
Mỗi ngày một bữa là phương pháp tự nhiên bảo vệ sức khỏe, được đưa ra bởi bác sĩ người Nhật Yoshinori Nagumo.
Với phương pháp này, bạn sẽ có một làn da đẹp cũng như diện mạo trẻ trung - những biểu hiện của sức khỏe nội tại dồi dào và tràn đầy năng lượng.
 Bác sĩ Yoshinori Nagumo tốt nghiệp trường Đại học Y Tokyo Jikei, hiện 
là Tổng giám đốc phòng khám Nagumo, nổi tiếng trong lĩnh vực phẫu thuật 
ung thư, giải phẫu ngực tại nhiều bệnh viện lớn ở Tokyo, Nagoya, 
Fukuoka.
 Kể từ khi công bố phương pháp ăn “mỗi ngày một bữa”, bác sĩ Yoshinori 
Nagumo đã tham gia chia sẻ ở nhiều nơi trên thế giới, trở thành Chủ tịch
 danh dự của Hiệp hội Y học Chống lão hóa quốc tế. Cuốn sách Kuufuku Ga Hito Wo Kenko Ni Suru (bản tiếng Việt do Thái Hà Books ấn hành có tựa Ăn ít để khỏe - 1 bữa là đủ sao cần phải 3?) là tài liệu đầu tiên của ông về phương pháp ăn mỗi ngày một bữa. Đây là một trong những cuốn sách hay nên đọc.
Những quan điểm trong Ăn ít để khỏe trái ngược với những kiến thức thông thường về sức khỏe mà chúng ta từng biết, trong đó, bác sĩ Yoshinori Nagumo đưa ra những căn cứ chứng minh ăn ít là phương pháp tự nhiên để bảo vệ sức khỏe. Tin hay không là do bạn, chỉ biết rằng với việc thực hiện nếp sống mỗi ngày ăn một bữa trong 10 năm qua, bác sĩ Yoshinori Nagumo nay đã gần 60 tuổi nhưng vẻ bề ngoài của ông chỉ như ngoài 20.
Theo bác sĩ Yoshinori Nagumo, “mỗi lần bụng reo lên vì đói, những điều 
có lợi cho sức khỏe sẽ được kích hoạt ở mức độ tế bào, tạo nên hiệu quả 
trẻ hóa”. Trước khi thực hiện chế độ ăn mỗi ngày một bữa, ông từng bị 
ung thư, không kiểm soát được cân nặng của mình, sức khỏe cũng xuống cấp
 trầm trọng. Nhưng kể từ khi giảm lượng thức ăn bằng phương pháp “Bữa ăn
 cơ bản” thì trọng lượng cơ thể ông giảm xuống và tình trạng cơ thể cũng
 ngày một tốt lên.
 Dưới đây trích lược một số phân tích của bác sĩ Yoshinori Nagumo trong cuốn Ăn ít để khỏe, giải thích vì sao chúng ta nên theo phương pháp bữa ăn cơ bản - “mỗi ngày một bữa”.
 Ngày nay, trong khi các quốc gia nghèo đói đang oằn mình với vấn đề 
bùng nổ dân số, thì các quốc gia phát triển lại không thể kiểm soát được
 vấn đề giảm tỷ lệ sinh nhằm gia tăng dân số, dù họ luôn cố gắng áp dụng
 những thành tựu khoa học tiên tiến nhất như thụ tinh nhân tạo… Đây 
chính là một vấn đề của nhân loại. Nhưng ở thời đại của tổ tiên chúng 
ta, vào những năm trước chiến tranh, việc một cặp vợ chồng có bốn, năm 
người con là điều bình thường. Có nghĩa là trong những con người hiện 
đại như chúng ta, con cháu của những người đã cố gắng vượt qua nguy cơ 
diệt vong của nhân loại, kéo dài sự sống đến ngày nay, luôn tiềm ẩn một 
loại năng lực được gọi là “khả năng sinh tồn”, thường trở nên sôi sục 
mãnh liệt vào những lúc gặp đói khổ, lạnh giá, dịch bệnh. Nguồn gốc của 
khả năng sinh tồn đó chính là “gen sinh mệnh” mà chúng ta thu nạp được 
sau mỗi lần loài người vượt qua được những mối nguy hại.
