Thursday, October 30, 2025

Vành Khăn Tang Cho Một Anh Hùng - Phạm Tín An Ninh

 


Nghĩa Trang Melrose Abby Memorial Park nằm ở thành phố Anaheim, ngay phía dưới Xa Lộ 5. Đến nhà nguyện trước 9 giờ sáng, tôi đã thấy đông đảo đồng hương và chiến hữu trong màu áo của đủ quân binh chủng: Bộ Binh, Thiết Giáp, Nhảy Dù, Nha Kỷ Thuật, Hải Quân, Không Quân và đặc biệt là SVSQ Thủ Đức. Một số đang chuẩn bị cho Lễ Phủ Kỳ. Toán phủ kỳ được chỉ huy bởi một cựu Lôi Hổ trẻ, oai phong với cây kiếm bạc bên hông, cùng với 2 cựu TQLC bồng súng chào và 8 chiến hữu thay mặt các Quân Binh Chủng trịnh trọng nâng lá Quốc Kỳ VNCH để phủ lên quan tài của một vị niên trưởng mà danh tiếng của Ông đã được mọi người biết đến: Mãnh Sư Đại Tá Nguyễn Mạnh Tường.

Đại Tá Tường, vẫn còn đủ nét cương nghị trên khuôn mặt, trong quân phục Nhảy Dù, chiếc nón đỏ trên ngực, nằm bất động trong chiếc quan tài, như một “thiên thần” chỉ đang say ngủ.


Từng người lần lượt đến cung kính chào Ông lần cuối. Vài người ôm quan tài khóc sướt mướt. Các nhà sư, trong đó có một vị sư người Mỹ, niệm kinh hành lễ. Niên Trưởng Vũ Trọng Mục, người bạn có nặng tấm lòng, đứng ra tổ chức tang lễ cho người đồng môn cùng Khóa Vì Dân Thủ Đức (khóa 5), đã thưa với tất cả mọi người là Ông rất hãnh diện và sung sướng để được làm việc này cho một người Bạn đức độ, anh hùng. Ông cám ơn những bạn bè chiến hữu ở Bắc Cali đã dành cho Ông cái vinh dự lớn lao và cảm động này.

Một số đông bà con, chiến hữu đại diện cho Hội Đồng Hương và Tiểu Khu Bình Định, một số đã từng làm việc bên cạnh Đại Tá Tường, đứng thành hai hàng dài trước quan tài, sụt sùi nói lời ngưỡng mộ, biết ơn và từ biệt Ông, con Mãnh Sư bao phen đã làm kẻ thù khiếp sợ, cứu nguy và an cư cho dân, quân Bình Định trong suốt một thời khói lửa, điêu linh...

Không khí thật nghiêm trang, cảm động. Điều đặc biệt đáng buồn là không tìm thấy những vành tang trắng. Vợ con Ông không có mặt. Chẳng lẽ họ đã thực sự cạn tình, cạn nghĩa, quên mất thế nào là Nghĩa Tử Nghĩa Tận, hay là vì một lý do nào khác. Người đàn ông quỳ lạy, dâng hương và đội sớ trước bàn thờ hôm nay, xin được nhận Ông như nghĩa phụ là con rể của cựu Đại Tá Trần Đình Vỵ, vị tiểu khu trưởng, người bạn chiến đấu một thời với Ông ở Bình Định. Nơi Ông đã lập nhiều chiến tích vẻ vang, mà dư âm sẽ còn vang dội mãi trong lòng người và sử sách.


Trong nhà nguyện hôm nay, ngoài những cựu chiến binh, bạn hữu, còn có rất nhiều người, mà hầu hết chưa từng quen biết Đại Tá Tường. Họ đến đây với lòng ngưỡng mộ và kính yêu Ông. Họ đến để nhìn mặt Ông lần đầu cũng là lần cuối, khóc chào tiễn biệt một vị anh hùng. Ông ra đi nhưng không bao giờ chết. Ông sẽ sống mãi trong lòng mọi người. Và hôm nay, dù vợ con Ông không đến, trước quan tài thiếu mấy vành tang trắng. Nhưng có biết bao chiến hữu, đồng hương có mặt, cũng như đang ở khắp mọi nơi trên quả địa cầu này, đã dành cho Ông một vành tang rất trang trọng trong lòng.

Ai dám nói trong đoàn quân chiến bại không có những anh hùng? QLVNCH có rất nhiều vị anh hùng, và Mãnh Sư Nguyễn Mạnh Tường rất xứng đáng để được gọi là một anh hùng. Ông ra đi nhưng sẽ không bao giờ chết và không bao giờ cô đơn, dù trên chính quê nhà hay ở chốn tha hương.


