Ngồi trên bãi biển Nha Trang khi
thủy triều xuống cuốn nước xa bờ để lại vạt cát dài màu trắng mịn, và lúc nắng
chiều chiếu xiên trên mặt biển gợn sóng lăn tăn, trông như dải lụa dát vàng
lung linh đến tận các hải đảo xa mờ mây nước, khách nhàn du sẽ mê mẩn với sắc
màu kỳ diệu của buổi chiều tà mà quên hết cảnh huyên náo chung quanh.
Mùa hè năm
rồi, Ông bà Frank đã chọn phố biển Nha Trang làm nơi nghỉ dưỡng. Bà Frank chọn
Nha Trang là do tình cờ đọc được quảng cáo về các “Tour Du Lịch Sinh Thái” ở
Việt Nam, còn ông Frank chọn Nha Trang là vì ông muốn tìm lại những kỷ niệm của
mối tình đầu dang dở gần năm mươi năm về trước.
Năm 1972,
Ông Frank sang Việt Nam, làm việc trong Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha
Trang. Nơi đây ông gặp một người con gái trong đêm dạ vũ. Nàng có vẻ đẹp liêu
trai với làn tóc mượt mà, óng ả xõa ngang vai làm ông say đắm. Nhưng không dễ
chút nào, vì nàng con nhà lễ giáo, cha nàng là một sĩ quan cao cấp của trung
tâm và rất nghiêm khắc. Vậy mà, tiếng sét ái tình đã đem đến cho họ một mối
tình lãng mạn, thăng hoa và trong sáng.
Gần một năm
đằm thắm trôi qua, đợi một lễ cưới trang trọng theo ý muốn của cha nàng. Nhưng
cuối năm 1974, tình hình chính trị ở Việt Nam biến chuyển, ông Frank được lịnh
rời khỏi Việt Nam gấp rút. Họ đành chia tay trong nỗi ngậm ngùi.
Trước đêm
chia tay, họ trao cho nhau tất cả ân tình… và hẹn ngày tái ngộ. Không ngờ một
lần ân ái, Frank đã để lại giọt máu của mình trong thân thể người đàn bà.
Rồi biến cố
ngày 30-4-1975 đã cắt đứt mọi mối dây liên lạc. Từ đó hai mảnh đời son trẻ rẽ
ra hai hướng. Frank về Mỹ, mấy năm đầu sống trong sự nhớ thương ray rứt… chàng
tìm đủ mọi cách để trở lại Việt Nam tìm người yêu, nhưng không được vì lúc đó
Mỹ đang cấm vận Việt Nam. Thất vọng, chán chường! Ba năm sau Frank lập gia đình
với người bạn gái, học cùng trường thời High School. Còn nàng thì rời khỏi Nha
Trang, lên Buôn Mê Thuột, sau khi nhà cửa ở Nha Trang bị tịch thu và người cha
bị đưa vào trại cải tạo.
Chiều nay,
trên bãi biển Nha Trang, ông Frank nhớ đến mối tình đầu trên miền duyên hải thơ
mộng này, ông kể cho vợ nghe. Bà Frank là người dễ tính, bà nhớ lại hồi còn học
chung trường ở High School, Frank rất đẹp trai, những đứa bạn của bà theo tán
tỉnh Frank, nhưng Frank không có tính trăng hoa và từ khi lấy bà, Frank là
người chồng tử tế, chí thú làm ăn, lo cho vợ con, không “mèo chuột” linh tinh.
Bà hiểu đàn ông, mấy ai không có những “mối tình gác trọ” nên bà rất thích nghe
chuyện tình hiếm hoi của chồng.
Frank đang
kể đến chỗ bi thương, thì một con bé khoảng ba tuổi, rời tay mẹ nó, chạy lẫm
chẫm đến chỗ hai ông bà đang ngồi, trao cho bà chiếc vỏ sò. Một chút ngỡ
ngàng, nhưng bà hiểu ra, con bé muốn tặng cho bà.
Ôi! Nó đẹp
như thiên thần.
Bà ôm nó
vào lòng, nó tỏ ra sung sướng lắm. Ông Frank nhìn nó cười, rồi vẫy tay chào
Hello! Nó lại chạy qua ôm chân ông Frank, rất thân thiện. Mẹ nó cười buồn nhìn
con thầm nhủ: “Sao tự nhiên nó lại thân thiện với ông bà già Mỹ này như vậy
nhỉ?”
