nhưng nhìn cách chăm nom và trang trí khu vực thánh đường cũng đủ biết là dân có tiền nhiều. Có lần tôi tinh nghịch hỏi ngài:

-Thưa cha, tại sao cha khấn khó nghèo mà cha lại đi giao du với dân giàu?

Ngài vui vẻ đáp lại:

- Có người giàu vật chất, nhưng tâm linh nghèo lắm. Phải học biết chia sẻ thì tinh thần mới giàu. Vật chất là ơn huệ Chúa ban. Biết chia sẻ nó tức là đã sống tinh thần nghèo. Cũng như đôi mắt là ơn huệ. Biết nhìn nhau trong yêu thương là đã mở lối cho chân lý đi về.

   Rồi một chiều lạnh giá tuyết phủ, ngài đến bên tôi nhẹ nhàng đề nghị :

- Ngày mai con chở cha ra phi trường nhé!

- Cha đi đâu vậy? Tôi hỏi.

- Cha đi giảng tĩnh tâm cho một Giám mục. Ngài trả lời.

    Tôi sửng sốt tròn xoe đôi mắt nhìn ngài. Hoá ra, ngài vẫn thường xuyên đi giảng tĩnh tâm cho các Giám mục và linh mục Hoa Kỳ ở nhiều giáo phận, vì thế sân bay đã trở nên quá quen thuộc đối với ngài. Sau chuyến đi này, sẽ có một Tổng Giám Mục Anh Giáo đến tại cộng đoàn này để xin ngài hướng dẫn cắm phòng. Vị Giám mục này vẫn đến đây hàng năm để xin kẻ mù này soi dẫn, và họ đã trở nên bạn thân với nhau suốt bao năm qua.

    Tôi lặng im. Một xúc cảm mãnh liệt dâng trào. Lạ quá, Chúa vẫn làm phép lạ hàng ngày trong những hạnh phúc đan quyện nỗi đau, trong những lãnh nhận và trong từng mất mát. Ngài vẫn hiện hữu trong từng đôi mắt sáng và trong những ánh mắt mù loà.

*****

     Làm sao có thể nghi ngờ về sự hiện hữu của Thượng đế khi tiếp xúc với những con người như vị linh mục mù này. Lòng tin của tôi thì yếu ớt, nhưng khi gặp Ngài, tâm hồn như được nung lên trong niềm tin. Tôi vẫn mãi suy tư, dưới một cái nhìn nào đó, Thiên Chúa đang dùng một người mù để hướng dẫn bao vị lãnh đạo mắt sáng.

    Hôm sau, tôi tiễn ngài ra phi trường. Ngài ra đi và rồi đã trở lại như bao con người bình thường khác. Dù thế, tôi vẫn cảm thấy có cái gì đó thật phi thường trong những cái bình thường ấy. Phi thường của tình yêu, sức mạnh, của ân sủng, của tất cả những gì mà Thiên Chúa có thể làm được cho con người và qua con người, ngay cả trong những con người tàn tật nhất.


Sáu tháng ở Nebraska qua đi thật nhanh. Tôi phải chia tay ngài trong nuối tiếc, trong lòng kính trọng và yêu thương. Vẫn ước mong một ngày nào đó được ghé lại thăm ngài. Có lẽ lần tới khi trở lại, mình sẽ không còn hoang mang lo sợ như lần đầu mới đến, vì biết rằng nơi mảnh đất xa xôi đó, đang rực lên một tia sáng huyền nhiệm trong ánh mắt của một linh mục mù

 

Nguyễn Thảo Nam

Thế Sự Vờn Quay - Đỗ Công Luận

Cô Hai Chích Và Những Thầy Thuốc Một Thời - Phạm Công Luận


Nếu còn sống, cô Hai Chích phải trên tám mươi tuổi. Đó là một nhân vật còn sót lại trong ký ức cũ kỹ của tôi.

