Tôi bỏ xứ ra đi giữa một chiều thu Tháng bảy. Tôi cũng không nghĩ rằng
có thể vượt thoát được ở lần cuối cùng này. Bao nhiêu lần ở trong nước,
những miền duyên hải của Việt Nam gần như tôi đi qua hầu hết. Thời điểm
gần cuối năm 1987. Những trại tị nạn ở các vùng Đông Nam Á chuẩn bị rục
rịch đóng cửa. Những vùng biển của các tỉnh lại bị kiểm soát chặt chẽ.
Tôi những người tưởng mình gần như chấp nhận cái định số của mình buông
xuôi ở lại. Tình cờ một người bạn của đứa em tôi rủ rê hắn đi.
Lộ trình đi theo ngõ Campuchia. Ban đầu tôi cứ tưởng lộ trình đường bộ, vượt Trường Sơn qua đất Thái như nhiều người thường nói. Tôi cản hắn. Và thật sự em tôi cũng chả tha thiết mấy trong những toan tính này, Tôi tìm hiểu kỹ lại từ đứa bạn của em mình. Thật ra, lộ trình đường bộ là đi xe lên Châu Đốc, đến bến Hồng Ngự thuộc sông Mê Kông, ranh giới giữa Việt Nam và Cam Bốt, rồi đi tàu sang Nam Vang. Lộ trình kế tiếp sẽ đi lên tỉnh Battambang, một tỉnh của Cam Bốt ở gần biên giới cách ngăn đất Thái. Cảng Kompungsom sẽ là nơi cuối cùng lên ghe vượt biển sang đất Thái.
Thú thật ban đầu tôi cũng cảm thấy lo sợ với lộ trình này.
Nhưng nghĩ lại thời gian không cho phép mình còn những lựa chọn trước
khi quá muộn . Vả lại tôi cũng muốn thử thời vận lần cuối trước lúc chấp
nhận thua cuộc. Bao nhiêu lần đi chẳng thoát, biết đâu lần này lại
được. Coi như một cuộc thăm viếng nước ngoài. Biết thêm một nơi mới lạ
cũng vui. Tôi quyết định điền thay em tôi vào chuyến đi này. Nếu tính
thật chính xác, ngày rời Việt Nam và đặt chân lên đất Thái vừa đúng ba
đêm hai ngày. Cho đến giờ này tôi vẫn còn nhớ như in . Cả một hệ thống
hối lộ từ Việt Nam sang Nam Vang trải khắp lộ trình từ đường bộ cho tới
bãi biển chẳng có gì trở ngại. Tôi cũng không tưởng tượng nổi bãi biển
nơi ngồi đợi tàu, tôi đã chứng kiến ba chiếc ghe cập bến cùng một lúc
dưới sự bảo vệ của du kích Cam Bốt tiễn lên tàu. Giống như một cuộc du
lịch. Còn chưa kể những thủy thủ trẻ người nhưng già dặn trên biển. Cả
một chuyến ghe hơn ba mươi mạng người chúng tôi chỉ có hai can nước uống
loại hai mươi lít, và hai giỏ cam khoảng chừng trăm trái. Sau ngày trên
tàu tôi mới hiểu chuyện. Một tháng có hơn mười ngày họ tổ chức vượt
biển mướn chở người như vậy rồi lái tàu về. Lộ trình trên biển các thủy
thủ nằm lòng như lộ trình trên bộ. 12 giờ đêm khởi hành từ cảng
Kompungsom, 12 giờ trưa tàu đã bỏ neo trên hải phận Thái Lan. Họ chờ tới
tối trời mới thả người vào đất liền. Nhìn các thủy thủ né tránh các tầu
đánh cá, các tàu tuần dương của Thái Lan mới thầm phục cho sự lành nghề
trên biển của nhóm thủy thủ trẻ này .
Trời vừa sụp tối và cũng
mất hai giờ chạy, tàu thả chúng tôi vào bờ. Bãi đỗ người là một bãi lầy
nên không thấy bất cứ chiếc ghe nào lảng vảng ở khu vực này. Như một bãi
hoang . Ghe vừa mực nước ở ngang bụng, các thủy thủy đã hối thúc đám
người chúng tôi nhảy xuống. Vài người còn có vẻ sợ sệt đã bị họ đẩy
xuống lẹ làng rồi phóng ghe rú mất dạng.
