Tác giả, hiện cư trú và làm việc tại vùng San Jose, kể chuyện một
mình vượt biển giữa thập niên 80’ và trở thành cô giáo cho những
thiếu niên không thân nhân tại trại tị nạn.
****
Ngày 30 tháng Tư 1975, Saigon sụp đổ. Những gia đình đang ở trong
các cư xá sĩ quan, cư xá công chức bị đuổi ra khỏi nhà. Cùng chung
số phận, gia đình chúng tôi bị đuổi khỏi mái nhà thân yêu trong cư
xá, nơi chúng tôi có một thời nhỏ dại êm ả. Mẹ đưa chúng tôi về căn
nhà riêng Ba Mẹ đã xây nên bằng công sức của Ba Mẹ, nhưng nhà này
cũng bị tịch thu. Sau hai lần mất nhà, chúng tôi lớn lên như câu ca
dao "Còn cha gót đỏ như son, mất cha lăn lóc như lon sữa bò." Ba
chúng tôi còn sống, nhưng đang bị đầy ải trong trại cải tạo ở núi
rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc. Những ngày u ám đó in hằn vào
đầu óc của chúng tôi, khiến chúng tôi trưởng thành sớm hơn tuổi của
mình, vì chỉ được xã hội cho nếm mùi cay đắng.
Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu
xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một
vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại
cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng
tôi sẽ được học hành thành người. Cũng như rất nhiều người vợ lính
khác, Mẹ đảm đang, xuôi ngược nuôi chúng tôi, nuôi Ba trong các trại
tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Tất cả những điều đó đẩy chúng tôi đến
đường cùng, không còn lựa chọn nào khác hơn là phải đưa chính mạng
sống của mình đánh cuộc với định mệnh, với đại dương. Còn nhớ thời
đó, người dân miền Nam Việt Nam vẫn truyền miệng một câu ngạn ngữ
của thời đại "Một là con nuôi mẹ, hai là mẹ nuôi con, ba là con nuôi
cá." Cứ thế một hai ba Mẹ lo cho con một mình vượt biển. Khả năng
vượt thoát chỉ là một phần ba. Ròng rã gần mười lăm năm dài, từ cuối
năm 1975 đến đầu năm 1990, hàng trăm ngàn thuyền nhân (hay theo như
cách gọi của UNHCR United Nations High Commissions for Refugees, Cao
Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc là "Boat People") đã đến được bờ bến tự do.
Cùng lúc, hàng trăm ngàn thuyền nhân khác gởi thân vào lòng đại
dương.
Chưa qua khỏi tuổi thơ, nước mất, nhà tan, chúng tôi, không có thời
mới lớn, tự động bước vào tuổi trưởng thành trước những khó khăn của
Mẹ, vượt quá nỗi khổ của bà Tú Xương ở thế kỷ mười chín, vừa nuôi
chồng trong tù cải tạo, vừa nuôi một bầy con dại còn ở Tiểu học hoặc
ở những năm đầu Trung học. Từng đứa một, khi có điều kiện, Mẹ gởi
chúng tôi ra đi.
Đến phiên tôi, Mẹ chỉ đưa được tôi ra bến xe liên tỉnh để đi Vũng
Tàu. Cả hai mẹ con đều đội nón lá rộng vành để che những giọt nước
mắt lã chã rơi không ngừng. Mẹ khóc nhiều hơn những lần đưa các anh
em trai của tôi ra đi, vì tôi là con gái duy nhất trong nhà, thân
gái dặm trường. Ngồi trên xe đò từ Saigon về Vũng Tàu, trong một góc
xe đò, tôi úp nón lên mặt, để che đôi mắt sưng đỏ vì khóc của mình.
Gần một tuần lênh đênh trên đại dương, chỉ có trời và nước, xanh
thẫm ban ngày, đen kịt ban đêm, không có cả một cánh chim, tôi nhớ
Ba, nhớ Mẹ quay quắt, nhưng vẫn hài lòng với chọn lựa của mình. Hai
ngày đầu, như mọi người trong lòng thuyền, tôi bị say sóng, nôn ra
cả mật xanh, mật vàng. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu thế
nào là "mửa mật". Vậy mà chỉ hai ngày sau, quen dần với cảm giác bập
bềnh của con thuyền nhỏ trước lực đẩy của nước ở đại dương, tôi tỉnh
táo lại hoàn toàn với đầy đủ sinh lực của "tuổi mười bảy bẻ gãy sừng
trâu" mặc dù đã hai ngày không ăn uống. Khi thuyền ra hải phận quốc
tế, chúng tôi được lên khoang thuyền hít thở không khí trong lành
đầy vị mặn của đại dương, hình như có thoang thoảng mùi vị của tự
do.