Cô tên thật là gì? Chỉ biết cô thứ Hai và chuyên đi chích thuốc dạo, nên cả xóm gọi là cô Hai Chích. Cô không phải là bác sĩ, cũng không rõ là y sĩ hay y tá. Cô học nghề chích thuốc ở đâu? Cô có được phép hành nghề chữa bệnh không? Trong xóm tôi không ai quan tâm. Vóc dáng cô mỏng mảnh trong bộ áo y tá màu trắng có hai túi. Cô đeo mắt kiếng cận, có gương mặt nhỏ, cái đầu nhỏ… trông như một cô giáo tiểu học.

Khi nhà có người bệnh hay có khi chính má tôi thấy không khỏe, bà nhắn người trong chợ Ga đến nhà cô báo giùm. Chiều hôm đó, cô xuất hiện ngay trước cổng nhà tôi trên yên xe đạp. Cô nhẹ nhàng rời khỏi xe, dắt vào sân và xách cái túi đi vào, hỏi thăm vài câu và bắt đầu hành nghề. Cô lấy từ trong túi ra mấy cái hộp bằng nhôm, một cái lò bé xíu có mấy cái chân mỏng mảnh. Cô châm cái bếp cồn cũng nhỏ xíu mang sẵn theo, rồi luộc ống chích trong nước sôi. Xong cô gắn kim chích vào ống chích bằng thủy tinh, bẻ ống thuốc để rút thuốc vào ống và chích.

Chích xong, cô luộc ống chích lần nữa, lau chùi mọi thứ xong bỏ vào các hộp nhôm, cất vào giỏ, động tác rất gọn gàng và lành nghề. Hầu như không thấy cô cười, rất ít nói ngoài những câu hỏi về bệnh tình, đến và đi rất nhanh. Thấy cô vào nhà tôi, thế nào cũng có một hoặc vài người hàng xóm thập thò trước cửa, đợi cô xong việc thì mời về nhà chích thuốc cho người thân trong nhà.

Hôm nào cô Hai Chích bận đi trực không đến được, má tôi sai tôi lên nhà chị Lượm ở xóm trên, nhờ chị nhắn chú Út là chú của chị Lượm, từng là y sĩ quân y, đến nhà chích thuốc dùm. Ông này người Nam, vui tánh và nói nhiều. Ông chích có một mũi mà kể bao nhiêu chuyện, từ chuyện bên Tây đến chuyện bên Tàu, chuyện ngoài Bắc trong Nam. Chích xong, ai mệt thấy khỏe, ai lừ đừ thấy tỉnh.

Có lần, một đứa trong xóm tôi bị chó cắn, cả nhà sợ bị bệnh dại nên đi tìm ông nhờ chích một mũi thuốc ngừa. Ông lắc đầu quầy quậy, bắt đưa thằng nhỏ lên viện Pasteur. Ông nói: “Tao chích là mày chết à con!” khi nó cứ nằng nặc đòi ông chữa cho thay vì phải lên nhà thương. Lần đó, ai cũng nể ông vì có “lương tâm nghề nghiệp”, ông càng đông khách.

Xóm nghèo, có bệnh hoạn gì chỉ dựa vào những người chích dạo như vậy. Đi ra đường Võ Di Nguy, đến phòng mạch bác sĩ Lê Kiểu hay bác sĩ Hanh thì tốn kém nhiều hơn. Không ai thích đi nhà thương, cứ nghĩ đến đó là thấy bệnh nặng rồi. Tuy vậy, nếu cô Hai Chích hay chú Út khuyên đi nhà thương thì líu ríu nghe theo ngay vì họ có “nghề”, cần phải nghe theo. Xóm nhỏ yên tâm nhờ hai người này chăm sóc sức khỏe, một dạng bác sĩ gia đình khám bệnh tận nhà, đến giờ còn chưa thực hiện rộng khắp được.