Cả nhóm người chúng tôi
nhắm hướng rừng tràm và ánh đèn trước mặt tiến tới. Khoảng hai cây số.
Chúng tôi cứ thi nhau bước vội trên bãi lầy cho đến khi có cảm giác
chẳng bước được nữa . Nước thủy triều đã rút hết chỉ còn trơ bãi. Bùn
lấy bám lên quần áo càng lúc càng nặng. Vài người đàn ông đã cởi hết
quần áo chỉ còn trơ chiếc quần cụt cho nhẹ di chuyển. Bây giờ chúng tôi
chỉ còn nhấc chân từng chút một. Đám phụ nữ chúng tôi vì quá mệt mỏi
dưới sức nặng của bùn lầy bám vào quần áo, vài người quên hết cả xấu hổ
cũng đã cởi bỏ hết quần áo chỉ còn lại đồ lót để cho dễ di chuyển. Mưa
bắt đầu lất phất, gió rét thổi mạnh thấu xương, cộng thêm nước biển thấm
lần vào người . Khu rừng tràm cách chúng tôi chưa quá hai cây số mà lết
mãi còn thấy xa thẳm. Đến lúc quá mệt mỏi chẳng còn ai đủ sức di chuyển
được nữa, đám phụ nữ chúng tôi tụm lại gần ôm nhau nằm luôn trên bãi
lầy, cố tạo hơi ấm để chống chọi với cái rét cho đến sáng.
May
mắn cho chúng tôi, có vài người đàn ông cùng ghe đã lên được trên làng
và tìm ra trại lính cách đấy không xa. Gần sáng, một toán lính người
Thái dưới sự hướng dẫn của vài người đàn ông ra đến. Chúng tôi vẫn còn
ngủ mê mệt trên bãi lầy. Chúng tôi được đưa vào trại lính bên cạnh con
suối nhỏ để tắm rửa. Mặt mũi đầy bùn đất, hai tay cố che đậy thân thể
chỉ còn mỗi đồ lót trên người. Dầu vậy cái thoát chết đã làm cho tụi tôi
quên đi sự xấu hổ . Chúng tôi chỉ biết nhìn nhau cười. Mỗi người chúng
tôi được phát một bộ quần áo rộng thùng thình quá khổ người, và sau đó
được chuyển đến một trại tạm trú cách trại lính không xa mấy.
Trại
tên Klongjai giáp ranh phần biên giới đất Thái. Ở đây còn lại những dấu
tích của những hố bom trong chiến tranh. Chúng tôi bị kiểm tra sơ khởi
phần lý lịch. Sau đó mỗi người được cấp phát chăn màn. Căn trại tạm bợ
trong một diện tích nhỏ khoảng chừng năm mươi thuốc vuông, chỉ một mái
che và bên trong ngăn thành hai gian : một quán cà phê và một quán tạp
hóa nhỏ. Ở đây những người tị tạn có thể đổi đô la hay vàng ra tiền Thái
và mua tem thư liên lạc gia đình. Ngoài ra không có bất cứ một phương
tiện thông tin nào khác. Buổi tối, mỗi người chúng tôi tự tìm một chỗ
nghỉ lưng cho mình. Hầu như tất cả phải nằm ngoài trời.
Tôi ở đấy
được hai ngày và chứng kiến cả một làn sóng người ồ ạt đến. Gần như
khoảng năm đến mười chiếc ghe mỗi ngày. Chúng tôi thường đứng trước của
trại nhìn người, hy vọng trong số mới đến có người quen của mình. Trại
hẹp và sức chứa tăng nhanh mỗi ngày đến khủng khiếp. Những chuyến xe tải
người đến trại không đủ đáp ứng. Đến nỗi chính phủ Thái đâm hoảng phải
tìm cách ngăn chặn bớt làn sóng thuyền nhân vào đất Thái mà họ gọi là
những tổ chức buôn người này.