May mắn hơn những người tỵ nạn khác, chúng tôi đi bình yên, không
gặp một thuyền nào khác. Trời êm biển lặng vào tháng sáu đầu mùa hè
đưa chúng tôi đến thẳng đất liền của Mã Lai sau năm ngày sáu đêm
lênh đênh trên biến.
Lên tới đất liền, cùng với chú lái tàu, tôi phải vận dụng vốn liếng
tiếng Anh hạn chế đã tích lũy trong những tháng năm chuẩn bị vượt
biên để giải thích cho nhân viên Cảnh sát Mã Lai biết chúng tôi là
ai, tại sao chúng tôi đặt chân đến đây. Đó chỉ là lần đầu, một khởi
đầu kéo dài mãi cho đến bây giờ, phải giải thích tương tự cho rất
nhiều người khác nhau thuộc nhiều chủng tộc hiểu tại sao chúng tôi
phải bỏ quê hương ra đi để sống đời lưu vong.
Những giờ phút đầu tiên trên đất liền, chúng tôi lại bị "say đất".
Quen với trạng thái bồng bềnh, trôi nổi trên mặt nước; khi trở lại
mặt đất bằng phẳng, mỗi lần đặt bước chân xuống, tôi có cảm giác mặt
đất chao đảo như còn trên mặt sóng nhấp nhô. Sau hai ngày bận rộn
với đủ thứ giấy tờ khai báo với cảnh sát địa phương Mã Lai, chúng
tôi được đưa ra trại Pulau Bidong, trại tỵ nạn chính thức của Cao ủy
tỵ nạn Liên Hiệp quốc đặt trên lãnh thổ Malaysia để thành một người
tỵ nạn chính thức có số căn cước thuyền nhân, chờ được phỏng vấn
định cư ở một nước thứ ba. Lần này, hành trình từ đất liền ra đảo
Pulau Bidong vững chắc hơn trên một thuyền khá lớn của UNHCR, có tên
là "Blue Dart", khoảng cách lại ngắn, nên chúng tôi không bị say
sóng.
Trại tỵ nạn Pulau Bidong đã dược xây dựng tương đối đầy đủ khi chúng
tôi đến đảo vào giữa thập niên 80, có đủ trường Tiểu học, Trung học
cho trẻ em, trường huấn nghệ (Vocational School) cho người lớn, có
thư viện, có cả Chùa, Nhà thờ trên "đồi tôn giáo", có Bệnh viện với
cái tên khá ngộ nghĩnh và dễ nhớ là "Sick Bay". Chúng tôi được đón
tiếp với những thùng mì ăn liền vĩ đại hãy còn bốc khói, giống hệt
như những thùng mì Liên Hiệp Quốc phân phàt cho nạn nhân của thiên
tai Tsunami ở South Asia cuối năm 2004.
Lần đầu tiên ăn đồ cứu trợ, sống bằng lòng nhân đạo của người khác,
một thân một mình ở trại tỵ nạn của một đất nước khác, nước mắt tôi
lăn dài, nghĩ đến Ba vẫn đang mỏi mòn trong ngục tù cải tạo ở núi
rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc vẫn thiếu ăn, thiếu mặc; nghĩ
đến Mẹ đang vò võ một mình ở nhà, chắc là vẫn đang cầu nguyện cho
bầy con đã tứ tán mỗi đứa một quốc gia, một phương trời khác nhau, ở
tuổi chưa đến hai mươi.
Tưởng là mình đã rất can đảm khi dám chấp nhận cảnh "thân gái dặm
trường", không ngờ, ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, đến khu vực Cô nhi
(Minor Refugees Residential Section), dành cho các em dưới mười sáu
tuổi đến trại tỵ nạn một mình, tôi thấy em nhỏ nhất chỉ mới sáu
tuổi.
Ở đó, có Hanh, chỉ mới mười một tuổi, thông minh, đầy cương nghị, có
Bố đang bị "học tập cải tạo" - như Ba tôi - được Mẹ gởi đi vượt biển
một mình trên một thuyền bị hải tặc, mọi người đói lả gần ba ngày
trước khi đến được trại tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn, cậu bé tuy mới mười
một tuổi nhưng có sự khôn ngoan và nét chửng chạc cúa một người
ngoài hai mươi học hành chăm chỉ, hết học Anh Văn lại quay qua học
Toán, quanh quẩn cả ngày ở trường Trung học trên đảo Pulau Bidong.