Phạm Tín An Ninh

(cựu lính SĐ23BB)

Theo Người Việt Boston

Tại Sao Có Thể Ăn Thịt Bò Tái, Nhưng Không Nên Ăn Thịt Gà Tái? Lý Do Ít Người Biết


Thịt bò và thịt gà là hai loại thực phẩm quen thuộc trong bữa ăn của người Việt. Tuy nhiên, có bao giờ bạn tự hỏi vì sao chúng ta có thể thưởng thức bò tái nhưng tuyệt đối không nên ăn gà tái?

Bò bít tết là món ăn phổ biến với nhiều mức độ chín khác nhau, từ "tái sống" đến "chín kỹ". Lý do có thể ăn thịt bò tái là vì đây là loại cơ lớn, có kết cấu chắc chắn. Vi khuẩn chủ yếu bám trên bề mặt thịt trong quá trình giết mổ và chế biến. Khi áp chảo hoặc nướng ở nhiệt độ cao, lớp vi khuẩn này bị tiêu diệt, giúp phần thịt bên trong an toàn để ăn.

Ngược lại, thịt gà không an toàn khi ăn tái vì cấu trúc xốp, dễ thẩm thấu của nó tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập sâu vào bên trong. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC), thịt gà sống có thể chứa nhiều loại vi khuẩn nguy hiểm như Campylobacter, Salmonella hoặc Clostridium perfringens – nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm nghiêm trọng.

Ngay cả khi thịt gà chỉ bị nhiễm vi khuẩn trên bề mặt, việc nấu chưa chín kỹ có thể khiến vi khuẩn tồn tại và lây lan sang các thực phẩm khác. Đó là lý do các đầu bếp luôn nấu gà chín hoàn toàn thay vì phục vụ ở mức tái hay vừa chín tới.

Dù không thể ăn tái, thịt gà lại mang đến nhiều lợi ích dinh dưỡng khi được chế biến đúng cách:

Cải thiện tâm trạng: Thịt gà giàu tryptophan, một loại axit amin giúp tăng serotonin trong não, từ đó giảm căng thẳng và cải thiện tâm trạng.

Tốt cho xương: Nhờ hàm lượng protein cao, thịt gà giúp ngăn ngừa loãng xương và duy trì sự chắc khỏe của hệ xương khớp.

Tăng cường trao đổi chất: Vitamin B6 trong thịt gà hỗ trợ quá trình trao đổi chất, giúp duy trì hệ mạch máu khỏe mạnh và tối ưu hóa năng lượng.

Cải thiện thị lực: Thịt gà chứa retinol, beta-carotene và lycopene, những dưỡng chất quan trọng cho đôi mắt sáng khỏe.

Nếu yêu thích món bít tết bò tái, bạn có thể yên tâm thưởng thức. Nhưng với thịt gà, hãy luôn đảm bảo nấu chín kỹ để bảo vệ sức khỏe. Một chế độ ăn uống khoa học không chỉ mang lại hương vị thơm ngon mà còn giúp bạn tận hưởng lợi ích tối ưu từ thực phẩm!


Nguồn: Fb

Ba Ông Wang Cùng Một Làng


Tại một cơ quan nọ có 3 người đàn ông mang 3 cái tên: Hoan, Quan và Quang. Mà theo giọng của người Miền Tây thì chỉ có duy nhất một kiểu phát âm là “Wang”.

Một hôm, có một cô gái trẻ là dân Nam Bộ chính hiệu, đến trước cổng cơ quan xin gặp ông bảo vệ và nói:

– Bác ơi, làm ơn cho con gặp anh Wang đi bác.

Ông bảo vệ nghe thế liền hỏi lại:
– Wang nào? Ở đây có tất cả 3 Wang:

Wang không có CU (Q) và cũng không có DÊ (G).

Wang vừa có CU vừa có DÊ.

Wang có CU mà không có DÊ.

Vậy trong 3 người cô kiếm Wang nào?

Cô gái trả lời đậm chất dân Miền Tây:
– Dạ, con kiếm anh Wang có CU mà không DÊ đó bác ơi!

Một anh chàng người Sài Gòn tình cờ đi ngang nghe qua mẫu đối thoại cười đó, miệng liền lẩm bẩm:
– Mẹ nó, đây đúng là con nhỏ khùng, có CU mà không DÊ thì kiếm nó làm cái quái gì?!

 

Anh Hãn sưu tầm

Wednesday, October 29, 2025

Cầu Nguyện Để Tìm Sự Hướng Dẫn Của Chúa - Rev. Ron Rolheiser, OMI


Lời người đăng

Dù không là tín đồ của một tôn giáo nào nhưng khi bế tắc, một lời cầu nguyện với đấng thiêng liêng cũng giúp ta phần nào nhẹ nhõm bình an trong tâm hồn. Phương chi  đời có câu "Cánh cửa này đóng thì sẽ có cánh cửa khác mở ra"...