Trại thứ hai tôi được chuyển đến là
trại Panat Nikhom và cũng là trại cuối cùng quyết định vận mạng chúng
tôi . Ở đây là một trại tập trung người tị nạn và đúng tiêu chuẩn nhất
so với các trại nhỏ trên đất Thái . Phái đoàn các nước thường xuyên đến
đây để phỏng vấn thuyền nhân và qui chế tị nạn. Diện tích trại hơn nửa
cây số vuông, có trường học nhà thờ,chùa chiền, chợ quán, bưu điện, bệnh
viện... được bao bọc bởi một hàng rào lợp tôn cao hơn ba thước ngăn
cách bên ngoài trại. Trại phân biệt ra nhiều lô xếp theo thứ tự A, B,
C...và đánh số. Mỗi lô chứng hai mươi mét vuông, chỉ có mái tôn che,
không vách. Mỗi người tự tìm phương tiện ngăn chia cho mình một chỗ ngủ
dựa theo tiêu chuẩn; Độc thân sẽ là 1mx3, và được giám sát bởi một
trưởng lô là thuyền nhân do trại trưởng Thái Lan chỉ định. Trách nhiệm
của lô trưởng là phát thức ăn, nước uống, nước tắm rửa và chia phiên các
thuyền nhân làm vệ sinh nhà cầu và khu vực quanh lô của mình. Vấn đề an
ninh thì được một nhóm thuyền nhân khác là những người đã ở lâu trong
trại ( Có người ở đây gần mười năm ) dưới sự chọn lựa từ ban chỉ huy
trại, gọi là trật tự viên theo dõi mọi sinh hoạt của thuyền nhân. Ai đã
từng ở qua trại này chắc chắn thấy cái tàn bạo, sự lạm dụng uy quyền và
dữ dằn của những thuyền nhân đội lốt mang danh là trật tự viên này.
Tôi
được chia về lô mang mẫu tự L9 và xếp chỗ ngủ chung với chị Nguyệt, một
chị độc thân lớn hơn tôi khoảng vài tuổi. Tôi gọi đây là một ổ ngủ của
chúng tôi. Chị đã ở đây hơn năm năm và đã bị phái đoàn các nước bác đơn
qui chế tị nạn nhiều lần. Những người cùng chuyến ghe tôi ai nấy tạm
yên, bây giờ mỗi người tự kết nhóm, ăn uống và sinh hoạt chung dựa theo
điều kiện kinh tế mỗi người. Tôi chẳng dám ra nhập vào nhóm nào. Tôi tự
biết thân phận mình . Bao nhiêu lần vượt biển không thành tiền mất tật
mang. Chuyến đi cuối cùng này gia đình cũng phải mượn bà con để thanh
toán lệ phí. Tôi lại chẳng có bất cứ người bà con nào ở nước ngoài để
nhờ viện trợ. Chỉ còn cầu may vào vài người bạn học cũ mà đến nay vẫn
chưa bắt được liên lạc. Năm phân vàng cuối cùng của tôi mang theo đã đổi
ra từ trại Klongjai, một ít dùng vào việc báo tin cho gia đình, liên
lạc bạn bè, một ít mua những linh tinh cần thiết...Số tiền còn lai quá
ít ỏi lúc ấy lại phải mua thêm các vật dụng nấu nướng, mà tôi cũng lo
lắng cho những ngày sắp tới không biết phải xoay xở làm sao nữa.
Tôi
nhập trại đùng vào ngày đầu tuần và cũng là ngày lãnh thực phẩm. Tiêu
chuẩn lương thực cho một đầu người trong một tuần gốm 4 kg gạo, 3 kg
chất đốt làm bằng than đá, vài bó rau và khoảng chừng 1 kg cá khô, thêm
một ít muối. Thực phẩm chỉ có chừng ấy, chỉ đủ ăn một ngày. Những ngày
còn lại các thuyền nhân phải tự lo liệu lấy. Thật ra sau này tôi được
biết, Cao Ủy Liên Hiệp Quốc cấp tiêu chuẩn cho mỗi người tị nạn giá trị
50 đô la mỗi tháng. Việc cắt xén tài khoản này không biết đi vào chính
phủ Thái Lan hay ban điều hành trại. Chỉ biết là với tiêu chuẩn này, các
người tị nạn nếu không có thân nhân nước ngoài viện trợ sẽ dễ rơi vào
hoàn cảnh khốn nạn nhất.