 Gen sinh mệnh không phải là một loại gen thông thường. Đó là loại gen 
không thể đếm được như “gen đói” chiến thắng sự đói khát, “gen sống lâu”
 sinh ra khi cơ thể bị đói, “gen sinh sản” làm tăng tỷ lệ sinh khi ở 
tình trạng nghèo đói, “gen miễn dịch” chế ngự được bệnh truyền nhiễm, 
“gen chống ung thư” để chiến đấu với bệnh ung thư, “gen phục hồi” để 
điều trị bệnh tật và lão hóa… có sẵn trong cơ thể mỗi người chúng ta. 
Song, điều trớ trêu là nếu không bị rơi vào tình trạng đói khát, lạnh 
giá, “gen sinh mệnh” sẽ không làm việc. Hơn nữa, nếu không được ăn uống 
đầy đủ, cơ thể sẽ bị lão hóa, giảm khả năng sinh sản, khi đó hệ miễn 
dịch sẽ làm việc theo hướng tấn công lại chính cơ thể chúng ta.
Lý do chỉ uống nước vẫn béo
 Nhiều người sau khi thất bại trong việc giảm cân, thường hay đùa rằng 
“Người như tôi chỉ uống nước vẫn cứ béo”. Trên thực tế, việc uống nước 
có làm ta béo lên hay không là vấn đề cần phải xem xét thêm, còn theo 
tôi, câu nói kia vẫn mang một ý nghĩa nhất định, đó có thể là đặc tính 
riêng của con người.
 Khi con người sống sót qua thời kỳ đói nghèo kéo dài hơn nửa thời gian 
của lịch sử nhân loại, tổ tiên chúng ta đã thu nạp được loại gen giúp 
con người cố gắng hấp thụ phần lớn dưỡng chất dù chỉ từ chút ít thức ăn.
 Đó chính là “gen đói”, một trong những gen cấu thành nên bộ “gen sinh 
mệnh”.
 Tuy tổ tiên chúng ta dần dần đã kiếm thêm được nhiều thức ăn hơn, nhưng
 vì không lường được lần tới sẽ no hay đói, cho nên nếu đã có thức ăn, 
dù rất ít ỏi, chúng ta cũng không bỏ phí chúng. Nhờ đó mà cơ thể biết 
hấp thụ các dưỡng chất, tích trữ trong cơ thể dưới dạng mỡ. Đây chính là
 lý do khiến cơ thể có thể bị béo lên dù chúng ta ăn rất ít. Nếu cơ thể 
không vận hành như vậy, có lẽ tổ tiên chúng ta không thể sinh tồn qua 
hàng vạn năm lịch sử trong cuộc chiến với nạn đói. Vì vậy những cơ chế 
khiến cho cơ thể bị béo lên dù ta chỉ ăn một lượng rất ít chính là thành
 quả tiến hóa của loài người. “Gen đói” đã điều hành chính xác hoạt động
 chuyển hóa và tích trữ thức ăn dưới dạng mỡ rất hiệu quả, nên nó còn 
được gọi là “gen tiết kiệm”.
 Nếu nói “gen đói” giúp hấp thụ nguồn dưỡng chất nhiều nhất có thể từ 
chút ít thức ăn, thì nó cũng được xem là loại “gen tích trữ năng lượng”.
 Và cùng với “gen đói”, còn một loại gen quan trọng nữa cũng góp phần 
vào việc duy trì sự sống cho con người. Đó chính là “gen trường thọ”, 
một loại gen đang thu hút được sự chú ý của giới trẻ trong thời gian gần
 đây, có tên khoa học là “gen Sirtuin”. Vì nó đang là đề tài hay được 
nói đến trên ti vi, nên có thể rất nhiều người đã từng nghe đến tên của 
loại gen này, nhưng động cơ để tìm ra nó lại bắt nguồn là từ giả thuyết 
“khi chúng ta đói bụng, năng lực sinh tồn sẽ được kích hoạt, và cơ thể 
được trẻ hóa”.
 Hiện nay, chúng ta có thể thấy trong “Pháp nhịn ăn” của đạo Phật hay 
“Tháng Ramadan” của đạo Hồi, thay vì ăn nhiều, ăn ít sẽ giúp kéo dài sự 
sống. Và đây chính là lý do khiến các nhà khoa học tiến hành quan sát 
thời gian sinh tồn thực tế của hầu hết các loài động vật khi thay đổi 
lượng đồ ăn. Họ thử nghiệm trên hầu hết các loài động vật như khỉ nâu 
Macaca, chuột bạch, hay chuột lang… và thấy, bằng cách giảm 40% lượng 
thức ăn, hiệu quả duy trì sự sống đạt mức cao nhất, kéo dài 1,4 - 1,6 
lần so với thông thường.