Phú Nhuận năm mươi năm trước tuy nhỏ nhưng có khá nhiều y bác sĩ. Xưa nhất, người già thường nhắc ông thầy Ba Trương, vừa hốt thuốc Nam lẫn thuốc Bắc ở xóm Mả Đen. Có người cho biết là khu chợ Phú Nhuận có ông Quán, y sĩ quân y, nhà ở hẻm Chín Chồn, bây giờ là hẻm 73 đường Huỳnh Văn Bánh. Còn ai ở trên đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn Trọng Tuyển) gần cổng số 8 thì vô nhà ông y tá Tuấn khi có bệnh. Ông có tiếng là bệnh gì cũng chích, cảm ho sơ sơ cũng chích. Còn trên đường từ chợ Lò Đúc đâm thẳng ra đường Võ Tánh (nay là Hoàng Văn Thụ) có bác sĩ Hoàng. Nghe kể là bác sĩ này có cách khám rất lạ, ít khi khám bằng ống nghe mà chỉ dùng miếng vải trắng to bằng lưng người đặt lên lưng bệnh nhân rồi áp tai vào nghe. Phải chăng nhờ cách khám đó, ông nắm bắt bệnh tình bệnh nhân tốt hơn nên chữa bệnh mau khỏi, giá khám bệnh lại rẻ nên khách rất đông?

Ở cổng xe lửa số 10 đường Võ Di Nguy nối dài (nay là Nguyễn Kiệm) quẹo vào hẻm có cô y tá Út được tiếng mát tay. Một anh trên group “Phú Nhuận ngày xưa” kể sau khi chạy trận đánh năm Mậu Thân về vài tháng, mẹ của anh đẻ rớt đứa em trai của anh ngay tại nhà. Được báo tin, cô Út chạy đến ngay đỡ đẻ cho, mẹ tròn con vuông! Còn ai nghèo quá không có tiền khám chữa bệnh thì ra Nhà thương Cơ Đốc ngay ngã Tư Phú Nhuận khám sẽ được điều trị miễn phí toàn bộ. Các cô ý tá ở đây bận bộ đầm màu hồng, được tiếng dễ thương và dịu dàng với bà con đến khám bệnh.

Sau năm 1975, dần dần một số y bác sĩ không tiếp tục khám bệnh do ra nước ngoài hoặc do là y bác sĩ quân y phải đi học tập cải tạo. Nhà thương, phòng y tế phường vẫn có nhưng thuốc men ngày càng hiếm, ai có tiền phải ra chợ Tân Định mua thuốc chợ đen. Xóm tôi xuất hiện một “thầy lang”, đó là dì Hai, một phụ nữ tháo vát, có lúc bán khô nướng trước nhà. Một dạo, dì xoay ra cắt giác lể, cạo gió cho cư dân cả xóm. Lúc đó là thời gian sau năm 1975, người dân sống căng thẳng vì thiếu thốn đủ thứ. Càng căng thẳng và thiếu ăn càng dễ bị bệnh vặt.

Dì Hai thủ sẵn mấy hũ thủy tinh làm yaourt để giác hơi, một miếng lưỡi lam để cắt lễ cho người trong xóm. Cắt đến đâu, dì dùng miếng vải thấm máu đến đó. Nhà tôi sát bên nhà dì Hai, cách một con hẻm nhỏ nên ra vô đều thấy dì ngồi cắt lễ hay giác hơi cho khách. Có lúc tôi mắc cỡ thụt đầu vô khi thấy cả mảng lưng trắng nõn của một chị trong xóm đang bày ra.

Cả nhà tôi không dám cắt lể hay giác hơi, trong nhà ai có bị bệnh, má đều đưa tiền cho ra bác sĩ để khám, dù tốn kém. Nhờ má bán ngoài chợ Ga, mà chợ là một trung tâm thông tin, nên trong nhà có ai bị bệnh thì không thiếu người góp ý cách chữa trị hay chỉ chỗ khám tốt. Nhờ vậy, con cái trong nhà vượt qua bệnh tật để lớn lên.