NPN


*********

Trong quyển tự truyện Nỗi cô đơn triền miên (The Long Loneliness), Dorothy Day kể một giai đoạn khó khăn trong đời bà.  Lúc đó bà vừa trở lại đạo Ki-tô sau một thời gian dài sống vô thần, rồi bà sinh đứa con gái.  Trong thời gian sống vô thần, bà yêu một người đàn ông, là cha của đứa con gái; bà và người đàn ông này – hai người vô thần đã bị vỡ mộng với xã hội chính thống – đã thỏa thuận với nhau sẽ không bao giờ làm đám cưới, như một lời tuyên bố chống lại những quy ước truyền thống của xã hội.

Nhưng việc bà trở lại đạo đã làm cho cuộc sống của bà bị đảo lộn.  Người cha của đứa con ra tối hậu thư; nếu bà rửa tội cho con thì ông chấm dứt mối quan hệ với bà.  Dorothy chọn làm lễ rửa tội cho con, nhưng đã trả giá rất đắt.  Bà yêu sâu đậm người đàn ông này và hết sức đau đớn khi chia tay.  Hơn nữa, vì chuyện trở lại đạo, bà bị cắt đứt khỏi tất cả người quen biết cũ trước đây, làm cho bà đau còn hơn mất bạn tâm giao.  Nó làm cho bà mất việc, không nguồn hỗ trợ nuôi con, và không còn mục đích trước đây trong đời.  Bà cảm thấy cô đơn và lạc lối một cách đau đớn. 

Việc này làm cho bà phải quỳ gối xuống, theo đúng nghĩa đen.  Một ngày nọ, bà đi tàu lửa từ New York đến thủ đô Washington và dành cả ngày hôm đó cầu nguyện ở Thánh Đường Quốc Gia Đức Mẹ Vô Nhiễm.  Và, như bà chia sẻ trong quyển tự truyện, lời cầu nguyện của bà hôm đó trực tiếp không e ngại, khiêm tốn và rõ ràng.  Thiết yếu, bà lặp đi lặp lại với Chúa, rằng bà lạc lối, bà cần một hướng đi rõ ràng cho cuộc đời, bà cần sự hướng dẫn đó ngay bây giờ, không phải ở một tương lai nào xa xôi cả.  Và, như Chúa Giê-su trong Vườn Giếtsêmani, bà lặp đi lặp lại lời cầu nguyện nhiều lần. 

Tối hôm đó, bà đi tàu về nhà, khi bước lên căn hộ của mình, bà thấy ông Peter Maurin đang ngồi đợi trên bậc cấp . Ông mời bà khởi công làm việc cho Catholic Worker.  Phần còn lại của câu chuyện đã đi vào lịch sử. 

Những lời cầu nguyện của chúng ta không phải bao giờ cũng được đáp lại nhanh chóng và trực tiếp như vậy, nhưng luôn luôn được đáp lại, như Chúa Giê-su đã đoan chắc với chúng ta, bởi vì Chúa không từ chối Thần Khí cho những ai xin nhận.  Nếu chúng ta cầu nguyện xin hướng dẫn và hỗ trợ, chúng ta sẽ nhận được sự hướng dẫn và hỗ trợ. 

Trong Thánh Kinh, chúng ta thấy nhiều ví dụ nổi bật về những người, như Dorothy Day, tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa trong cầu nguyện, đặc biệt khi họ cô độc và sợ hãi lúc đứng trước chấn động lớn nào đó hay sắp phải chịu đau khổ trong đời.  Ví dụ, chúng ta thấy nơi các nhà Tiên tri, khi lạc lối trong sa mạc và đứng trước cuộc nổi loạn do chính dân của mình, họ đã lên núi Horeb để xin lời khuyên của Chúa.  Và chúng ta thấy điều đó khi Chúa Giê-su cũng lên núi Horeb để cầu nguyện, và cầu nguyện suốt đêm trong nhiều đêm, gắng gỗ để tìm được cả sự hướng dẫn lẫn lòng can đảm mà Người cần để thực hiện sứ mạng của mình. 

Nhìn vào lời cầu nguyện của các nhà Tiên tri, Chúa Giê-su, Dorothy Day và vô số những người khác đã cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn, chúng ta thấy lời cầu nguyện của họ, đặc biệt khi họ cảm thấy cô độc và tuyệt vọng nhất, có ba đặc điểm: chân thật, trực tiếp và khiêm nhường.  Họ nâng trái tim và trí óc của mình lên Chúa, không phải là trái tim hay trí óc của ai khác.  Không hề có chuyện làm ra vẻ, biện minh, hay giấu diếm điểm yếu.  Họ để tuôn trào nỗi sợ hãi, sự bất tương xứng, nỗi thèm muốn, rối loạn của họ, như những đứa trẻ con vẫn làm khi cầu xin bàn tay của ai đó giúp đỡ. 