Ở đó, có Huyên, một em gái mới mười ba tuổi, cả gia đình mất tích
trên biển khi thuyền bị lật. Như một phép màu, Huyên bám được một
thùng plastic rỗng, trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương gần nửa ngày,
trước khi được một tàu tỵ nạn khác đi ngang vớt lên. Người ta đã
thấy cô bé Việt Nam nhỏ bé mắt nhắm nghiền, gần như hôn mê bất tĩnh.
thân xác mỏng manh như chiếc lá khô, hai tay vẫn còn bám chặt cái
thùng nhựa rỗng bồng bềnh trên đại dương.
Ở đó, có Việt, rất thâm trầm, dù mới mười lăm tuổi, nhà cửa bị tịch
thu, Ba bị giam ở khám Chí Hòa vì "tội nhà giàu", Mẹ gởi em ra đi
với nhà hàng xóm để thoát khỏi tương lai đen tối của giai cấp "tư
sản mại bản".
Còn biết bao các em khác nữa. Mười một tháng sau đó ở Pulau Bidong,
với vốn liếng Anh ngữ từ những năm ở trường Trung học, và những sách
vở của thư viện trên đảo, tôi đã có cơ hội giúp cho UNHCR và cả các
phái đoàn Mỹ, Canada, Úc trong việc thông dịch mỗi khi họ đến phỏng
vấn thuyền nhân.
Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm giác xót xa khi nhớ lại những lần
thông dịch cho những ngưồi đàn bà, con gái Việt Nam bị làm nhục bởi
hải tặc trên đường vượt biển, em nhỏ nhất chỉ mới mười hai tuổi. Hồi
đó, Cao ủy trưởng Alan ở Pulau Bidong chỉ định tôi chuyên làm công
việc thông dịch đàn bà con gái trong các cuộc phỏng vấn các thuyền
vượt biển bị hài tặc. Đó là một công việc rất tế nhị và đầy xót xa.
Đến một độ nào đó, nỗi đau vượt quá sức chịu đựng, người ta mất cảm
giác. Nhiều người nữ thuyền nhân, mặt còn đầy nỗi kinh hoàng nhưng
kể lại từng chi tiết ô nhục mà chính mình phải gánh chịu với giọng
đều đều, thản nhiên, lạnh lùng như nói chuyện trời mưa, trời nắng,
trong khi chính tôi và cô May, Cao ủy của UNHCR đã giọt ngắn giọt
dài. Mỗi lần dịch hay viết xong một hồ sơ tàu tỵ nạn bị cướp, tay áo
tôi ướt đẫm vì nước mắt. Tôi vẫn tự hỏi thủ phạm trực tiếp cho nỗi
đau này là hải tặc Thái Lan, thủ phạm gián tiếp thực sự là ai?
Đó là khoảng thời gian rất bận rộn với công việc thông dịch ban ngày
giúp cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn. Ban đêm, tôi còn dạy thiện nguyện
cho các em , chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, ở trường Trung học trên trại
Tỵ nạn. Trường chỉ dạy hai môn Anh văn và Toán. Sách học là những
quyển sách đơn giản tương đương trình độ của bộ "English for Today"
quyển I đến quyển III. Trước ngày ra đi, tôi chỉ mới học xong quyển
IV ở Việt Nam , nhưng nhờ làm việc, tiếp xúc nhiều với các nhân viên
UNHCR, và bằng long thương yêu các em chân thành như em ruột của
chính mình, tôi mang hết kiến thức và hiểu biết của mình truyền lại
cho các em, mặc dù tôi chưa hề được qua một trường lớp nào về Sư
phạm. Chúng tôi, những người dạy thiện nguyện ở trường Trung hoc,
vẫn đùa với nhau là mình đã theo một "trường phái sư phạm mới", lối
dạy "mèo nhỏ tha chuột lớn".
Có lần, giải nghiã cho các em một từ mới, "dignity" - có nghĩa là
phẩm giá - tôi không biết làm thế nào để giảng cho các em hiểu, đành
viết lên bằng câu thí dụ "We lost everything, but never lose our
dignity". Viết đến đó, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi
mười bốn, mười lăm lúc đó cũng khóc theo. Những giọt nước mắt đó vẫn
còn đọng trong tâm khảm tôi cho đến bây giờ, cùng có niềm tin ở một
thế hệ trẻ lưu vong có đầy đủ đầu óc và trái tim Chắc chắn, các em
học sinh lúc đó, trên bước đường tha hương sau này, sẽ nhớ và hiểu
nghiã chữ "dignity" hơn ai hết, và các em sẽ sống xứng đáng với lòng
kỳ vọng của thân sinh các em, khi Ba Mẹ các em đã phải đứt ruột gởi
con ra biển một mình.