Thái Lan được xếp loại là một trại tồi
tệ nhất trong vùng Đông Nam Á thật chẳng sai tí nào. Tiêu chuẩn thực
phẩm một đầu người của tôi quá ít ỏi nếu phân chia đơn lẻ. Trưởng ban đề
nghị tôi lãnh chung luôn phần của chị Nguyệt cho tiện việc phân chia.
Vô hình chung chị và tôi trở thành một nhóm nhỏ xếp vào loại nghèo trong
trại. Buổi trưa, nắng chiều xuống mái tôn nhà gây sức nóng hừng hực.
Cái nóng như nung người của đất Thái không khác thua gì ở Việt Nam. Chị
Nguyệt vẫn chua thấy về. Chị đã đi đâu từ mờ sáng. Tôi ngồi bên góc bếp
riêng của chị đã có sẵn, chọn một ít cá khô và lặt một mớ rau để chuẩn
bị làm canh. Loại rau của Thái trông giống như rau dền xứ mình nhưng có
mùi vị hơi chát. Tôi nêm thêm một ít muối vào canh rồi nhấc xuống và bắt
đầu thổi cơm. Cơm vừa chín tới thỉ tôi thấy dáng chị Nguyệt đang gánh
nước trở về. Chị đặt đôi gánh đầy nước bên góc nhà nơi làm chỗ tắm rửa
và nhìn quanh. Có lẽ chị muốn tìm thực phẩm của chị. Tôi lên tiếng:
- Chị tìm thực phẩm của chị à? Trưởng lô đã chia phần em và chị ở đây rồi.
Hai tay vừa lau những giọt mồ hôi còn đọng trên má, chị bước vào ổ ngủ và ngồi xuống bên cạnh tôi:
- Cám ơn em ! Em đã nấu cơm rồi à?
Tôi trả lời:
-
Dạ vâng ! Chị rửa mặt rồi dùng cơm luôn thể. Đã trưa rồi mà chẳng thấy
chị về, đành mượn bếp chị nấu đại cho hai người. Xin lỗi chị nhé !
Chị nhìn tôi và cười. Cái cười trông đôn hậu và dịu dàng. Chị nói:
- Có sao đâu em ! Em cứ tự nhiên. Chị bận quá ! Em giúp chị như vậy là tốt rồi. Chị phải cám ơn em mới đúng.
Chúng
tôi ngồi ăn cơm, thức ăn đã được bày trên tấm nylon vụn bên góc bếp.
Thực ra chỉ có món canh rau cá khô duy nhất. Bữa ăn nghèo và đạm bạc của
hai kẻ mồ côi. Không thấy một chút thịt hay cá tươi như những nhóm khác
cùng lô. Ăn xong chị Nguyệt dành phần rửa chén. Tôi quét dọn ổ ngủ và
trải tấm nhựa xanh làm chiếu cho hai chị em nghỉ lưng. Trời vẫn còn
nóng. Bên hàng rào tôn, vài người thập thò canh nhóm trật tự để rình mua
đá lạnh hay những vật dụng khác từ bên ngoài vòng rào. Luật lệ trại cấm
ngặt sự mua bán qua cách này. Ai vi phạm bắt được sẽ bị cạo đầu và giam
tù ba ngày không phân biệt nam nữ. Đôi khi còn bị đánh đập nữa là đằng
khác. Nhưng vài người vẫn cứ tiếp tục. Họ cắt những miếng tôn nhỏ thành
góc vuông để tiện việc mở ra và gấp lại khi mua bán hàng hóa. Nhóm tay
sai ban trật tự thỉnh thoảng vẫn bắt gặp và bắt giam. Nhưng người ta vẫn
liều lĩnh. Bởi có lẽ dễ hiểu, giá bên ngoài trại rẻ gấp hai lần so với
bên trong. Ban quản lý trại cố tình làm như vậy để bán giá cắt cổ từ các cửa hàng bên trong trại, có lẽ là của thân nhân hay gia đình họ.
Trời
bắt đầu kéo từng cụm mây xám cuốn về bao quanh trại. Gió hiu hiu. Đã
dịu bớt đi cái nóng và trời đang chuẩn bị chuyển mưa . Tôi nhìn sang bên
chị Nguyệt . Chị đã ngủ từ bao giờ. Vài hàng nút áo của chị bật ra. Một
vòng ngực trắng căng đấy và no tròn đang phập phồng theo nhịp thở.