Có lần tôi hỏi thăm trên group “Phú Nhuận ngày xưa” về cô Hai Chích. Các anh chị dân Phú Nhuận cố cựu cho biết cô Hai Chích không phải sống ở khu chợ Ga mà nhà ở trong xóm Bình Địa gần chợ Phú Nhuận, là hẻm 67 đường Võ Di Nguy (nay là Phan Đình Phùng), từ phía khu bán cá trong chợ đi về phía bờ kinh Nhiêu Lộc gần cầu Kiệu. Một chị nhắc hồi nhỏ bị “suyễn con nước”, cô Hai Chích đến chích thuốc, mau khỏe lại. Cô làm thuốc mát tay và rẻ nên rất đông khách vào.

Đang bàn về cô, thì một chị khác cho biết bên đường Hồ Biểu Chánh cũng có Cô Hai Chích có chồng là ông Ba Mùi, cô này cũng hành nghề y sĩ, chuyên đến nhà chích thuốc khi có lời yêu cầu. Cuối cùng, cô Hai Chích nào đã đến chích thuốc ở nhà tôi cách nay gần nửa thế kỷ?


Phạm Công Luận

Cô Hai Chích và những thầy thuốc một thời 

Sầu Biệt Ly - Nguyễn Duy Phước

Monday, November 4, 2024

Donald Trump: 4 Năm, 1 Gã Hề, 25 Thành Tựu Cho Gánh Xiếc Mỹ - Trần Tuấn Sang


Chưa bao giờ hình ảnh một vị tổng thống Mỹ bị truyền thông gieo rắc thù hận đến vô lối như thế. Họ dùng những lời lẽ ghê tởm nhất để khắc họa Trump. Họ thống mạ như mê sảng lên từng lời nói và hành động của gã. Nhưng cũng chính gã, bất chấp sự cười nhạo, gã hề xới tung cả chính trường Mỹ, lật mặt toàn bộ chính khách núp bóng vỏ bọc dân chủ và phơi bày bọn quái vật ẩn mình dưới đầm lầy. Thế nên gã bị ghét, thậm chí căm thù.

Mời xem phần lớn toàn bài dưới đây:

...suốt bốn năm qua:

1. Gã hề “hung hăng” của nước Mỹ đã mang về bốn (04) Hiệp định Hòa bình ở Trung Đông, điều mà 71 năm qua không ai làm được, bất chấp mọi nỗ lực can thiệp về chính trị và chiến tranh triền miên vẫn không mang lại kết quả gì. Thành tựu này, đến nỗi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Esper đã phải thốt lên rằng “đây thực sự là một sự thành công vĩ đại của Trump”.

2. Gã hề “không biết gì về chính trị” đã dẹp yên tên chí phèo của thế giới là Triều Tiên mà không tốn một viên đạn, giúp cho nước Mỹ và thế giới thoát khỏi cuộc chiến tranh hạt nhân tàn khốc, thúc đẩy hòa bình Liên Triều và mang lại sự an toàn cho đồng minh Nhật Bản và cả Bờ Tây nước Mỹ – điều đã khiến cho Obama đau đầu không tìm được giải pháp sau 8 năm ròng rã.

3. Gã hề “hiếu chiến” của nước Mỹ là Tổng thống đầu tiên ở Nhà Trắng không đưa nước Mỹ vướng vào cuộc chiến tranh mới nào, tính từ thời Eisenhower đến nay.

4. Gã hề “ngu ngốc” đã sắp đặt lại trật tự NATO, buộc các đồng minh phải thực hiện trách nhiệm đóng góp ngân sách quốc phòng của họ, chứ không thể mãi dựa dẫm vào nước Mỹ.

5. Gã hề “hèn nhát” đã loại bỏ tên trùm khủng bố thế giới – tướng Hồi giáo Iran Qasem Soleimani của lực lượng Quds Force, mặc cho hắn ta biết rằng mình sẽ phải đối diện sự trả đũa từ phía kẻ thù, mà cụ thể là khoản treo thưởng 80 triệu USD cho người nào ám sát Trump thành công.