Mỗi tuần hai lần, tàu "Blue Dart" của UNHCR cho nước ngọt, mì gói,
gạo và thực phẩm tươi gồm gà và rau cải, đôi khi còn có dưa hấu hay
thơm, vào cho thuyền nhân. Hầu hết chúng tôi đến trại tỵ nạn chỉ với
một bộ quần áo dính trên người. Chúng tôi được phát áo quần từ một
kho áo quần "second hand", tương tự như áo quần cũ bán trong Goods
Will ở Mỹ. Áo quần thường rộng thùng thình, quá khổ, nhưng chúng tôi
tự sửa lại đúng với kích thước của mình. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp
quốc đã rất là chu toàn trong việc bảo vệ và chăm lo cho những người
tỵ nạn chính trị, Đến lúc được chuyển qua trại chuyển tiếp Bataan ở
Philippines để được hướng dẫn về đời sống văn minh của Mỹ trước khi
chính thức đến Mỹ như một người tỵ nạn, chúng tôi được huấn luyện
chương trình buổi sáng, buổi chiều làm "Teacher Aid" cho các giảng
viên người Phi. Ở đó, đời sống đầy đủ hơn, và lạc quan hơn vì chúng
tôi biết chắc chắn ngày mình được định cư ở Mỹ. Và cũng ở đó, tôi có
thì giờ tự học nhiều hơn cho chính mình, chuẩn bị một thời kỳ gian
nan khác, một khởi đầu từ con số không ở quê hương thứ hai. Một vài
lần được về chơi ở Manila (thủ đô của Philippines) , những chuyến du
lịch đặc biệt bằng xe bus dành riêng cho các "Teacher Aid", chúng
tôi vẫn ngậm ngùi thương cho sự lạc hậu của đất nước mình ngay cả
khi so sánh với các nước Á châu khác như Philippines.
"Nỗi buồn nhược tiểu" đó càng tăng cao khi trên đường bay qua Mỹ,
tôi được dừng chân hai ngày ở Tokyo - Nhật, thủ đô của nước Á châu
giàu mạnh nhất sau khi nếm bài học xương máu với hai cột khói trắng
hình nấm khổng lồ ở Hiroshima và Nagasaki cuối thế chiến thứ hai.
Tokyo văn minh sáng rực ánh đèn ban đêm tương phản với Saigon lạc
hậu tranh tối, tranh sáng, Nước mắt tôi lại chảy xuống cho sự thụt
lùi của quê hương đã bị bỏ lại sau lưng.
Tôi đến Mỹ một tuần trước lễ Giáng sinh, cùng một thuyền nhân Việt
Nam khác, hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được giao từ UNHCR, giúp
đoàn người tỵ nạn gồm 85 người kể cả một vài người Lào và Cambodia
cũng trốn chạy khỏi quê hương như chúng tôi. Giữa những hành khách
Mỹ tự tin, cao to, với nhiều hành lý cồng kềnh về nước đoàn tụ với
gia đình nhân dịp Giáng sinh và Tết dương lịch, rất dễ nhận ra những
người tỵ nạn nhỏ bé, mảnh mai mắt mở to vui mừng lẫn ngơ ngác, chỉ
có hai bàn tay trắng với những túi xách của UNHCR và IOM
(International Organization for Migration), chỉ có giấy tờ nhập cư
vào Mỹ và giấy tờ tùy thân .
Được chuẩn bị đầy đủ với gần 6 tháng học về "American Culture
Orientation" ở trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, với trình độ
Anh văn tương đối sau một năm tiếp xúc và làm thông dịch viên cho
nhân viên Cao ủy Tỵ nạn LHQ, tôi không đến nỗi bị lâm vào cảnh "mán
về thành", nhưng thật sự đời sống ở Mỹ khác xa với đời sống ở quê
nhà như mặt trời với mặt trăng, như ngày với đêm.
Hình ảnh của Ba với mái tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi trong lao tù
cải tạo, hình ảnh Mẹ với đôi mắt buồn trong những ngày chuẩn bị gởi
chúng tôi ra đi là nguồn nghị lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho
chúng tôi trong thời gian chân ướt chân ráo ở quê hương thứ hai.