 Không chỉ vậy, khi tiến hành thử nghiệm ở khỉ, kết quả cho thấy những 
con khỉ háu ăn sẽ bị rụng lông và da mặt chảy xệ. Còn với những con khỉ 
tuy đã nhiều năm tuổi, khi bị hạn chế bữa ăn, lông của chúng vẫn mọc 
rậm, mượt mà, da trở nên căng bóng. Từ kết quả thực nghiệm này, có thể 
suy đoán rằng, khi sinh vật ở trong tình trạng đói, chắc chắn có một 
loại gen nào đó được kích hoạt để duy trì sự sống. Và “gen Sirtuin” 
chính là kết quả của những hoạt động nghiên cứu dựa trên phán đoán đó.
 Các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu thêm và đưa ra kết quả chứng minh 
rằng khi cơ thể con người ở tình trạng đói, loại gen này sẽ kiểm tra tất
 cả các gen ở 50.000 tỷ tế bào trong cơ thể người và giúp phục hồi những
 gen bị hỏng, tổn thương. Điều này không chỉ liên quan đến việc kéo dài 
tuổi thọ mà còn cho thấy loại gen này cũng tham gia vào “hoạt động ngăn 
cản sự lão hóa và bệnh tật”.
 Nhờ phát hiện ra “gen Sirtuin” này, chúng ta đã có thể kéo dài được 
thời gian sống và đây chính là điều được nói đến ngay từ đầu: “Gen sinh 
mệnh” giúp loài người sống lâu.
 Trong quá trình tìm hiểu về “gen Sirtuin”, “gen đói” đã đề cập ở trên, 
cùng các loại “gen sinh mệnh” khác như gen sinh sản, gen miễn dịch, gen 
phục hồi…, tôi đã có một niềm tin vững chắc rằng, chính việc kích hoạt 
gen sinh mệnh sẽ mang lại cho chúng ta sự trường thọ và khỏe mạnh. Hơn 
nữa, gen sinh mệnh chỉ thể hiện khi cơ thể bị đói.
Ăn quá nhiều là khởi nguồn của bệnh tật
 Trong thế giới động vật, khi có cơ hội để con cái và con đực gặp nhau, 
chúng dường như lao vào nhau ngay lập tức để thỏa mãn nhu cầu giao phối 
của loài. Nhưng trong vấn đề ăn uống, không phải lúc nào nhu cầu này 
cũng tồn tại và cần giải quyết ngay, đến như sư tử khi đã no bụng cũng 
sẽ không vồ bắt thỏ dẫu thỏ có đứng yên trước mặt nó đi nữa.
 Con người thì sao? Con người khi vừa ăn sáng xong đã ngay lập tức nghĩ tới chuyện ăn trưa.
 Con người chúng ta mỗi ngày ăn ba bữa thật no nhưng có bao giờ ta tự 
hỏi chính cơ thể mình rằng liệu như vậy có đảm bảo sức khỏe không? Câu 
trả lời của cơ thể chúng ta khi ấy rõ ràng sẽ là “không”. Nếu thiếu một 
chút dinh dưỡng, chúng ta có thể dễ bị bệnh, nhưng bệnh này lại có thể 
được chữa khỏi nhờ cơ chế sinh tồn được quy định trong gen hoạt động. 
Trái lại, ăn uống quá dư thừa sẽ khiến cơ chế này mất tác dụng. Vì vậy, 
việc ăn no và ngộ nhận trong ăn uống kể trên sẽ khiến cho cơ hội lành 
bệnh trở nên khó khăn.
 Khoa học chứng minh rằng tứ đại kỳ bệnh gồm ung thư - đái tháo đường - 
bệnh tim mạch - đột quỵ là hệ quả của việc ăn uống dư thừa và thiếu điều
 độ.
  Dù đang ở độ tuổi nào thì việc trước tiên chúng ta cần làm ngay để giữ 
gìn chất lượng cuộc sống luôn tươi trẻ và khỏe mạnh cũng là thay đổi chế
 độ ăn bằng cách từ bỏ thói quen ăn no.