Khuôn mặt trái xoan, sống mũi cao và hàng lông mi cong vút. Phải nhìn
nhận chị có một vẻ đẹp đến man dại, ngoại trừ làn da mặt hơi đen có thể
do dãi dầu mưa nắng . Tôi nhìn ra ngoài sân, vài người chạy vội đi gom
những quần áo phơi bên ngoài trên các hàng dây quanh trại. Mưa càng lúc
càng nặng hạt. Tiếng mưa gõ trên mái tôn những âm thanh lộp độp và đều
đặn nghe đến buồn phiền. Mưa kéo dài hết cả buổi chiều. Tôi chuẩn bị cho
bữa cơm tối. Chị Nguyệt cũng đã thức dậy và lấy một ít gạo ra vo. Mưa
đã bớt nặng hạt. Tôi mồi lửa và đốt than đá. Tôi lấy thức ăn lãnh buổi
sáng treo lên vách bếp đem xuống. Cúng vẫn bộn cũ xoạn lại. Nhưng có
chút ít thay đổi. Bó rau còn lại để dành cho ngày mai, chỉ nướng thêm
vài con cá khô nữa cho bữa tối. Ăn uống và dọn dẹp xong thì quanh trại
cũng đã lên đèn. Chị Nguyệt lấy chiếc đèn dầu con khơi lại tiêm và đốt
lên. Mưa lúc này đã dứt hẳn. Trời dễ chịu hơn. Hai đứa tôi nằm bên nhau
và nhìn ra ngoài trời đêm. Chị gợi chuyện trong đôi mắt chớp buồn :
-
Lâu lắm rồi chị mới có một bữa ăn chung như thế này. Mình nghèo quá
chẳng có thân nhân viện trợ, chẳng ai muốn kết bạn. Đi về và mỗi bữa ăn
cũng chỉ thui thủi một mình. Hôm nay có Hằng ở chung chị có bạn tâm sự
đỡ buồn.
Tôi hiểu cảm giác và tâm trạng chị. Giống như suy nghĩ của tôi bây giờ . Tôi quay qua nhìn chị và thắc mắc hỏi:
- Chị ở đây lâu quá rồi sao chưa có nước nào nhận chị? Chị không có cách gì để xin đi định cư nhân đạo à?
Chị nhìn lên trần nhà và nén tiếng thở dài trả lời tôi:
-
Đã hết cách Hằng ạ ! Phái đoàn Hoa Kỳ không nhận vì gia đình chị không
phải diện có làm việc với chế độ cũ và bản thân chị cũng vậy . Còn các
nước nhân đạo khác thì năm ba tháng họ mới đến đây một lần, mà mỗi lần
họ chỉ nhận có năm bẩy chục người là hết mức. Trước chị thì còn gần cả
ngàn người chưa được gọi tới thì làm sao đến mình.
Ngưng một chút chị Nguyệt nói tiếp:
-
Hằng biết không! Hơn năm năm nằm ở đây, chị cứ đếm thời gian qua dần.
Bao nhiêu người đến rồi đi, chị chẳng nhớ hết. Mà riêng mình thì vẫn nằm
tại chỗ . Chị chán nản cùng cực. Chị cũng đã tìm hiểu xem có thể trở về
Việt Nam hay không nhưng nghe chừng chưa có chính sách này . Gia đình
chị ở tận trong quê, miệt Cái Răng, Cần Thơ. Chị chỉ có mẹ và một đứa em
trai. Buôn bán cực khổ quá mà vẫn thiếu trước hụt sau. Cố gắng dành dụm
lắm mới đi thoát được, hy vọng là ra được nước ngoài còn có thể cứu cả
gia đình. Ai ngờ lại như thế này. Biết trước như vầy chị thà chẳng đi
còn hơn.
Tôi chạnh lòng xót xa dùm chị và liên tưởng đến mình.
Chưa biết sẽ ra làm sao. Ba tôi là sĩ quan chế độ cũ, còn chút hy vọng.