6. Gã hề “không đủ năng lực” (theo khảo sát của đài ABCNews) đã một tay tái xây dựng sức mạnh quân đội Mỹ để thiết lập lại trật tự thế giới, kiềm chế sự hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, cũng như bảo vệ các quốc gia nhỏ khỏi sự đe dọa và xâm lăng từ các nước lớn. Còn ai nhớ một quân đội Mỹ què quặt như thế nào dưới thời Obama, khi 214 tướng lĩnh và đô đốc chủ chốt bị sa thải chỉ trong năm đầu tiên nắm quyền? Còn ai nhớ Trung Quốc lớn mạnh và tung hoành trên Biển Đông thế nào dưới 8 năm của Obama? Có ai còn nhớ vị tổng thống của cường quốc số một thế giới bị cho đi ngõ sau khi viếng thăm Trung Quốc?

7. Gã hề “lưu manh” là tổng thống đầu tiên ghé thăm và cầu nguyện tại Bức tường Than khóc (Wailing Wall) và Nhà thờ Mộ thánh ở Jerusalem. Gã cũng là kẻ đứng đầu Nhà Trắng đầu tiên công nhận Jerusalem là thủ đô Israel và chuyển đại sứ quán Mỹ về thành phố này.

8. Gã hề “nguy hiểm” là tổng thống duy nhất tiêu diệt thành công nỗi khiếp sợ mang tên ISIS – tổ chức khủng bố Hồi giáo lớn nhất thế giới để mang lại bình yên nhân loại. Hoàn thành lời hứa lớn nhất của ông với người Mỹ và nhân dân thế giới.

9. Gã hề “áp bức tôn giáo” lại là kẻ kêu gọi chấm dứt bức hại tôn giáo và ký sắc lệnh hành pháp thúc đẩy tự do tôn giáo quốc tế, kêu gọi 50 triệu USD cho các chương trình để dập tắt bạo lực tôn giáo và đàn áp ở nước ngoài, cũng như để bảo vệ các nhóm thiểu số tôn giáo.

10. Gã hề “phá nát nền kinh tế Mỹ” đã xoay chuyển cục diện quan hệ Mỹ – Trung để đưa hàng trăm doanh nghiệp trở về Mỹ, giảm thuế và bảo vệ họ khỏi mưu đồ ăn cắp tài sản trí tuệ và công nghệ của Trung Quốc, phục hồi nền kinh tế thăng trầm từ thời Obama, xác lập đỉnh kỷ lục lịch sử trên sàn cổ phiếu khiến nền kinh tế sôi động trở lại, đưa mức lãi suất về gần bằng 0 và thu nhập bình quân đầu người cao nhất (kể từ năm 1967).

11. Gã hề “tàn ác” này đã giúp người dân Mỹ đóng thuế ít hơn, tăng khoản khấu trừ thuế từ $12,500 lên gần gấp đôi $24,400 cho mỗi cặp vợ chồng, và từ $6,350 lên $12,000 cho người độc thân, tác động tích cực lên hàng chục triệu tài khoản lương hưu của người Mỹ.

12. Gã hề “tham lam” chỉ nhận lấy mức lương 1 USD mỗi năm trong nhiệm kỳ tổng thống, nhằm ủng hộ cắt giảm chi tiêu chính phủ và gánh nặng thuế khóa của người dân.

13. Gã hề “phân biệt chủng tộc” ấy là tổng thống mang lại công ăn việc làm nhiều nhất cho người da đen và dân Latino, khiến cho tỷ lệ thất nghiệp của hai sắc dân này xuống thấp nhất trong tất cả các đời tổng thống Mỹ. Xin nhắc lại, TẤT CẢ.