Có một điều tương đương thú vị trong một số câu chuyện thần tiên kinh điển của chúng ta, trong đó nhân vật Chúa thường xuất hiện dưới dạng thiên thần, nàng tiên, con cáo hay con ngựa.  Và luôn luôn những ai tiếp cận nhân-vật-Chúa đó với lòng tự tin thái quá, kiêu căng, hay giả tạo, thì họ không nhận được lời khuyên hay phép lạ nào.  Ngược lại, ai tiếp cận những nhân-vật-Chúa đó với lòng khiêm nhường và công nhận họ lạc đường trong khi đi tìm kiếm thì họ sẽ được cho lời khuyên và phép lạ.  Có một bài học cầu nguyện quan trọng trong đó.

Tất cả chúng ta, vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời, đều có lúc cảm thấy cô đơn, lạc lối, rối loạn, và bị quyến dụ hướng về con đường chết.  Những lúc đó, chúng ta cần tới bên Chúa với lời cầu nguyện chân thật không e ngại, trực tiếp và khiêm tốn.  Giống như Dorothy Day, chúng ta cần tỏ bày ra và dâng nỗi sợ hãi và bất an có thực của chúng ta lên Chúa, cầu nguyện, lặp đi lặp lại nhiều lần: “Con sợ!  Con cảm thấy quá cô đơn và cô lập trong chuyện này!  Con không muốn làm điều này!  Con hoàn toàn không thích hợp!  Con không còn sức lực nào cả!  Lòng con tràn đầy giận dữ!  Con cay đắng về bao nhiêu là chuyện!  Con căm ghét một số chỗ mà luân lý Ki-tô của con đã đưa con tới!  Con bị quyến dụ theo những cách mà con quá hổ thẹn không dám nói ra!  Con cần được hỗ trợ nhiều hơn mức Người vẫn hỗ trợ cho con!  Xin gửi đến cho con một ai đó hay gửi cho con điều gì đó!  Nếu Người muốn con tiếp tục con đường này thì Người phải giúp con nhiều hơn nữa!  Con cần điều đó ngay bây giờ!”

Và rồi chúng ta cần phải chờ đợi, một cách kiên nhẫn, hướng vọng về.  Có lẽ chẳng ông Peter Maurin nào sẽ xuất hiện trước bậc cửa nhà chúng ta vào đêm đó, nhưng, khi sự bất-lực-hoang-mạc đã phát huy tác dụng thì một thiên thần sẽ đến truyền sức mạnh cho chúng ta.

 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Nỗi Đau Hạnh Phúc - Brian Hoàng

 

tranh đinhtrườngchinh


Lâu lắm tôi mới gặp lại anh chắc khoảng hơn 30 năm. Lần sau cùng là lần tôi giúp anh thông dịch giấy tờ khai sanh của ba cô con gái để làm thủ tục mua bảo hiểm trong sở làm.


Anh tên Phước, nhưng không biết cái tên đó chỉ mang lại vận xui cho anh suốt từ thời nhỏ đến ngày anh vượt biên qua Mỹ. Anh sinh ra nhà nghèo, chỉ là một anh lính thợ máy trong hải quân VNCH với đồng lương không đủ sống để nuôi một vợ và hai đứa con gái còn chưa tới tuổi đi học. Vì là thợ máy tàu nên gia đình anh được cho mấy chỗ trên chuyến ghe vượt biên năm 1980.

Tưởng là gặp may, nhưng đó lại là chuyến ghe mang đến đinh mệnh nghiệt ngã của cuộc đời. Chiếc ghe thoát khỏi VN bình yên cho đến khi vào vịnh Thái Lan thì ghe của anh gặp bọn hải tặc Thái. Những người dân đánh cá hiền lành của Thái đã trở thành những tên cướp biển hung ác và vô cùng tàn bạo. Chúng nhận ra rằng những thuyền nhân VN là những con mồi dễ làm thịt nhất khi bơ vơ trên biển, nơi mà luật lệ và lương tâm không còn có chỗ. Ghe của anh bị cướp và chúng đưa tất cả thuyền nhân vào đảo Kra để giam giữ. Tiền của, vàng bạc thì chúng lột hết và đám phụ nữ trở thành trò tiêu khiển của bọn chúng mỗi lần ghé đảo sau khi đánh cá về. Vợ anh không may như hầu hết các phụ nữ trên ghe cũng là nạn nhân của bọn chúng mà khốn nạn nhất chúng lại cưỡng hiếp chị trước mặt người chồng đang gục ngã vì đòn thù của chúng khi cố bảo vệ vợ mình.

Đến khi được Cao Ủy tị nạn cứu ,đưa vào trại thì chị tuy sống nhưng như là một cái xác không hồn. Khoảng tháng sau thì chị cứ ói mửa và khi vào bệnh viện thì oan trái quá khi biết chị đã có thai. Chắc chắn giọt máu trong bụng kia là giọt máu của bọn thú vật hải tặc Thái Lan ,vì cả mấy tháng trời anh chị đâu có dịp mà gần gũi chuyện gối chăn.