 Thông thường, khi nhắc đến việc thay đổi thói quen ăn uống, chúng ta 
thường có suy nghĩ rằng đó là ăn kiêng để giảm cân, thay đổi vóc dáng, 
nhưng chế độ ăn “mỗi ngày một bữa” tôi đưa ra ở đây không những giúp 
chúng ta có vòng eo thon gọn, thân hình thanh thoát mà còn giữ cho da dẻ
 căng mịn và tràn đầy sức sống.
 Vì sao tôi đề cập đến ngoại hình ở đây trong khi chúng ta đang bàn về 
vấn đề sức khỏe? Đơn giản vì ngoại hình là thước đo hiệu quả để đánh giá
 sức khỏe.
 Không mấy ai tin khi tôi nói tôi đã 56 tuổi vì mọi người gặp tôi thường
 nói tôi chỉ trạc 20 tuổi. Trong khoảng 10 năm gần đây, tôi duy trì được
 chiều cao 1,73m và cân nặng 62kg. Nhưng trước đây, khi mới ngoài 40 
tuổi, có thời điểm cân nặng của tôi lên tới 77kg. Sự thay đổi này là kết
 quả đạt được từ chế độ tôi muốn chia sẻ với các bạn. Nhờ có chế độ đó, 
tôi không những gầy đi 15kg mà còn được hưởng nhiều điều lợi khác, như 
cơ thể trở nên dẻo dai hơn, duy trì sự tươi trẻ, đầu óc minh mẫn.
Cơ thể con người chúng ta ngày nay không thích nghi với việc ăn no
 Tổ tiên chúng ta trước đây đã phải trải qua thời kỳ đói rét, khí hậu 
khắc nghiệt. Chính trong quá trình tiến hóa hàng vạn năm chống chọi với 
môi trường sống đầy khó khăn đó mà cơ thể chúng ta được thừa hưởng “gen 
sinh tồn”, hay còn gọi là “gen sinh mệnh”, được trang bị những thành 
phần để thích nghi với cái đói và cái rét.
 Vốn dĩ khả năng thích nghi của loài người được phát huy ở mức cao nhất 
dưới tác động của môi trường, giúp cơ thể con người dần trở nên tối ưu 
hơn. Cho nên, đối với “gen sinh mệnh”, lý do khiến gen này được kích 
hoạt nhiều nhất là cơ thể phải đói và rét.
 Nói cách khác, những người có “gen tiết kiệm” sẽ có khả năng sống sót 
nhờ tiêu thụ ít năng lượng hơn khi đói, điều này rất có ích cho việc 
sinh tồn. Hầu hết những người sống ở thời kỳ đó đều hiểu rằng trong 
người họ mang loại gen này.
Tuy nhiên, sự tối ưu của gen này có một nhược điểm, đó là nó không thể 
thích nghi tốt với sự thay đổi của môi trường trong một điều kiện nhất 
định nào đó. Để thích nghi với điều kiện mới, loài người cần phải trải 
qua quá trình tiến hóa hàng vạn năm. Có nghĩa là chúng ta đã có khả năng
 thích nghi cao hơn bình thường đối với việc bị đói, nhưng chưa có khả 
năng chịu đựng tình trạng dư thừa thức ăn, lúc này “gen sinh mệnh” hoạt 
động thậm chí còn gây hại cho cơ thể.
 Trên thực tế, khi ăn quá nhiều, chúng ta sẽ nhanh chóng béo lên. Nếu cứ
 tiếp tục ăn uống vô tội vạ và không ngừng béo lên, điều gì sẽ xảy đến 
với con người chúng ta? Đã có không ít người tự hào với cơ thể nặng hơn 
100kg của mình. Chính sự xuất hiện của thói quen ăn uống vô độ là nguyên
 nhân dẫn tới căn bệnh tiểu đường, còn được gọi là “căn bệnh quốc dân”, 
và kéo theo đó là sự gia tăng các bệnh như ung thư, nhồi máu cơ tim.
Bệnh tiểu đường là minh chứng cho sự tiến hóa của loài người?
 So với chúng ta ngày nay, con người ở thời kỳ Jomon có thị giác, khứu 
giác và thính giác nhạy bén hơn nhiều. Những người sống hoang dã ở vùng 
đồng cỏ khô (xavan) của châu Phi có thị lực đạt 2.0 - 3.0 là chuyện bình
 thường. Bởi vì họ không thể tồn tại nếu thị giác thiếu nhạy bén khi 
sống trong một môi trường mà chỉ một chút sơ sẩy, tính mạng của họ có 
thể bị thú dữ như sư tử đoạt mất bất cứ lúc nào. Còn mắt của chúng ta dù
 có tốt đến đâu nhưng khi làm công việc suốt ngày nhìn màn hình máy 
tính, hầu như ai cũng có thể bị cận thị.