Từ nhiều trại tỵ nạn ở nhiều nước khác nhau: Thái Lan, Indonesia,
Malaysia, Philippines, anh chị em chúng tôi đến Mỹ trong nhiều thời
gian khác nhau, được trùng phùng, như trăm sông đổ về biển, và mang
sức sống của tuổi hai mươi lao vào đất nước của tự do và cơ hội. Một
người bạn cũ của Ba, qua Mỹ từ năm 1975, đang làm ở tổ chức thiện
nguyện USCC, giúp tôi có được trợ cấp một lần là 650 dollars dành
cho người tỵ nạn mới đến , bác viết cho tôi một reference letter và
từ đó " I'm on my own way". Bác cũng giới thiệu cho tôi đến tìm việc
làm ở một vài nơi. Trời thương, "thánh nhân đãi kẻ khù khờ", tôi
được nhận vào làm full time ở một công ty lớn chỉ hai tuần sau ngày
đến Mỹ. Lúc đó là đầu tháng giêng, giữa mùa Đông ở Mỹ, trời lạnh
buốt, buổi sáng tôi thức dậy từ sáu giờ ba mươi, trời còn tối, ra
đứng chỗ xe bus ở đầu đường, trời lạnh cóng, dưới 40 độ Fahrenheit,
tôi phải mặc ba bốn lớp áo, nhưng áo quần cũ chị em chúng tôi đã mua
từ Goods Will để vừa với túi tiền của mấy chị em lưu lạc quê người,
chỉ có hai bàn tay trắng, với lòng tin của Ba Mẹ đặt ở mỗi chúng
tôi. Một tuần sau, chịu không nổi cái lạnh gần đông đá , từ 32 đến
39 độ Fahrenheit của mùa đông thứ nhất ở Mỹ, tôi dùng cái paycheck
đầu tiên của mình thuê người dạy lái xe và dốc hết tiền trợ cấp một
lần cho người mới đến mua một cái Toyota Celica đã mười bốn tuổi, để
đi học và đi làm. Đời sống lúc đó, còn nhỏ, là một hình tam giác với
ba đỉnh là nhà, trường học và sở làm không hề có giải trí, không có
cả thời gian để buồn và nhớ nhà. Đến Mỹ muộn màng, sau gần mười năm
miền Nam sụp đổ, biết thân phận mình là "trâu chậm", chúng tôi lao
đầu vào học, không dám để phí thêm một giờ phút nào. Mùa hè, học phí
cao hơn, tôi chỉ ghi danh theo học một lớp, và làm part time cho một
trạm bán xăng ở gần nhà Nghĩa là lúc đó, tôi đi làm full time, đi
học full time quanh năm. Nhiều lúc quá mệt mỏi, tôi lại tự nâng đỡ
tinh thần mình bằng câu nói cửa miệng của người Mỹ "No pain, no
gain", và nhớ đến kỳ vọng của Ba Mẹ đã đặt ra cho chúng tôi. Buồn
nhất là những lần bất chợt nghe được những câu hát rất đúng với tâm
trạng của mình: "Ai trở về xứ Việt, nhắn giùm tôi người ấy ở trong
tù .....", nghĩ đến Ba, nước mắt tôi vẫn lăn dài, và tự bảo lòng
mình phải cố gắng học giỏi hơn để Ba Mẹ vui hơn, đủ nghị lực sống
trong đời sống bị khủng bố tinh thần thường xuyên ở quê nhà.
Có lần được phát biểu cảm tưởng với thời gian ba phút trong một lần
nhận học bổng, tưởng là sẽ cảm ơn đủ tất cả mọi người và hứa với
"scholarship foundation" sẽ cố gắng nhiều hơn, nhưng tôi chỉ nói
được gần hai phút: - Xin cảm ơn tất cả thầy cô đã có công dạy dỗ
tôi, xin cảm ơn Hội đồng trao tặng học bổng cho tôi. Xin tri ân đất
nước Hoa Kỳ đã cưu mang và cung cấp một đời sống tự do, no đủ cho
tất cả những người tỵ nan, lưu vong. Vinh dự hôm nay xin được dành
riêng cho tất cả những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày
hôm nay, và xin đặc biệt danh riêng cho Ba tôi, người vẫn còn đang
bị đày ải trong lao tù Cộng sản vì đã ở trong một quân đội bảo vệ tự
do, xin được dành riêng cho Mẹ tôi, người đã rất chu toàn trong việc
nuôi dậy con cái một mình.
Một phút còn lại, tôi không nói được vì cử tọa trước mặt đã mờ đi
sau màn nước mắt, mùi vị đắng cay sau năm 75 ở quê nhà vẫn kéo về
với đầy nỗi xót xa, ngay cả trong giờ phút ngọt ngào nhất. Một thầy
giáo người Mỹ gốc Ba Lan đã tỵ nạn Cộng sản từ cuối thập niên 60,
dạy tôi từ năm đầu Đại học, hiểu rất rõ tâm trạng của một người tỵ
nạn, đã lên diễn đàn giúp tôi hoàn tất lời phát biểu. Lần đó, tôi
được đặc cách đề cử trực tiếp cho học bổng niên khoá kế tiếp, mà
không phải qua những thủ tục bình thường. Món tiền tuy không lớn,
cũng đủ để trang trải chi phí sách vở, học phí, ăn ở cho một năm
học, là một yểm trợ vật chất lớn lao cho tôi trong ba năm đầu chân
ướt chân ráo ở quê người. Có những điều hằn sâu trong ký ức, lúc nào
cũng tưởng như mới vừa xẩy ra, như chuyện say sóng đến độ "mửa mật"
của những ngày lênh đênh trên đại dương vẫn ám ảnh tôi không nguôi.