Chiều hôm
sau, con bé đòi ra biển sớm để chơi với ông bà già người Mỹ, mẹ nó chần chừ. Nó
khóc! Thế là phải dẫn nó ra biển.
Chiều hôm ấy, biển vắng! Ông bà
Frank nằm trên ghế dài ngó mông ra biển. Con bé gỡ tay mẹ, lẫm chẫm chạy
tới phía sau ông bà lay nhẹ. Ông bà rất vui khi gặp lại. Bà Frank quay sang ôm
nó vào lòng. Bà lấy thỏi kẹo chocolate cho nó. Con bé cầm thỏi kẹo săm soi,
bỗng nói: Thank you! Ôi! Sao mà dễ thương quá! Bà Frank âu yếm vuốt ve, hôn lên
mái tóc nó. Người mẹ ngạc nhiên, tại sao nó nói được tiếng Anh? Có lẽ nó bắt
chước những người lớn trong khu nghỉ dưỡng.
Hôm nay,
người mẹ đứa bé ngồi lại với ông bà già Mỹ khá lâu. Nàng im lặng vì không nói
được tiếng Anh, nhưng trong ánh mắt và cử chỉ cho thấy nàng muốn thổ lộ tất cả
tâm tình. Ông Frank có dịp nhìn kỹ người con gái ấy, trông hao hao giống người
yêu của ông mấy mươi năm trước, cũng mái tóc thề tỏa xuống ngang vai, đôi mắt
bồ câu đen láy biểu lộ nét thông minh, nhưng nước da trắng bệch, thân hình gầy
guộc trông rất thương tâm.
Họ ngồi bên
nhau cho đến khi hoàng hôn buông xuống, ông Frank cõng con bé trên lưng, rời
bãi biển. Khi đến đường Trần Phú (Duy Tân cũ) ông Frank trao con bé cho mẹ nó.
Họ chia tay về khách sạn, hẹn gặp lại chiều mai trên bãi biển.
Chiều hôm
sau, mẹ con nàng ra biển muộn. Ông bà Frank có ý mong chờ. Khi nắng chiều sắp
tắt, mẹ con nàng đến đứng sau hai chiếc ghế, nàng khẽ để chiếc túi nhỏ bên cạnh
ông Frank, con bé chạy vòng tới trước nũng nịu ngả vào lòng bà Frank. Ông bà
Frank nói huyên thuyên, nàng không hiểu hết, nhưng đoán biết họ đang vui. Rồi
nàng vừa bập bẹ vừa ra dấu cho ông bà Frank hiểu rằng: Nàng muốn gởi con bé cho
ông bà trông hộ, nàng trở lại khu nghỉ dưỡng. Ông bà Frank hiểu ý, gật đầu, OK.
Tiếng OK
làm nàng tin tưởng. Nàng muốn đến trước mặt quỳ lạy hai con người nhân hậu này
để gởi gắm đứa con bé bỏng, nhưng nàng không đủ tiếng Anh để giãi bày tâm sự,
nàng sợ hai ông bà không hiểu hết nỗi bi thương mà từ chối thì sẽ mất đi cơ hội
để con nàng thoát cảnh bi thương sau khi nàng qua đời. Nên nàng đánh liều để
lại đứa con bé bỏng cho ông bà Mỹ, lặng lẽ ra đi với nỗi lòng thương con dâng
nghẹn…
Nàng biết
từ đây sẽ không còn gặp lại đứa con thơ bé bỏng, nước mắt cứ tuôn ra! Nàng
không muốn hai ông bà người Mỹ và đứa con thân yêu trông thấy những giọt nước
mắt đang nhỏ xuống. Nàng vội quay đi, bước về hướng bắc.
Bãi biển
nơi đây vắng người, nàng bước ra mép nước, nghe tiếng sóng vỗ rì rào, cảm thấy
đời mình không còn lối thoát. Nàng có ý định quyên sinh để không phải chịu đựng
những cơn đau khủng khiếp hành hạ mà không có tiền mua thuốc giảm đau. Chỉ cần
từ mép nước này đi mãi xa bờ, làn sóng sẽ cuốn thân xác nàng vào lòng biển cả…
nàng sẽ thoát cảnh khổ trần ai.