 Nhiều người cho rằng cận thị là một loại bệnh, nhưng thực tế đây lại là
 một cách thích nghi của cơ thể với môi trường. Vì khi tiếp xúc với một 
môi trường mà chỉ chăm chú vào cử động của tay, mắt sẽ phải tự điều 
chỉnh cự ly nhìn gần lại để có thể dễ dàng thấy được cả cử động của tay.
 Ngược lại, nếu bạn sống ở vùng xavan của châu Phi từ nhỏ, thì dù đó là 
người Nhật cũng có thể nhìn xa được. Đó chính là cách để cơ thể của 
chúng ta thích nghi với môi trường.
 Bệnh tiểu đường mà rất nhiều người đang mắc phải cũng tương tự như vậy,
 đây có thể được xem như một phản ứng thích nghi của loài người để có 
thể tồn tại trong thời đại mới - thời đại ăn no.
 Thuở sơ khai, các loài động vật hoang dã đã phải tự săn mồi để có thể 
sinh tồn trong thế giới tự nhiên. Đây chính là lý do để chúng phát huy 
toàn bộ các cơ quan cảm giác như thị giác, thính giác và khứu giác vào 
việc săn mồi, nên các cơ quan này còn được gọi là “cơ quan săn mồi’. 
Ngoài ra, tay và chân cũng thuộc cơ quan săn mồi vì chúng được dùng để 
rượt đuổi và bắt con mồi.
Ngược lại, ở xã hội hiện đại, khi con người nuôi thú cưng và ăn thịt 
gia cầm thì việc săn bắt thức ăn không còn cần thiết, tự con người đã 
thích nghi được. Vậy điều gì sẽ xảy ra với những con vật vẫn có thức ăn 
mà không cần đuổi bắt con mồi? Tất cả các cơ quan săn mồi sẽ bị thoái 
hóa dần. Ví dụ, lợn được nuôi không thể chạy nhanh như lợn rừng. Điều đó
 cho thấy các chức năng trong cơ thể sẽ bị thoái hóa khi chúng trở nên 
không cần thiết nữa.
 Tiểu đường chính là căn bệnh làm thoái hóa tất cả các giác quan săn 
mồi. Mắt để tìm kiếm con mồi đã bị suy yếu, nay thoái hóa gần đến ngưỡng
 cuối cùng sẽ trở nên mù lòa. Đây còn được gọi là “bệnh võng mạc đái 
tháo đường”. Do cũng không cần đuổi bắt con mồi nữa, nên chân bị suy yếu
 theo. Y học gọi đây là “bệnh bàn chân đái tháo đường”. Việc thoái hóa 
dần những cơ quan không còn cần thiết nữa là sự sắp đặt của tạo hóa. Do 
không còn cần phải săn mồi, nên chân tay, cơ quan cảm giác đều là những 
phần cơ thể không còn quá cần thiết nữa và chúng bắt đầu bị thoái hóa.
 Theo một nghĩa nào đó, có thể xem đây là “sự thích nghi” đối với môi 
trường đang bị biến đổi đột ngột khi hướng đến thời đại ăn uống no say.
Lý do thật sự khiến chúng ta gầy đi là do bệnh tiểu đường
 Việc hướng tới thời đại ăn uống no say có một vấn đề còn kinh khủng 
hơn. Đó là do ăn uống liên tục, một số người không theo kịp được tốc độ 
chuyển đổi thức ăn thành chất béo trong cơ thể. Tức là, cho dù những 
người ấy có ăn nhiều bao nhiêu cũng không béo nổi. Như vậy, có thể nói 
bệnh tiểu đường đã tạo nên điều kỳ diệu “ăn bao nhiêu cũng không béo” để
 thích nghi với môi trường mới - thời đại ăn no.
 Khi nhắc tới tiến hóa, chúng ta thường nghĩ về sự thay đổi các cơ quan 
trong cơ thể con người theo hướng tốt hơn. Nhưng theo ý nghĩa ban đầu 
của tiến hóa, sự thay đổi cơ thể theo tình trạng thích nghi với môi 
trường như bệnh tiểu đường hay cận thị được gọi là “thích ứng”; còn nếu 
có sự biến đổi về gen mới được gọi là “tiến hóa”.