Cho nên, có lần được chọn là "Employee of the year" được tặng vé cho
một chuyến đi cruise trên biển một tuần cho hai người, nhớ lại cảm
giác đắng nghét ở miệng, cảm giác mất thăng bằng của những ngày mới
đặt chân lên đất liền, tôi đã nhường lại phần thưởng đó cho "the
runner up" trước con mắt ngạc nhiên của mọi người làm cùng chỗ. Đó
không phải là điều duy nhất người bản xứ không hiểu những người tỵ
nạn, những người Mỹ gốc Việt lưu vong. Họ cũng không hiểu tại sao
rất nhiều người Việt Nam nhỏ bé ốm yếu vẫn đội mưa đội gió hàng giờ
giương cao những tấm biểu ngữ "Human Right for VietNam", "Freedom
for VietNam" ở một góc đường nào đó trong đời sống lạnh lùng, đầy
tất bật của đất nước Hoa kỳ.
Sau khi đã ổn định, - đã có một "career" đàng hoàng thay cho cái
"job" để kiếm sống - có thời tôi đi dạy thiện nguyện cho một trường
Việt ngữ ở điạ phương, học sinh là các em teenagers. Dù cùng tuổi
nhưng học trò của tôi bây giờ vô tư, ngây thơ, khác xa các em trong
trại tỵ nạn chững chạc, trưởng thành trước tuổi. Ở trường Việt ngữ,
ngoài bài giảng từ sách của trường, thì giờ còn dư, chúng tôi giảng
trích đoạn từ tác phẩm "Mùa hè đỏ lửa" của nhà văn Phan Nhật Nam, từ
bài thơ bất khuất "Nếu ai hỏi" của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện để các
em hiểu rõ hơn giá trị của tự do, và biết yêu thương cha mẹ hơn,
biết ơn cha mẹ các em đã hy sinh rất nhiều để các em có được ngày
hôm nay.
Đời sống ở Mỹ vốn tất bật, nhưng một phút bình lặng nào đó của tâm
hồn, dù đang bị kẹt xe trên một xa lộ xe cộ tất tả ngược xuôi hay
đang ở trong một cuộc họp ở sở, đầu óc tôi vẫn lang thang về với quê
nhà, và buồn thay, bao giờ cũng vậy, mùi vị đắng nghét như đang bị
"mửa mật", mùi vị chua cay của một thời vẫn hiện về, rõ ràng, mồn
một như chuyện hôm qua.
Và có một lần "chuyện hôm qua" càng rõ nét hơn. Đến thăm
Massachusetts Institute of Technology (MIT) nổi tiếng về chuyên
ngành Toán và Kỹ thuật, đang ngồi chờ người bạn ở cafeteria của
trường, bỗng một sinh viên người Á châu đi qua, đi lại trước mặt tôi
nhiều lần. Sau cùng, anh ta dừng lại, lịch sự hỏi bằng tiếng Mỹ: -
Xin lỗi, chị có phải là cô Thuyên ở trường Trung học Pulau Bidong
năm 1988 không?
Tôi trả lời bằng tiếng Việt:
- Đúng rồi, em có thể nhắc cho tôi nhớ em là ai không?
Người thanh niên vui mừng, rồi bằng một thứ tiếng Việt rõ ràng và lễ
độ, anh ta trả lời:
- Em là Hanh đây chị, em học cùng lớp với Huyên và Việt ở Pulau
Bidong. Chị nhớ em không?
Hanh vẫn nhận ra tôi sau mười lăm năm không gặp, nhưng tôi thì không
thể nhìn ra được anh thanh niên cao lớn chững chạc trước mặt mình là
cậu bé đen nhẻm, chững chạc, chăm học ở trại tỵ nạn năm xưa, Hanh
lúc đó đang ở năm cuối của chương trình Tiến sĩ Toán, như ước mong
ngày nào em đã trình bày trong một giờ thực tập nói tiếng Anh ở lớp
học nhỏ xíu, mái lợp tôn thô sơ giữa đảo Pulau Bidong. Hanh kể cho
tôi nghe về chuyện em đến Mỹ một mình ở tuổi mười hai, cùng với một
nhóm ngườI Việt Nam tỵ nạn đặt chân đến Mỹ ở phi trường San
Francisco, Hanh đổi máy bay về Massachusetts. Đi một mình, dưới mười
lăm tuổi, nên Hanh được một cô Stewardess đích thân dắt lên máy bay
trước.