Nhưng khi
nhìn lên tượng Chúa trên đồi La San, nàng nghe như có tiếng thì thầm bên tai:
“Đừng quên lời răn thứ năm của Chúa: Hãy quý trọng thân xác và sự sống của mình
cũng như của người khác.” Là con chiên ngoan đạo, nàng bỏ ý định quyên sinh,
quay về khu nghỉ dưỡng, kéo chiếc va li ra khỏi phòng, đi về hướng bến xe.
Không ai biết nàng sẽ đi về đâu.
Từ lúc gởi
đứa con cho ông bà già Mỹ đến khi hoàng hôn buông xuống đã gần hai tiếng đồng
hồ, nhưng không thấy nàng trở lại, ông bà Frank hơi lo lắng. Đợi đến khi phố xá
lên đèn cũng vẫn chưa thấy bóng dáng nàng đâu, lúc này ông bà Frank thực
sự bối rối.
Ông Frank
đi tìm viên chức coi an ninh khu vực, trình bày sự việc. Viên công an bảo ông
Frank đem đứa bé giao cho Phường, rồi họ sẽ xúc tiến công việc đi tìm người mẹ.
Ông bà Frank xin được chăm sóc đứa bé đêm nay, để chờ kết quả tìm kiếm mẹ nó
như thế nào. Viên công an đồng ý. Ông Frank xin viên công an viết cho giấy
chứng nhận để tránh trường hợp vu cáo “bắt cóc trẻ con.” Hắn lấy giấy nguệch
ngoạc mấy chữ, đưa cho ông Frank. Về lại khách sạn, con bé khóc tìm mẹ. Bà
Frank vỗ về, cho nó uống sữa, ăn bánh cookie, tắm rửa… rồi dỗ nó ngủ. Bấy giờ
ông Frank mới lấy túi nhỏ mà ban chiều người mẹ đứa bé để cạnh bên ông ra xem.
Trong đó có mấy bộ quần áo trẻ con, tã lót, bình sữa và phong bánh kẹp, dưới
cùng có hai phong bì.
Ông Frank
mở ra đọc, lá thư thứ nhất viết bằng Anh ngữ, lá thứ hai viết tiếng Việt. Ông
đọc lá thư Anh ngữ cho vợ nghe. Nội dung như sau:
“Kính
thưa Ông Bà.
Trước
tiên con xin Ông Bà rộng lòng tha thứ cho con về việc gởi đứa con bé bỏng cho
Ông Bà - ra đi mà không nói rõ lý do.
Ông
Bà ơi! Cho phép con giãi bày tâm sự: Con bị ung thư phổi đến thời kỳ cuối, bác
sĩ cho biết không chữa trị được nữa và chỉ còn sống khoảng bốn, năm tháng nữa
thôi. Nghĩ đến những ngày sau khi con chết, người ta sẽ gởi đứa con bé bỏng của
con vào Viện Mồ Côi hay nó sẽ bơ vơ trên cõi đời oan nghiệt, lòng con đau như
xé… tim con thắt lại! Nên hằng đêm con cầu xin Đức Mẹ soi sáng, dẫn đường cho
con gặp được người nhân hậu để gởi gắm đứa con bé bỏng, trước khi con rời cõi
nhân gian.
Ông
Bà ơi! Đức Mẹ đã nhận lời cầu xin của con để buổi chiều hôm ấy, mẹ con con gặp
được Ông Bà trên bãi biển.
Con
bé Linh (tên của nó) rất sợ người lạ, ai thấy nó dễ thương muốn bồng bế, nó
khóc và ôm lấy mẹ. Thế mà chiều hôm ấy nó tự động gỡ tay con, chạy đến tặng cho
Bà chiếc võ sò nó nhặt được trên bãi biển mấy hôm trước và cất giữ như món đồ
chơi quí giá.
Linh tính báo cho
con biết: Chúa và Đức Mẹ đã tìm được cho con nơi gởi gắm đứa con thơ bé bỏng.
Ông
Bà ơi, xin thông cảm cho con, con không đủ tiếng Anh để giãi bày hoàn cảnh bi
đát và nỗi thương tâm… Nên đêm qua con ngồi
viết lá thư này và nhờ người dịch ra tiếng Anh để Ông Bà đọc, với hy vọng đứa
con bé bỏng của con sẽ được lớn lên trong vòng tay yêu thương và nhân hậu của
Ông Bà.