 Vậy nên có rất nhiều người trên thế giới này ghét những sự thay đổi đó 
và đặt tên cho chúng là “bệnh tật”, đồng thời nguyền rủa luôn cả số phận
 bệnh tật của họ. Nhưng nếu nhìn nhận sâu xa hơn, tất cả thói quen sinh 
hoạt mà chúng ta duy trì trong suốt nhiều năm chính là nguyên nhân gây 
ra điều này.
Khi nguy hiểm gần kề, cơ thể sẽ được kích hoạt đến tận tế bào
 Theo các nhà khoa học, mỗi ngày có hàng chục nghìn tế bào thần kinh bị 
phá vỡ. Với đà này, có lẽ chúng ta đều lo rằng sớm muộn gì các tế bào 
thần kinh sẽ không còn nữa.
 Trên thực tế, mỗi người chúng ta có khoảng 1.000 - 2.000 tỷ tế bào thần
 kinh và chỉ sử dụng khoảng 3% trong số đó. Như vậy, dù cho suốt cuộc 
đời ngày nào cũng mất đi hàng vạn tế bào thần kinh, nhưng xét tổng thể 
số này chỉ chiếm vài phần trăm ít ỏi. Song chắc chắn bệnh suy giảm nhận 
thức sẽ xảy ra nếu các tế bào thần kinh bị phá vỡ với tốc độ nhanh hơn.
 Tuy nhiên, cơ thể con người là một thực thể có khả năng hồi phục nhanh 
chóng. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, trong bộ não con người có 
các tế bào gốc ở vùng Hồi Hải Mã (Hippocampus), giúp tái tạo các tế bào 
thần kinh.
 Mặc dù vậy, nếu chúng ta vẫn tiếp tục sinh hoạt không điều độ, các tế 
bào thần kinh sẽ không tăng lên. Vì điều đáng kinh ngạc chính là: tế bào
 thần kinh hồi phục mãnh liệt hơn khi tiếp xúc với đói và rét. Điều này 
minh chứng cho việc chỉ khi ở bên bờ vực nguy hiểm của sự sống như đói 
và rét, sức sống của con người mới trỗi dậy mạnh mẽ.
Vì sao cơ thể lại run lên khi lạnh?
 Cơ thể chúng ta có thể chuyển hóa thức ăn thành mỡ khi lượng thức ăn 
đưa vào ít. Có 2 dạng tích tụ mỡ chính là mỡ dưới da và mỡ nội tạng. Ở 
phụ nữ thường là mỡ dưới da, còn đàn ông là mỡ nội tạng.
 Chất béo đối với con người tựa như lớp Nikujiban - một loại trang phục 
giả cơ bắp của Nhật. Một phần của chúng dùng để tạo thành năng lượng cho
 chúng ta, còn lại phần lớn để giữ nhiệt lượng cho cơ thể trong mọi điều
 kiện của môi trường. Tuy nhiên, khi bị lạnh, chúng ta vẫn thường run 
lên. Thật ra, đây là hiện tượng cơ thể sử dụng lớp mỡ dưới da, những 
glycogen để sưởi ấm. Nhưng cách sử dụng này cũng giống như đốt lò bằng 
than củi, 1g chỉ sinh được 4kcal nhiệt, trong khi lại làm giảm đường 
huyết, khiến chúng ta có cảm giác đói.
 Con người cũng giống như các động vật ngủ đông, để vượt qua cái lạnh 
khắc nghiệt, đã tích tụ mỡ, rồi sử dụng chúng để sưởi ấm cơ thể. Và mỡ 
được tích tụ theo cách này chính là mỡ nội tạng. Loại mỡ này rất hiệu 
quả trong trường hợp cơ thể bị đói và rét. Vì vậy khi vào cơ thể, lượng 
thức ăn tuy ít nhưng sẽ được chuyển hóa ngay thành loại mỡ này.
 Do đó, dù trong cơn đói và lạnh, con người vẫn có thể tiếp tục tồn tại 
kể cả không có thức ăn. Và đây chính là chức năng dự trữ mỡ nội tạng của
 cơ thể. Bằng cách đó, khi bị lạnh, cơ thể sẽ đốt cháy chất béo này để 
giữ cho chúng ta được ấm áp.