Ra đón cậu bé tỵ nạn Việt Nam ở phi trường Logan Boston - là đại
diện của một tổ chức thiện nguyện và cha mẹ nuôi của Hanh. Đó là một
gia đình ngươi Mỹ gốc Tiệp Khắc, qua Mỹ tỵ nạn từ thập niên 60s. Dù
chưa bao giờ có ý định xin con nuôi, nhưng thấy Hanh là một cậu bé
mới mười một tuổi vượt biển một mình, không có thân nhân, nên họ
muốn đưa Hanh về nuôi. Cả hai ông bà đều dạy Trung học. Ông dạy
Toán, bà dạy Home Economics (tương tự như môn Nữ công gia chánh ở
Việt Nam). Người con duy nhất đi học xa, ông bà vẫn làm việc thiện
nguyện ở một Nhà thờ Tin lành vào cuối tuần. Khi thấy tên Hanh, một
em nhỏ tỵ nạn Việt Nam mới mười một tuổi, không có thân nhân ở Mỹ,
được nhà thờ tìm người bảo trợ, họ xin nhận Hanh làm con nuôi. Vẻ
chín chắn cùng sự khôn ngoan trước tuổi của Hanh đã chinh phục được
lòng thương yêu của bố mẹ nuôi người Mỹ từ lúc đầu. Vì cả hai ông bà
đều là nhà giáo, Hanh lại có căn bản về cả tiếng Anh lẫn học lực,
lại chăm chỉ học hành nền em được vào thẳng lớp bảy như các học sinh
bản xứ mà không gặp trở ngại nào.
Lên Trung học, Hanh tốt nghiệp thủ khoa Trung học. Với sự hướng dẫn
quý báu của cha mẹ nuôi, với thành tích học tập xuất sắc trong bốn
năm Trung học, cậu bé Hanh tỵ nạn năm xưa nhận được học bỗng toàn
phần của MIT, trong niềm hãnh diện của cha mẹ nuôi ở Mỹ lẫn cha mẹ
ruột ở Việt Nam. Giữa thập niên 90s của thế kỷ hai mươi, ba mẹ sinh
thành cùng hai em của Hanh được qua Mỹ theo chương trình nhân đạo
HO. Vậy là Hanh có đến hai ông bố, hai bà mẹ, và hai gia đình cùng ở
tiểu bang Massachusetts, trong hai thành phố kế cận nhau. Không muốn
làm mất lòng gia đình nào, và để được tập trung học tập, Hanh vào
nội trú trong MIT. Mổi thứ bảy về với cha mẹ ruột, ăn món ăn Việt
Nam do mẹ nấu, nghe ba kể về những đọa đày ông phải gánh chịu trong
các trại "cải tạo". Và mỗi chủ nhật, về lại căn phòng thân thuộc mà
cha mẹ nuôi đã dành cho Hanh từ ngày cậu bé Việt Nam, da còn đậm màu
nắng gió của trại tỵ nạn, chân ướt, chân ráo đến Mỹ. Căn phòng dù
không còn được dùng thường xuyên, nhưng trong closet vẫn còn treo
hai bộ áo quần kỷ niệm của Hanh, một bộ Hanh mặc khi mới đến Mỹ được
người bảo trợ ra đón, và bộ kia là bộ áo quần đầu tiên Hanh được bố
mẹ nuôi mua cho. Ở một góc bàn học, vẫn còn cái lọ thủy tinh có cắm
hai lá cờ nhỏ, một sọc trắng đỏ với năm mươi ngôi sao của Mỹ, một
màu vàng với ba sọc đỏ của Việt Nam. Trên tường vẫn còn hình Hanh
năm mười tám tuổi, chững chạc trong áo mũ và dây choàng thủ khoa
(valedictorian) ngày tốt nghiệp Trung học.
Một chi tiết rất cảm động trong câu chuyện của cậu bé tỵ nạn ở Pulau
Bidong năm xưa là hồi mới đến Mỹ, mỗi lần được cho kẹo chocolate,
Hanh chỉ ăn một phần nhỏ và để dành hầu hết kẹo để gởi về Việt Nam
cho hai em và cho các bạn. Điều "bí mật" đó bị phát hiện khi hai ông
bà Mỹ thấy cậu con nuôi ăn uống rất chừng mực từ tốn nhưng luôn luôn
xin được mua thêm chocolate. Kẹo "để dành" thường được Hanh gói cẩn
thận trong những túi nylon dán kín để trong một góc tủ áo quần.