Đọc
xong thư này, Ông Bà lật dưới đáy túi xách để xem tấm hình và sợi dây chuyền
vàng là chứng tích của hai cuộc tình bi thảm của bà ngoại và của con. Con phải
giấu kín vì sợ công an bắt gặp tấm hình, họ sẽ kết tội con làm gián điệp; còn
sợi dây chuyền sợ bọn bất lương đánh cắp.
Ông Frank
gỡ cặp kính lão lau nước mắt, lật đáy túi xách lấy ra phong thư, trong đó có
tấm ảnh đã phai màu và một sợi dây chuyền vàng gắn tấm ‘lắc’ hai chữ NL.
Cầm tấm
hình lên xem, ông Frank ôm đầu, nấc lên rồi bật khóc! Trời ơi! Đó là tấm hình
chụp ông với Loan, người tình đầu trên bãi biển Nha Trang mấy mươi năm trước.
Bà Frank ôm
vai chồng, ôn tồn nói:
- Đây là thánh ý
Chúa! Frank bình tĩnh lại, đưa lá thư tôi đọc tiếp xem nào. Bà đọc tiếp lá thư
cho chồng nghe:
Ông
Bà ơi! Sau đây là những lời bà ngoại nói với mẹ con, rồi mẹ con kể lại con nghe
và con nhớ mãi đến bây giờ: ‘Tháng 3-1975, Việt Cộng chiếm Nha Trang. Họ đuổi
gia đình bà ngoại ra khỏi khu villa xinh đẹp. Ông cố của con bị bắt và chết
trong tù. Bà cố dẫn bà ngoại về đồn điền cà phê của gia đình ở Buôn Mê
Thuột, trong lúc bà ngoại đang mang bầu được bảy tháng. Bà ngoại sinh mẹ con
vào tháng 7 năm 1975. Ba tháng sau đồn điền bị tịch thu. Bà ngoại làm lao công
trong đồn điền cà phê của mình. Bà ngoại và mẹ con sống trong cơ cực, thiếu
thốn. Đến năm 1987, chính phủ Mỹ cho phép con lai Mỹ được định cư ở quê cha.
Lúc đó bà ngoại phải nuôi dưỡng bà cố già yếu, nên không đi Mỹ. Có người đến đề
nghị mua mẹ con để họ lập sơ giả đi Mỹ, nhưng bà ngoại nhất định không bán và
mẹ con cũng nhất định không rời bà ngoại. Thời gian trôi qua, mẹ con lớn lên
lai Mỹ rất đẹp. Năm 25 tuổi, mẹ con lấy chồng, một người chồng hiền lành, tốt
bụng, cùng làm việc trong đồn điền. Con được sinh ra tháng 9 năm 2001 ở trong
khu đồn điền này.
Khi
con lên hai thì bà ngoại con qua đời. Trước lúc lâm chung bà ngoại đưa cho mẹ
con tấm ảnh và căn dặn giữ kỹ tấm ảnh này để có ngày tìm được người cha rất tốt
bụng… nhưng vì hoàn cảnh phải chia ly.’
Cha
mẹ con làm cu li trong đồn điền, cơ cực quá nên bỏ Buôn Mê Thuột xuống
Nha Trang làm nghề khai thác tổ yến trên các hải đảo ngoài khơi biển Nha Trang.
Bất hạnh thay, trong một đêm mưa to, gió lớn, thuyền của cha mẹ con bị chìm.
Cha mẹ con chết mất xác. Lúc đó con lên chín tuổi, nhưng thân hình nhỏ như đứa
bé lên sáu.
Trong
cảnh mồ côi cha mẹ, một ông già mù lòa, không có vợ con, nhận con làm con nuôi.
Con theo ông về túp lều vải gần ga xe lửa. Con chỉ mang theo một cái xách tay
của cha mẹ con để lại, trong đó có mấy bộ quần áo của con và một hộp nhỏ đựng
ít tiền và tấm ảnh này. Từ khi làm con nuôi ông già mù loà, ông rất thương yêu
con. Ngày ngày ông cháu dẫn nhau đi hát dạo trên bãi biển, trong công viên kiếm
sống… Ông có giọng ca rất truyền cảm. Ông dạy con nhạc lý và tập luyện giọng.