Ai cũng khuyên chị nên bỏ cái thai vì để nó sẽ trở thành nỗi khó xử cho cả gia đình chị về sau này. Cả anh và chị không đắn đo, đều tự nguyện nếu bề trên đã định cho chị phải mang giọt máu kia thì anh chị sẽ gánh. Dù gì bào thai chẳng có tội tình gì và cũng có mang dòng máu của chị. Cháu gái ra đời ở trại tị nạn và vài tháng sau gia đình anh chị đi định cư ở Mỹ.


Anh chị chọn một tiểu bang ở miền Đông Nam, xa lạ ít người Việt để làm lại cuộc đời và tránh giao thiệp với những người quen biết cũ. Chị vì không thể quên cơn nạn tai trên biển, dần mắc bệnh trầm cảm, u uất được vài năm rồi phát bệnh xong mất đi trong giấc ngủ.

Anh đưa ba cháu gái về California tránh lạnh và đến vùng tôi ở. Ngay từ lúc đầu, tôi đã thấy lạ vì thấy rõ ràng anh thương con bé út lắm. Anh hay chép miệng nói tội con bé nó mồ côi. Hai cô chị cũng tưng tiu cô em út như báu vật. Sau này thân rồi, anh mới vừa khóc vừa kể cho tôi nghe câu chuyện thương tâm của gia đình anh và lúc đó tôi mới hiểu.

Cứ tưởng tượng cảnh gà trống nuôi con, mà con lại là ba cô con gái thì biết khó khăn đến chừng nào cho một người đàn ông. Phải thấy anh hỏi các bà chung quanh cách tập thắt bím, cài nơ, kẹp tóc cho con gái hay lúc mấy cô đã đến tuổi dậy thì mới biết là anh khổ nhọc lắm. Bao nhiêu công việc làm lương cao, anh phải đành từ chối vì muốn dành hết tình thương và thời gian cho ba đứa con thơ. Anh nhất định vì các cháu nên không bước đi bước nữa dù nhiều người mai mối và anh còn rất trẻ.

Nhiều lúc tâm sự, vì quá thân tình, tôi hỏi anh có một lúc nào đó, nhìn cháu gái út có làm cho anh khó chịu hay anh bị gợi nhớ đến kỷ niệm hãi hùng của chuyến vượt biên không? Tôi còn nhớ ánh mắt và lời nói của anh đẵm đầy tình người và tình cha con: Cháu là con của hai vợ chồng tôi và là em của hai đứa chị nó, chắc đã đủ rồi phải không anh? Tôi còn nhớ, bắt tay anh thật chặt rồi nói: Đúng vậy. Thế là quá đủ rồi.


Bẵng đi một thời gian tôi không gặp anh, vì nghe nói hai cháu lớn đã vào chung một trường đại học ở tiểu bang khác. Vì không muốn xa các cháu, anh đã di chuyển hẳn tới đó để gần gũi và lo lắng cho các cháu. Thôi thế cũng mừng vì ít ra anh cũng được niềm hạnh phúc khi thấy các cháu đã có một định hướng rõ ràng cho tương lai.

Gặp lại anh hôm nay, anh rủ tôi ngồi lại kể cho tôi nghe thêm những gì đã xảy ra cho gia đình anh trong thời gian qua. Hai cháu lớn được học bổng tại những trường Ivy League nổi tiếng ở nước Mỹ. Cô lớn tốt nghiệp MBA và hiện nay là Director của một bệnh viện lớn tại California. Cô kế ra trường bác sĩ MD, cô út học xong dược sĩ, bị hai cô chị ép phải nghỉ làm, hai chị nuôi cô em trở lại trường học bác sĩ và hiện nay đang hành nghề tại Los Angeles.

Hai cô chị đã lập gia đình và hiện nay anh sống với cô út tại một khu nhà giàu nhất nhì nước Mỹ gần vùng tôi ở. Nhưng hình như nỗi đoạn trường chưa chịu buông tha gia đình anh. Vài năm trước cô chị mắc bạo bệnh ung thư máu Leukemia mà tất cả phương pháp hóa trị tân tiến nhất đã bắt đầu chịu thua. Anh kể là anh bị khủng hoảng đến cực độ khi nhìn thấy hai đứa cháu ngoại còn nhỏ mà bản án tử hình thì như đã ban ra cho cô con gái đầu. Cô em thứ nhì là Oncologist cũng gục đầu bất lực trước số trời ngoại trừ bone marrow transplant. Cả nhà đều thử coi có thể hiến tủy cứu cháu hay không… Nhưng đúng là trời thương… cô em út lại là người có tủy hợp nhất với cô chị và cuộc ghép tủy đâ thành công. Cô chị lành bệnh chính nhờ cô em út của mình. Anh chắp tay nhìn lên trời và xúc động nói: anh nghĩ coi, đó có phải là trời sắp xếp mọi sự cho gia đình tôi không anh. Ngày có con bé, tôi chỉ nghĩ đó là việc phải làm và cần làm. Tôi chỉ nghĩ đơn giản, tôi thương vợ tôi và đây là máu huyết của vợ tôi, tôi phải lo, phải gánh vác thôi. Gia đình tôi may mắn lắm anh à. Tôi được Ơn Trên soi sáng nên đã làm đúng theo lương tâm của mình. Thế mới biết Trời xanh thật là có mắt.