14. Gã hề “thiếu hiểu biết” là kẻ nhìn ra trò dối trá và bất công trong Thỏa thuận chung Paris (hay Hiệp định biến đổi khí hậu), kéo nước Mỹ thoát khỏi âm mưu phá hoại nền công nghiệp than – dầu khí và nguy cơ thất nghiệp tràn lan cho nước Mỹ.

15. Gã hề “gian xảo” là kẻ đứng lên phản đối gói cứu trợ COVID-19 phi lý của chính khách thiên tả, để trả lại đúng số tiền hỗ trợ 2000 USD cho mỗi người dân, thay vì chỉ 600 USD và phần còn lại phân phát vào những hạng mục vô bổ không liên quan.

16. Gã hề thường tạo ra “phát ngôn thù hận” (hate speech) lại là người nhận nhiều lời lẽ tấn công, thóa mọa và trù dập nhất từ cánh tả (những người ủng hộ Chủ nghĩa Xã hội tại Mỹ). Nực cười thay, gã lại được đề cử cho giải Nobel Hòa bình 2021.

17. Gã hề hay “miệt thị phụ nữ” lại là Tổng thống Cộng Hòa bổ nhiệm nhiều nữ thẩm phán Phúc thẩm Liên bang nhất kể từ thời Ronald Reagan, chỉ thua đúng 1 người so với thời Obama. Nếu tính riêng các đời tổng thống một nhiệm kỳ, không ai bổ nhiệm nữ thẩm phán nhiều như Trump.

18. Gã hề “chuyên nói dối” đã lột trần bộ mặt đạo đức giả ở phần còn lại của thế giới, phơi bày toàn bộ đầm lầy tham nhũng của đảng Dân Chủ, lẫn Cộng Hòa, FBI, CIA, NSA và Big Tech. Gã hề nói cho bạn nghe những điều mà truyền thông muốn giấu kín. Gã chỉ trích tất cả bộ sậu quan liêu trong chính quyền. Gã, đơn giản, chỉ cất lên tiếng nói của một người dân bộc trực bình thường trước hiện tình đất nước.

19. Gã hề “thất bại trong việc chống virus Vũ Hán” chính là kẻ đầu tiên kêu gọi đóng cửa với Trung Quốc trong khi giới cánh tả còn đang giãy nảy về chuyện phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa bài ngoại. Gã đốc thúc thành công quá trình điều chế và sản xuất vaccine cúm Tàu chỉ trong vỏn vẹn MỘT NĂM, giúp nước Mỹ một lần nữa khẳng định vai trò đầu tàu trên bản đồ khoa học – kỹ thuật thế giới. Đừng quên rằng đến nay thế giới vẫn chưa có vaccine cho bệnh SARS, Ebola, cúm gia cầm và các thể loại bệnh khác dưới đời tổng thống tiền nhiệm.

20. Gã hề được gán mác “độc tài”, “phát xít” hay “Hitler thứ hai của thế giới” lại là kẻ bị truyền thông đánh phá nhiều nhất. Gã muốn bảo vệ người Mỹ, họ gọi đó là Chủ nghĩa Dân túy. Gã muốn nước Mỹ vĩ đại trở lại, họ gọi đó là Chủ nghĩa Da trắng Thượng đẳng.

21. Gã hề “đồi bại” lại có một gia đình nề nếp và đầm ấm, một người vợ chuẩn mực và tất cả con cái đều tài giỏi và nên người; chứ không hút cần sa và tham gia tổ chức phản loạn Antifa như ái nữ da màu nhà ai đó; chứ không như chàng Thợ Săn nghiện ngập, tham nhũng và bị đuổi cổ khỏi quân đội của ai kia.

22. Gã hề “phá nát nền dân chủ Mỹ” lại là kẻ đang bị nền dân chủ ấy đàn áp ngôn luận thảm thương nhất, bị cấm vĩnh viễn tiếng nói trên mạng xã hội và đằng sau là sự cổ vũ của phe cánh tả (trong đó có Michelle Obama) – những người luôn rêu rao về dân chủ và nhân quyền, phản đối kiểm duyệt của những chế độ độc tài trên thế giới. Lúc gã tại vị, gã không cấm phát ngôn bất cứ ai. Đến khi gã sắp rời Nhà Trắng, bọn họ tìm cách bịt miệng gã.