Chỉ một thời gian ngắn, ông cháu song ca rất mùi. Khách qua đường cho khá
nhiều tiền. Nhưng bốn năm sau, ông già qua đời, con lại bơ vơ. Lúc đó con ở
tuổi mười ba.
Một bà chủ nhà
hàng thương tình, cho con vào rửa chén và làm những việc lặt vặt… được bao ăn,
ở. Trong thời gian làm việc ở nhà hàng, con được ăn uống đầy đủ, nên trổ mã cao
lớn rất nhanh.
Một
hôm, tình cờ thấy trên TV thông báo tuyển lựa tài năng mới. Con đánh liều, trốn
bà chủ đi thi thử. Không ngờ được chấm hạng nhất. Từ đây đời con bước vào ngã
rẽ mới. Nhiều nơi gọi con đi hát, được trả ‘cát sê’ rất cao và con trở thành ca
sĩ nổi tiếng, kiếm rất nhiều tiền.
Nhưng
đường tình duyên của con không được may mắn. Năm mười chín tuổi, con gặp một
anh Việt kiều, trong một đêm ca nhạc; trông anh ta rất hiền lành, lịch
sự, đẹp trai ngỏ lời yêu thương và muốn cưới con đem về Mỹ. Lúc đầu con sợ lòng
người dối trá, nhưng sự theo đuổi say đắm của anh ta làm con ngả lòng và sự khờ
khạo của tuổi trẻ, con đã cho anh tất cả. Khi hay tin con có bầu, anh ta về Mỹ
hứa sẽ trở lại làm đám cưới và bảo lãnh con sang Mỹ, nhưng rồi biệt tăm. Không
hiểu anh ta phụ tình hay gặp tai nạn (?) Con vô cùng đau khổ và sinh bé Linh
trong cô đơn.
Khi
bé Linh gần ba tuổi, thì con bị bịnh ung thư phổi vào thời kỳ cuối. Bao nhiêu
tiền kiếm được trước đây, đổ vào bệnh viện, nhưng không qua khỏi căn bịnh ung
thư. Đời con sao mà lắm nỗi thê lương!?
Ông
Bà ơi! Xin rộng lòng thương xót mà bảo bọc đứa con bé bỏng của con. Khi nó lớn
lên, Ông Bà đưa cho nó sợi dây chuyền mà cha nó tặng cho con và giải thích về
tấm ‘lắc’: N là viết tắt chữ Ngọc, tên của cha nó và L là viết tắt chữ Liên,
tên của con. Đây là chứng tích một cuộc tình… may ra nó sẽ tìm được người cha
đang sống ở CA.
Thư
đã dài, con xin chấm dứt ở đây. Khi về bên kia thế giới con sẽ dõi theo và phù
hộ Ông Bà cùng đứa con thân yêu của con.
Xin
đội ơn…Vĩnh biệt Ông Bà!
Liên.
Ông Frank
chống tay lên cằm, nước mắt ứa ra theo từng lời đọc của vợ và bà Frank cũng đầm
đìa nước mắt, nói với chồng:
-
-Đây là sự an bài của Thượng đế. Bằng mọi cách phải đưa con bé Linh theo mình
về Mỹ ông ạ.
Ngày hôm
sau, ông bà Frank liên lạc với Toà Đại Sứ Mỹ, trưng dẫn những bằng chứng và
tiến hành mọi thủ tục. Cuối mùa hè năm ấy, ông bà Frank dẫn bé Linh theo ông bà
về Mỹ và nhờ Tòa Đại Sứ tìm giúp người mẹ của bé Linh. Ông bà Frank cũng cố
gắng tìm người cha của bé Linh, nhưng chưa có kết quả.
Bốn tháng
sau, ông bà nhận được thư báo tin từ Toà Đại Sứ Mỹ, ở Hà Nội: “Bà Nguyễn Thị
Ngọc Liên đã yên nghỉ nghìn thu bên ngôi mộ của bà ngoại Hoàng Bích Loan.” Kèm
theo lá thư là tấm hình chụp hai ngôi mộ nằm song song dưới chân đồi một đồn
điền cà phê thơ mộng.
Lê Đức Luận

No comments:
Post a Comment