Tôi nhìn kỹ lại chị. Năm năm trước lúc đến đây chị cũng ở tuổi tôi bây
giờ. Không biết chị còn chôn vùi tuổi thanh xuân của chị ở đây cho đến
bao giờ. Tôi tò mò hỏi chị:
- Em thấy chị có nhan sắc. Sao không
tìm xem ai thích hợp có thể thành hôn rồi đi theo họ. Em cũng nghe có
nhiều trường hợp như vậy mà !
Chị cười, trong cái cười đó tôi thấy chứa đựng nhiều xót xa. Chị nói với tôi:
-
Chị cũng đã. Trước đây chị cũng biết điều đó . Chị cũng đã tìm hiểu vài
ba người, nhưng cuối cùng chẳng ra gì. Họ chỉ lừa dối để lợi dụng xác
thịt của mình . Khi được rồi thì họ chẳng giúp gì mình. Họ sợ rắc rối
trong vấn đề định cư của họ. Bây giờ chị đã chán và chẳng dám tin ai
nữa. Chỉ đánh phó mặc cho trời !
Tôi hỏi thêm chị:
- Rồi chị có liên lạc với gia đình không?
Chị trả lời: :
- Có liên lạc nhưng không thường xuyên lắm. :
- Gia đình chị như thế nào? :
-
Cũng vẫn vậy nhưng đời sống càng lúc càng khó khăn. Chị cũng chẳng dám
kể cho mẹ chị nghe mọi chuyện ở đây. Lâu lâu chị cũng cố để dành chút
tiền gởi về cho mẹ. :
Tôi trố mắt ngạc nhiên nhìn chị và hỏi:
- Sao chị có tiền? Bạn chị cho à?
-
Làm gì có ! Chị làm gì có may mắn ấy. Chị gánh nước thuê và giặt quần
áo cho mấy người vượt biên giàu có quanh trại đó mà ! Em không thấy buổi
sáng chị mất xác đến trưa rồi sao?
Chị trả lời tôi như thế sau cái cười. Thảo nào tôi chả thấy chị ngay cả lúc lãnh thực phẩm. :
Mỗi
một đánh đổi đều có cái giá phải trả . Ai cũng có nỗi khổ riêng. Tôi
phục cho ý chí chịu đựng và lòng hy sinh của chị. Tôi nằm suy nghĩ miên
man và ngủ đi lúc nào chẳng hay.... :
Tôi ở trại thấm thoát đã
gần sáu tháng. May mắn cho tôi, tháng thứ hai tôi đã bắt liên lạc với
một chị bạn. Chị ấy hứa giúp tôi mỗi tháng 50 đô la chi dúng trong thời
gian ở trại. Và tôi cũng hứa sau này định cư được tôi sẽ trả lại cho
chị. Tôi đã được làm “Form”, chuyển sang cơ quan JVA của Hoa kỳ phỏng
vấn, và đã chuyển sang INS tuyên thệ. Chỉ còn chờ danh sách ngày lên
đường. Tôi và chị Nguyệt vẫn còn ăn chung với nhau. Tất cả cũng nhờ chị
ấy. Nếu thời gian đầu không có chị ấy mình không biết phải xoay xở đời
sống bằng cách nào. Chị đã lo cho đời sống của hai chúng tôi trên những
giọt mồ hôi của chị. Hôm nhận được tiền của chị bạn hứa gửi cho, thú
thật tôi đã mừng như bắt được vàng. Tôi chưa có dịp trả ân tình của chị
Nguyệt. Sau khi đổi tiền, tôi ghé chợ và mua một cân thịt heo quay, món
chị Nguyệt ưa thích mà từ khi đến trại này chị chưa được nếm qua. Mua
hai ổ bánh mỳ và thêm một cân thịt heo, vài cân cá tươi, một ít bột
ngọt, mắm muối, đường linh tinh...và một chai nước ngọt. Cũng vừa gần
hết 20 đô la. Tôi quay về ổ ngủ của chúng tôi và chuẩn bị nấu nướng. Chị
Nguyệt còn bận đi gánh nước và giặt quần áo thuê chưa về.
Tôi
cắt hết tất cả thịt heo quay . Cá tươi thì kho chung với thịt heo tươi.