Đời tôi gặp nhiều loại đàn ông không ra gì, nhưng giờ mới biết trên đời này đàn ông đúng nghĩa đàn ông cũng còn nhiều lắm.

Câu chuyện trên càng làm tôi tin tưởng thêm rằng: bề trên đã an bài cho mỗi người một số phận và luật nhân quả rất công bằng. Gieo giống ngọt thì mới mong có trái ngọt.


Mong anh và các cháu hạnh phúc và gặp những điều an lành nhất.


Brian Hoàng

* Tên thật nhân vật đã được thay đổi và câu chuyện này được kể lại với sự đồng ý của nhân vật.

Lạnh Đêm Giao Mùa - Đỗ Công Luận

Tuesday, October 28, 2025

Phiếm: Tiếng Lóng Saigon - Song Thao

Bìa Bản Nhạc "Sức Mấy Mà Buồn"

Bài này chỉ nói về tiếng lóng Sài Gòn khi Sài Gòn còn tên, khi mất tên thì Sài Gòn đâu còn là Sài Gòn nữa. Tiếng lóng là một hình thức phương ngữ xã hội không chính thức của một ngôn ngữ, thường được sử dùng trong giao tiếp thường ngày bởi một nhóm người. Tiếng lóng thường không mang ý nghĩa trực tiếp, nghĩa đen, mà mang ý nghĩa tượng trưng, nghĩa bóng.

Nhạc sĩ Phạm Duy gọi tiếng lóng là ngôn ngữ vỉa hè. Năm 1968, ông định sáng tác một loạt vỉa hè ca nhưng khựng lại sau khi cho xuất bản hai bài “Sức Mấy Mà Buồn” và “Nghèo Mà Không Ham”, ông tiết lộ: “Hai bài ca vui đùa này được in ra và bán rất chạy. Nhưng lập tức có sự phê bình gay gắt đến từ nhiều phía. Tôi định soạn thêm bài Ô Kê Salem, Ô Kê Nước Mắm thì cụt hứng!  Nhưng trong thâm tâm, tôi vẫn chưa chịu thua… Rồi tôi phản ứng lại bằng cách soạn những bài ngỗ nghịch hơn vỉa hè ca. Và phải có qui mô hơn. Đó là mười bài tục ca, bài thì tục về chữ, bài thì tục về ý, bài thì tục về chuyện”.

Nhạc sĩ Phạm Duy

Ông trần tình tiếp về lý do có những vỉa hè ca và tục ca: “Tôi soạn vỉa hè ca và tục ca trước và sau khi đi Mỹ. Lúc đó sự có mặt của người Mỹ tại nước ta là một điều rất trầm trọng, mọi người đều sợ bị ngoại xâm xâm lăng bằng văn hóa. Người ta không thích cộng sản nhưng người ta cũng không thích văn hóa Mỹ, nhất là không muốn lối sống Mỹ xâm nhập vào Việt Nam”.

Đảo qua tục ca trước. Phải nói đây là những bài ca dùng những từ tục thiệt tục. Những bộ phận L…, C… được hát thoải mái. Không biết có phải vì không có ca sĩ nào dám hát hay không mà ông tự hát lấy và chỉ phổ biến hạn chế trong vòng thân hữu. Vẫn lời Phạm Duy: “Hai vị viết sách, viết báo về tôi là Tạ Tỵ và Georges Gauthier đều cho rằng cái vui, cái tếu không phải là chất liệu Phạm Duy, cho nên tục ca không thành công. Chưa kể có người chê tôi đi tới chỗ nhảm nhí trong nghệ thuật. Tôi cũng hiểu được vì sao có những người chống đối tục ca dù họ không biết cặn kẽ nội dung của nó. Tôi không hề tung tục ca ra quần chúng. Tôi chỉ tặng vài người bạn thân một băng cassette ghi lại buổi hát chơi ở Vũng Tầu và còn dặn dò đừng phổ biến!”. Trong tủ nhạc của tôi vẫn giữ cuốn cassette tục ca này do nhạc sĩ Trường Kỳ tặng. Mười bài tục ca đó có tên như sau: Em Như Cục Cứt Trôi Sông, Tình Hôi, Gái Lội Qua Khe, Úm Ba La Ba Ta Cùng Khỏi, Bà Già Khỉ Đột Giao Hoan, Mạo Hóa, Nhìn L…, Em Đ…, Chửi Đổng và Cầm C…

Vỉa hè ca có nhan đề là những tiếng lóng. Phạm Duy cho biết: “Lúc tôi soạn vỉa hè ca  là lúc quân đội ngoại quốc đổ bộ ào ạt vào Việt Nam. Trước sự xâm nhập của nền văn minh vật chất, một số người mình quả thật có chạy theo lối sống Âu Mỹ! Sự ham muốn những gì quá tầm tay của mình, chẳng hạn già như tôi mà còn mê gái sẽ bị gái nguýt cho một cái: “Xí! Già mà ham!””. Già mà ham, tiếng lóng này ai cũng rõ nghĩa. Chỉ có anh Yamaha của Nhật loạng quạng vướng phải khiến dơ đầu chịu tiếng thế cho chữ tiếng lóng Việt Nam.