Mỡ nội tạng được tích trữ quá mức cần thiết
 Rất ít khi một đứa trẻ sơ sinh run rẩy vì lạnh, do trẻ mang trong mình 
lượng mỡ nội tạng lớn. Tương tự vậy, các động vật ngủ đông thường tích 
mỡ nội tạng để không bị lạnh và bị đói suốt mùa ngủ đông dài trong các 
hang động dù không ăn gì.
 Tổ tiên chúng ta cũng từng liên tục bị nguy cơ đói và lạnh. Và trong 
môi trường khắc nghiệt đó, mỡ nội tạng được lưu giữ trong cơ thể chính 
là chìa khóa mở ra cánh cửa của sự sống. Chúng ta càng tích tụ nhiều mỡ,
 khả năng sống càng cao.
 Nhưng đó là chuyện của thời xa xưa, còn thời hiện đại ngày nay, chúng 
ta có áo ấm, nệm êm, lò sưởi và vô vàn phương tiện khác để sưởi ấm. Tuy 
nhiên, khi chúng ta ăn quá nhiều, tích tụ quá nhiều mỡ nội tạng, cơ thể 
sẽ phải liên tục sinh nhiệt quanh năm, bất kể bên ngoài thời tiết nóng 
hay lạnh. Một người có thể đổ mồ hôi như tắm dù đang là mùa đông. Đó là 
dấu hiệu của sự đốt cháy mỡ nội tạng thừa. Còn với phụ nữ, tuy đã mãn 
kinh, cơ thể không còn nóng thất thường như thời kỳ tiền mãn kinh, nhưng
 cơ thể cũng hay đột nhiên nóng và vã mồ hôi là do cơ thể bị nam hóa và 
cả vì đốt mỡ nội tạng.
Lý do thực sự của hội chứng chuyển hóa làm suy giảm tuổi thọ
 Mỡ nội tạng cơ bản được tích tụ trong cơ thể để phòng trường hợp đói và
 rét. Nhưng cái gì quá cũng không tốt, kể cả loại mỡ này cũng vậy. Việc 
tích tụ quá nhiều mỡ dẫn đến cơ thể suốt ngày phải đốt cháy phần dư. Do 
đó, những người đang dùng mỡ nội tạng quá mức liên tục đổ mồ hôi không 
kể mùa nóng hay mùa lạnh. Nhưng đây không phải là vấn đề chính.
 Vấn đề chính là bất kể thứ gì khi cháy đều sinh ra “muội”, và mỡ nội 
tạng không phải ngoại lệ. “Muội” được sinh ra do đốt cháy mỡ nội tạng 
rất có hại cho cơ thể, chúng được các nhà khoa học gọi là cytokine.
 Cytokine là một chất miễn dịch tự nhiên ban đầu của cơ thể. Khi tiếp 
xúc với những kháng nguyên lạ như vi khuẩn, vi rút, độc tố… các tế bào 
bạch cầu tiết ra và sử dụng cytokine để tấn công và tiêu diệt những 
kháng nguyên này.
  Cytokina giống như thú vũ khí giúp cơ thể đẩy lùi được những kẻ thù 
không mong muốn ra khỏi cơ thể. Tuy nhiên, điểm yếu của cytokine là 
không thể phân biệt rõ đâu là ta, đâu là thù khi được giải phóng ra. Cho
 nên cytokine giống như một con dao hai lưỡi, và cơ thể cũng phải chịu 
tổn thương khi sử dụng chúng để tấn công kẻ thù.
 Mỡ nội tạng khi bị đốt cháy sinh ra một loại cytokine có tên khoa học 
là adipocytokine. Sự xuất hiện của adipocytokine gây tổn thương các tế 
bào nội mô mạch máu, khiến các tế bào này trở nên xơ và rời rạc, các nhà
 khoa học gọi hiện tượng này là “xơ vữa động mạch”. Có hai loại 
adipocytokine: adipocytokine tốt - còn gọi là adiponectin, giúp duy trì 
thành mạch, ngăn ngừa xơ vữa; loại còn lại là adipocytokine xấu gây xơ 
vữa.
 Trong trạng thái cơ thể bình thường, hai loại này duy trì ở mức cân 
bằng. Nhưng khi chúng ta tích tụ quá nhiều mỡ nội tạng, cơ thể thiên 
theo hướng hình thành adipocytokine xấu. Do đó, ở những người mà quá 
trình trao đổi chất này diễn ra mạnh, vấn đề xơ vữa động mạch dễ phát 
sinh, từ đó dẫn đến các bệnh tim mạch, đột quỵ. Và sản phẩm từ việc đốt 
cháy quá nhiều mỡ nội tạng, “muội” - adipocytokine xấu, chính là thủ 
phạm của việc này.