Nêm nếm vừa đủ để ngon hơn thường ngày . Mọi khi, nếu chị Nguyệt làm
công có tiền cũng mua về chút ít thịt tươi, tôi thì tiết kiệm để dành
cho những ngày thiếu thốn thức ăn, chỉ dám bỏ nhiều nước và thêm muối
vào. Nước ăn thì cạn mà thịt thì chẳng dám ăn nên ăn hoài không hết
thịt. Chị Nguyệt thường trêu tôi “ bà tiên bán kẹo phỉnh”. :
Đến
trưa chị Nguyệt đi làm về. Chị vô cùng ngạc nhiên trước bữa ăn quá ư
thịnh soạn chưa bao giờ có của chúng tôi . Tôi kể chị nghe, hai đứa tôi
vui lây và ăn một cách ngon lành đến ứ cả bụng. Chúng tôi đã có một ngày
thật là vui vẻ để bỏ quên hết mọi phiền toái và lo nghĩ sau lưng.
Tôi
đã ở đến tháng thứ chín vẫn chưa có danh sách lên đường. Đời sống chúng
tôi đã tương đối đầy đủ nhờ vào số tiền chị bạn viện trợ mỗi tháng. Tôi
dành chị Nguyệt phần lo ăn uống hàng ngày để chị nhẹ gánh lo cho mẹ.
Nhưng chị vẫn cứ tất bật. Làm như đời sống phải có công việc. Tôi vẫn
thường xuyên ra bưu điện mỗi ngày để dò danh sách và ngày lên đường. Và
cũng không quên dò tìm tên chị. Hy vọng có một quốc gia nhận đạo nào đó
gọi chị để phỏng vấn. Cũng có nhiều người được gọi tên nhưng chị thì vẫn
mù mịt. Chị Nguyêt vẫn bận bịu với công việc của chị . Tôi thấy hình
như chị làm nhiều việc hơn trước. Chị ít có mặt bên cạnh tôi như trước
đây. Có nhiều đêm cũng chẳng thấy chị về. Lắm khi tò mò tôi muốn hỏi chị
nhưng thấy chị có vẻ lo nghĩ nên lại thôi.
Một sáng ngày cuối
tuần không có danh sách mới nên tôi không ra bưu điện dó “list”. Chị
Nguyệt vẫn còn nằm ngủ vùi bên cạnh. Mọi khi vào giờ đó chị đã thức dậy
lao vào công việc. Tôi nghĩ chị ngã bệnh. Mấy hôm tối cứ thấy chị nôn
mửa liên tục. Tôi khuyên chị nên nghỉ làm việc và đi bệnh viện khám
bệnh. Chị cứ ậm ừ cho qua rồi thôi. Tôi muốn đưa chị đi nhưng chị lại từ
chối. Tôi chẳng biết chị có tự đi hay không nữa ...Sau đó tôi ra chợ
mua một ít thịt, vài viên thuốc cảm và về nấu cháo cho chị. Tôi đánh
thức chị dậy, ép chị ăn cháo và uống thuốc. Chị vẫn còn thấy mệt mỏi và
không muốn nuốt nổi. Buổi trưa rồi chiều tôi lại ăn cơm một mình. Chị
Nguyệt chẳng ngồi dậy nổi ngoại trừ lúc chị cần uống nước . Tôi bước ra
sân đi một vòng và đứng nhìn trăng. Trời không sáng mấy. Một cặp tình
nhân đang ngồi bên nhau tâm sự dưới góc cột đèn. Tôi quay vào ổ ngủ và
nằm xuống cạnh chị Nguyệt. Chị vẫn trăn trở . Tôi nghe tiếng chị thở
dài.
Giữa khuya, tôi giật mình thức dậy bởi tiếng la náo động
bên hướng nhà vệ sinh. Có người tự tử. Tôi nhìn sang bên cạnh. Không
thấy chị Nguyệt đâu, có lẽ chị đã đi ra ngoài để xem rồi. Tôi xỏ dép và
bước lần theo hướng có tiếng la . Xe cấp cứu đang tới và vài người đang
cắt dây gỡ một phụ nữ treo cổ trên nóc nhà vệ sinh xuống, đặt nằm trên
một chiếc băng ca. Tò mò, tôi cố lách đám đông và len lỏi vào tận bên
trong để nhìn. Tôi suýt rú lên. Người nằm trên chiếc băng ca không ai
khác hơn là chị. Chị Nguyệt của tôi. Đôi mắt chị nhắm nghiền và thân thể
dường như cứng đờ. Chiếc xe cấp cứu chở chị đi rồi mà tôi vẫn còn đứng
bất động như trời trồng.