23. Gã hề KHÔNG “khiến nước Mỹ chia rẽ”. Sự chia rẽ đó vốn dĩ đã tồn tại như một ung nhọt âm ỉ trong lòng nước Mỹ từ lâu. Những con người đáng mến mà tôi biết, những giáo sư khả kính bỗng nhiên ngang ngược sỉ vả những ai không cùng quan điểm mình là ngu xuẩn, là nỗi ô nhục. Tất cả là tại Trump? Không. Đó là do chính họ. Thâm tâm họ tuyệt nhiên bất đồng với quan điểm khác biệt thì dù có-Trump hay không-Trump, chính họ cũng đã chia rẽ bản thân mình khỏi những người không cùng suy nghĩ. Trump không phải thiên sứ hàn gắn, nhưng giật rơi tấm màn đạo mạo của thứ chính trị phải đạo (political correctness) giả dối và áp bức suy nghĩ thực tâm bên trong mỗi người.

24. Gã hề “thua cuộc” và tưởng chừng như “bị ghét nhất” lại là người đàn ông được kính trọng nhất nước Mỹ theo khảo sát của Gallup, soán lấy vị trí mà Obama đã ngự trị suốt 12 năm qua. Trong khi tổng thống đắc cử với số phiếu phổ thông cao nhất lịch sử Joe Biden chỉ nhận được 6% lượng ủng hộ (bằng 1/3 ông Trump), phản ánh điều trái ngược hoàn toàn với kết quả bầu cử tổng thống.

25. Cuối cùng, gã hề mà ai cũng cho là “ngạo mạn” ấy là một kẻ cúi đầu trước Chúa, trước lá cờ nước Mỹ, trước lời cầu nguyện cho các nạn nhân cơn bão Harvey, trước lời hứa làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại. Gã không nhạo báng Chúa. Gã không đốt cờ. Gã không đứng trên nền pháp trị. Gã không tự cho mình là chân lý. Gã cũng không sắc phong điều gì là chính thống. Gã không tự mãn, gã chỉ muốn viết tiếp giấc mơ Mỹ. Vì lẽ đó, gã không bao giờ để nước Mỹ bị đe dọa và phải quỳ gối trước bất kỳ thế lực nào.

Chỉ còn hai ngày nữa thôi, gã hề Donald Trump sẽ rời khỏi Nhà Trắng trong sự vui sướng và niềm hân hoan tột cùng của những tâm hồn ngập tràn thù hận. Mối thù dành cho Trump sâu sắc đến nỗi, người ta chẳng cần quan tâm ai sẽ đứng ra phát biểu nhậm chức vào hôm 20.1 sắp tới, miễn là #NoTrump, kẻ thay thế kia là ai cũng được, thậm chí là một người suốt 47 năm không đạt được thành tựu chính trị nào.

Phải chăng, cảm xúc yêu ghét đã che mờ hoàn toàn lý trí con người. Họ không thể nhìn nhận di sản của Trump một cách công bằng, lăng kính của họ bị vẩn đục bởi chất chứa quá đỗi lòng thù ghét một cá nhân. Dù luôn miệng nói về dân chủ, nhưng họ sẵn sàng chà đạp giá trị mình theo đuổi bấy lâu để loại bỏ kẻ đối lập khỏi cuộc chơi.

Ta nói, nhìn bên trong từ bên ngoài và nhìn bản thân từ người khác, bạn là người thế nào thì sẽ cho rằng người khác là thế ấy. Đời như tấm gương soi, nhìn người không thấy người, chỉ thấy ta. Nay bạn cười cợt gã hề, mai lại thấy tâm mình phản chiếu qua đó.

Hỏi thật, bạn có công bằng với Trump không?


by trantuansang.com