 Qua đó, chúng ta nhận thấy khi được phát huy khả năng, mỡ nội tạng giúp
 con người vượt qua đói rét, nhưng nếu không kiểm soát được, loại mỡ này
 sẽ khiến chúng ta có nguy cơ mất mạng cao hơn bao giờ hết.
“Mỗi ngày một bữa” - tia sáng cuối đường hầm
 Con đực ngủ đông được là do tích mỡ nội tạng, còn con cái nhờ vào tích 
mỡ dưới da. Vậy ở con cái liệu có cơ chế sưởi ấm nào khác? Câu trả lời 
chính là việc mang thai. Đứa con trong bụng chính là khối mỡ nội tạng 
đặc biệt. Do đó, các con cái không cần tích mỡ nội tạng như con đực. 
Trong giai đoạn ngủ đông, con cái không mang thai sẽ chết sao? Không! Ở 
động vật, hiện tượng rụng trứng chỉ xảy ra khi bị kích thích giao phối, 
gọi là “rụng trứng hậu giao phối”.
 Trong thế tự nhiên, con đực và con cái rất khó có thể gặp được nhau. 
Vậy nên con cái được chuẩn bị cơ chế đặc biệt cho điều này. Đó là hiện 
tượng rụng trứng ở con cái của động vật ngủ đông luôn xảy ra sau khi 
giao phối, cho nên khi giao phối chắc chắn sẽ mang thai. Vì vậy mới có 
chuyện phối giống. Ở Nhật, chi phí phối giống cho ngựa đua là 10 triệu 
yen/lần.
 Hiện tượng giao phối xong mà mang thai luôn có ở động vật như con người
 và gấu trúc. Trước ranh giới sinh tồn hay diệt vong của loài, bản năng 
giao phối sẽ trỗi dậy để duy trì giống nòi. Đó chính là lý do vì sao ở 
các nước phát triển với cuộc sống no đủ, tỷ suất sinh giảm trong khi tại
 những nước chậm và đang phát triển vẫn còn nạn đói, tỷ suất sinh ngày 
một cao.
 Quay lại với động vật ngủ đông. Con cái không thấy lạnh bởi vì bào thai
 trong bụng đã giữ ấm cho chúng suốt mùa đông dài lạnh lẽo. Vì vậy, mỡ 
nội tạng không cần thiết đối với chúng. Về mặt này, con người chúng ta 
cũng vậy, phụ nữ trong độ tuổi sinh sản chỉ tích tụ mỡ dưới da. Khi phụ 
nữ bước qua độ tuổi này, không mang thai nữa, sang giai đoạn tiền mãn 
kinh, mỡ bắt đầu chuyển dần từ tích tụ dưới da vào nội tạng. Phụ nữ ở 
tuổi này mập mạp một chút sẽ sống lâu hơn. Nhưng bước sang giai đoạn mãn
 kinh, phụ nữ cũng cần giảm bớt mỡ nội tạng như ở nam giới.
 Vì sao chúng ta cần giảm mỡ nội tạng? Đơn giản là vì chúng ta không còn
 đối mặt với đói rét như xưa nữa. Như đã nói, chúng ta cần thích nghi 
với môi trường ăn no hiện nay. Cho nên, đứng trên lập trường là bác sĩ 
lâu năm, tôi khuyên mọi người nên ăn theo chế độ “mỗi  ngày một bữa”. Đó
 là cách để chúng ta giảm lượng thức ăn thừa, từ đó giảm lượng mỡ nội 
tạng, khơi dậy lại “gen Sirtuin”, mở ra cánh cửa đến với vườn địa đàng, 
nơi chúng ta mãi thanh xuân, khỏe mạnh. Đó là giải pháp cuối cùng của 
chúng ta.
 Tuy nhiên, muốn làm vậy chúng ta cần có lộ trình chuyển đổi chứ không 
nên áp dụng ngay “mỗi ngày một bữa”. Hãy ăn từ ngày ba bữa giảm xuống 
còn hai rồi giảm xuống còn một bữa.
Nguồn: doanhnhansaigon.vn   
 
No comments:
Post a Comment