Halloween đầu tiên ở Mỹ, đi học về, làm xong bài vở, trời vừa sụp
tối, Hanh xin phép ba mẹ nuôi cho đi xin kẹo. Cậu bé miệt mài đi bộ
một mình trong thời tiết se lạnh đầu mùa thu ở miền Đông Bắc trên
bốn năm con đường, gõ cửa từng nhà xin kẹo. Kêt quả rất khả quan,
sáng hôm sau Hanh gởi được một thủng kẹo mười hai lbs (khoảng 5kg)
về Việt Nam mà cước phí còn cao hơn cả tiền mua kẹo. Có nguồn gốc là
người Tiệp Khắc, một thời đã phải sống dưới chế độ Cộng sản, bố mẹ
nuôi của Hanh hiểu ngay mọi chuyện. Và ông bà càng quý Hanh, cậu bé
Việt Nam tuổi còn nhỏ nhưng tấm lòng đã rất lớn.
Đến phiên tôi, tôi cũng kể cho Hanh nghe giòng đời đã đẩy đưa tôi từ
trại tỵ nạn năm xưa đến California như thế nảo. Có nằm mơ, tôi cũng
không tưởng tượng nổi mình gặp lại được cậu học trò đen nhẻm vì vị
mặn của gió biển ở Mã Lai, có đôi mắt sáng nhưng lúc nào cũng buồn ở
trường Trung học trên đảo Bidong ngày nào. Ước gì tôi cũng gặp được
Huyên và Việt, cũng như đã hội ngộ rất bất ngờ với Hanh ở một góc
trường MIT ở miền Đông Bắc nước Mỹ. Nhưng dù chưa hay không có dịp
tái ngộ với Huyên và Việt, tôi vẫn tin hai em đã rất thành công như
Hanh, chứng minh mình có thể làm được nhiều điều, chẳng hạn như
chuyện học hành, mà có một thời ở trong nước , sau tháng 4/75, nhà
cầm quyền không cho phép mình làm.
Tất cả chúng tôi dều giống nhau ở chỗ phải xa nhà, bỏ đất nước ra đi
một mình, dù lúc nào trong tâm tưởng của chúng tôi cũng có một vị
trí trang trọng cho quê hương chôn nhau cắt rốn đã phải bỏ lại sau
lưng. Chúng tôi đã phải mang cả sinh mạng của mình ra đánh cuộc với
định mệnh, với đại dương; một cái giá không một khoản tiền nào, dù
lớn đến đâu có thể mua được. Những được mất với cuộc đời hãy còn ở
trước mặt, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ cố gắng không ngừng để xứng
đáng với cái giá mình phải đánh đổi.
Chia tay Hanh hôm đó, tôi mang theo câu nói của Hanh với khuôn mặt
rất nghiêm trang, già trước tuổi, và vẫn với đôi mắt buồn xa vắng
như lần đầu tiên tôi gặp em ở trường Trung học trên đảo tỵ nạn:
- Điều em vui nhất là đã đền đáp được phần nào ơn nghĩa sinh thành
của cha mẹ ruột và ân tình cưu mang của bố mẹ nuôi. Em vẫn cố gắng
hết mình, cố gắng đến hết cuộc đời để luôn làm cho cả Ba Mẹ lẫn
Mommy, Daddy của em vui Điều duy nhất không chắc em có làm được hay
không, là "gánh sơn hà" mà đôi lúc Ba em và các bác, các chú cùng
thời vẫn nửa đùa nửa thật là đã trao lại cho thế hệ của mình.
Hanh dừng một chút rồi hỏi một câu mà đến bây giờ tôi vẫn chưa biết
cách trả lời:
- Gánh sơn hà nặng lắm một mình em hay cả hai chị em mình không thể
nào gánh nổi! Chị ơi, làm thế nào để cả thế hệ của mình đủ sức gánh
nổi sơn hà hả chị?
Câu hỏi đó cứ quanh quẩn trong tôi và chắc là phải còn lâu, lâu lắm,
tôi mới biết được câu trả lời chính xác Nhưng tôi tin là chỉ cần một
phần mười của một thế hệ Việt Nam (cả ở hải ngọai lẫn trong nước)
biết đoàn kết, có nhiệt tâm gánh vác non sông với chí khí của Trần
Quốc Toản, với lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học và với đầu óc của
Lê Quý Đôn thì gánh sơn hà sẽ nhẹ nhàng như cái cặp đi học rất thân
thuộc của một thời đèn sách.
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Viết cho Lan Hương, Tiến, Tuấn và những thuyền nhân "đi biển" một
mình).
No comments:
Post a Comment