Sức Mấy Mà Buồn, đây là tiếng lóng xuất hiện vào thập niên 60 của thế kỷ trước. Sức mấy có nghĩa là bất lực hay chuyện không thể làm được. Nó phổ biến đến nỗi từ tổng thống, phó tổng thống, tướng tá, nhà văn, nhà thơ, nhà báo tới các em bé đành giầy trên vỉa hè đều dùng thoải mái trong văn viết cũng như văn nói. Thông thường tiếng lóng chỉ được nói chứ ít khi được viết ra trên báo chí sách vở. Vậy mà ông ký giả Đinh Từ Thức của các nhật báo đứng đắn như Tự Do, Sống, Hòa Bình, Chính Luận còn dùng bút hiệu Sức Mấy để viết “phim” trên báo.

“Phim” trên báo không phải là phim ảnh mà là mục…phiếm phải có trên các nhật báo Sài Gòn ngày đó. Mục “phim” nổi tiếng nhất là Ao Thả Vịt của Chu Tử trên báo Sống. Ngày đó báo chí còn nói tới tiếng lóng “khều mặt trời” nhưng chắc ít người còn nhớ. Chuyện như vầy: Sau khi dinh Độc Lập bị hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử bỏ bom làm hư hại, kiến trúc sư giải Khôi Nguyên La Mã Ngô Viết Thụ được mời thiết kế dự án tái thiết dinh. Trong buổi lễ khai mạc dinh mới, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã giải thích về kết cấu dinh. Khi nói về những tấm rèm đá hình cây trúc, quốc huy của Việt Nam thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nằm khắp mặt dinh, ông nói những tấm màn đá này được thiết kế để có thể đón ánh sáng mặt trời ùa vào hành lang. Báo chí thời đó nhạo việc đón ánh sáng mặt trời này là “khều mặt trời”. Thời gian đó, tôi được nhật báo Dân Ý mời viết mục phim trên trang nhất mỗi ngày, tôi đặt tên mục phim đó là “Khều Mặt Trời” và ký tên “Thầy Khều”. Sau này, khi đứt phim, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ và tôi đều bị lùa vào trại học tập Long Thành, cùng ở chung nhà số 2. Tôi nằm trong “tổ trang hoàng” chuyên vẽ bích họa trên tường và trồng cây cho trại, tổ trưởng là Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Khi đó, nghĩ tới chuyện khều mặt trời, tôi cười một mình, chẳng dại chi mà khai với ông kiến trúc sư. Khi cả hai chúng tôi được thả về, tôi vẫn lui tới chơi với ông tại nhà riêng trên đường Đoàn Thị Điểm (?), gần vườn Tao Đàn.

Màn "khều mặt trời" của dinh độc Lập

Trong vỉa hè ca của Phạm Duy có câu: “Sức mấy mà buồn, buồn ơi bỏ đi Tám”. “Bỏ đi Tám” cũng là một tiếng lóng của dân Sài Gòn. Sao không Bảy hay Chín mà lại Tám? Tiếng lóng này xuất hiện tại Sài Gòn vào khoảng đầu thế kỷ 20. Thời đó chuyện xưng hô thứ bậc trong xã hội được phân chia theo giai cấp rất cứng nhắc. Thứ nhất là các ông tây hay các vị quan lại người Việt, giới quyền quý ăn trên ngồi trốc trong xã hội. Thứ hai là các công chức làm việc cho nhà nước. Họ là dân có học, được gọi là các thầy Hai thông ngôn hay thày Hai ký lục, thày Hai thư ký. Thứ ba là các thương gia Hoa Kiều, có tiền và có truyền thống bang hội tương trợ liên kết với nhau. Họ không có quyền nhưng gần với giới cầm quyền nên các “chú Ba” đương nhiên là một thế lực đáng vị nể của giới bình dân Sài Gòn. Thứ tư là các đại ca giang hồ chuyên sống bằng nghề đâm chém nhưng có tình nghĩa. Các “anh Tư dao búa” vừa là hung thần khiến dân chúng sợ sệt, vừa được sự ngưỡng mộ của giới bình dân cũng như các tiểu thư khuê các. Thứ năm là giới lưu manh hạ cấp, các “anh Năm” đá cá lăn dưa, móc túi giật đồ, cò mồi mãi dâm mà dân chúng khinh nhưng sợ. Thứ sáu là các “thày sáu mã tà” tức các cảnh sát phú lít có nhiệm vụ giữ trật tự bị dân buôn gánh bán bưng ghét vì chuyên đạp đổ nồi cơm của họ, bị dân chúng khinh vì ăn hối lộ tạp nhạp lấy tiền nhẩm xà nhưng cũng được dân sợ vì có uy có quyền. Thứ bảy là các “anh Bảy Chà Và” chuyên cho vay nặng lãi, lại có thể dùng tiền tùng phùng với giới chức người Pháp bị dân chúng ghét nhưng vẫn sợ, nhất là những người buôn gánh bán bưng phải vay vốn nặng lãi. Thứ tám là giới bình dân nghèo khó, dân ngu khu đen, đổi sức kiếm miếng ăn như phu bốc vác, chị ở đợ, gánh nước bồng em hoặc các phu kéo xe. Tuy giới này có số đông nhưng yếu thế nhất vì thất học, không có quyền và có tiền như thày Hai, anh Ba, không bặm trợn như các “anh Tư”, “anh Năm” nên bị bắt nạt, áp bức từ mọi phía. Muốn yên thân phải cắn răng chịu thiệt, nhẫn nhục sống, chuyện chi cũng “bỏ đi Tám”!