Tôi quay về lại nơi ở và thẫn thờ ngồi
xuống. Gối mền bên chỗ của chị đã xô lệch. Tôi xếp gọn lại. Vô tình một
góc của một bì thư lộ ra trong bao gối. Không nén nổi tò mò tôi mở ra
đọc. Hai lá thư nắm xếp gọn và thời gian cách nhau ba tháng. Một lá thư
với ngày tháng cũ của người em trai viết cho chị báo tin mẹ bệnh nặng và
đang cần tiền thuốc men, bệnh viện. Lá thư thứ hai mới nhận chỉ một
tuần, báo tin đã nhận đủ 1000 Đô la của chị gởi về. Tôi chợt hiểu ra lý
do chị thường xuyên vắng mặt nhiều lúc sau này. Chị đi làm kiếm tiền gởi
về cho mẹ. Chị hy sinh đến nỗi quên cả giữ gìn sức khoẻ của mình. Tôi
cảm động và bất giác nước mắt trào quanh trên mặt. Tôi đặt những tờ thư
lại chỗ cũ nằm xuống trằn trọc cho đến sáng.
Trời còn tờ mờ tôi
đã vội thức dậy và tìm lên bệnh viện. Thật lâu tôi mới biết tin chị từ
một người y tá Việt Nam cũng là một người tị nạn trong trại. Chị y tá
cho biết không cứu được chị Nguyệt vì chị yếu quá, hình như chị đang có
thai trong bụng. Thêm một ngỡ ngàng đến với tôi. Tôi không tin là như
vậy được, bởi nếu chị có quan hệ tình cảm với ai chị đã chẳng giấu giếm
tôi. Tôi cũng đã thường xuyên khuyến khích chị điều này mà. Và nếu có
thật như vậy thì đây cũng không phải là cách giải quyết. Bất giác tôi
liên tưởng đến những người lính Thái trong trại thường đến gặp chị sau
này. Tôi cũng nghĩ chỉ là những quan hệ bình thường. Thêm vào số tiền
quá lớn trong trại mà chị đã gởi về cho mẹ. Không ngờ chị đã sa lầy. Đâu
có ai ngờ rằng...Chỉ có trường hợp này mới có thể đưa chị đến quyên
sinh sai lầm như vậy. Tương lai chị quá mờ mịt. Cả một gánh nặng gia
đình trên vai. Chị đã đến trước ngưỡng cửa thiên đường nhưng cánh cửa
không rộng mở để chấp nhận cho chị vào. Chị lại vấp thêm một lần lầm lỡ
nữa . Còn tôi, tôi đã có may mắn hơn chị. Cửa thiên đường đã chấp nhận
tôi bước vào. Cả một tương lai đang đợi tôi trước mặt. Riêng chị, chị đã
quyết định quay lưng lại ngưỡng cửa thiên đường đã từ chối mình để chọn
một lối rẽ khác . Ở đó không có sự lừa dối, những lo lắng, ưu tư hay
buồn phiền. Chị đã dùng phần đời còn lại của chị để hy sinh cho gia đình
trước lúc làm một cuộc buông xuôi .
Tôi thẫn thờ quay ra khỏi
bệnh viện. Sương mai tan dần. Nắng bắt đầu lên . Tôi nghe âm thanh vụn
vỡ của tiếng guốc khua gõ đều nhịp buồn trên đất. Những ngày còn lại chờ
đợi lên đường, tôi không còn có ai bên cạnh. Tôi đã tìm cho mình một lý
giải đúng nghĩa về chị. Dẫu chưa biết chị quyết định đúng hay sai. Chỉ
có một điều cuối cùng an ủi chị theo một triết lý xưa cũ : “ Có lẽ tất
cả do số mạng.” Và có thể sẽ có một thiên đường nào khác ngoài thiên
đường nhân gian sẽ đón nhận chị bước vào chăng? Thấp thoáng dáng chị đâu
đây trong trí tưởng tượng của tôi. Tôi thấy khoé mắt mình cay và chừng
như nhạt nhòa...
Nguyễn Thị Thanh Hằng
No comments:
Post a Comment