Thành phần thứ ba kể trên là các chú Ba. Đây là một lực lượng đông đảo, đoàn kết. Chẳng thế mà họ có cả khu vực Chợ Lớn to đùng. Dân ta không ưa nhưng vẫn nể phục họ, gọi họ bằng nhiều chữ: Ba Tàu, Các Chú, Khách, Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo phát hành ngày 16/2/1870 giải thích như sau: “An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v... Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu. Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy. Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc”. Dân ta còn kêu họ là Khựa, thím Xẩm hoặc Chú Ba.

Cầu ba cẳng

Thành phần thứ tư là các đại ca trong giới giang hồ. Tiếng lóng gọi là dân chơi, chúng ta có “dân chơi cầu Ba Cẳng”. Nghe tới “dân chơi cầu Ba Cẳng” chúng ta dễ nghĩ là những tay giang hồ nghĩa hiệp trừ gian diệt bạo nhưng không phải. Cầu Ba Cẳng là một cây cầu chỉ dành cho người đi bộ, được thiết lập từ khi Sài Gòn mới hình thành. Tên chính thức của cầu là “Pont des Trois Arches” (Cầu Ba Vòm), sau dân gian gọi là cầu Ba Miệng, cầu Ba Chưn rồi Cầu Ba Cẳng, cái tên còn tồn tại đến ngày nay. Cầu nằm ở ngã ba của con kênh Hàng Bàng đổ ra rạch Tàu Hũ. Ba chân cầu đáp xuống bến Bãi Sậy, bến Nguyễn văn Thành và bến Vạn Tượng. Nhiều người, trong đó có tôi, không rành địa thế khu vực Chợ Lớn nên nghe mà bù trất. Chỉ cần biết cầu Ba Cẳng chỉ cách chợ Kim Biên vài trăm thước là đủ. Ông Năm Nghị, cư dân địa phương, 75 tuổi, kể lại: “Thời ấy dân giang hồ chia nhau cát cứ những khu vực làm ăn đông đúc để bảo kê thu lợi. Nhóm giang hồ ở cầu Ba Cẳng chuyên lừa đảo để kiếm tiền, kiếm tình nhưng dám làm mà không dám chịu, luôn tránh né khi gặp chuyện. Nổi bật nhất trong giới giang hồ cầu Ba Cẳng là Mã Ban, không chịu học hành, lao vào ăn chơi. Bị mẹ la mắng, Mã Ban bỏ học, thu thập đàn em, làm bảo kê cho các cửa hàng trong khu vực nên có tiền ăn chơi phủ phê. Vợ Mã Ban là con một thương gia người Hoa giầu có. Khi Ban tới tuổi quân dịch, cha vợ dùng tiền lo cho Ban trở thành cảnh sát. Có tiền, có thế, Ban tha hồ ăn chơi. Ông Năm Nghị nói: “Giới giang hồ và cảnh sát như mặt trời với mặt trăng, thế mà Mã Ban chấp nhận trở thành cảnh sát khiến đàn em không phục. Từ đó tiếng lóng “dân chơi cầu Ba Cẳng” ra đời nhằm phân biệt với giới giang hồ thứ thiệt như Đại Cathay chẳng hạn”. Giang hồ Đại Cathay chắc nhiều người đã nghe danh. Chuyện kể thời đó tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lệnh Cảnh Sát, rất chịu chơi, quyết thực hiện chiến dịch bài trừ du đãng. Ông lập ra biệt đội hình cảnh để hành động. Ông chiêu dụ Đại Cathay nếu từ bỏ làm đại ca nhóm giang hồ, giúp ông dẹp được du đãng Sài Gòn, ông sẽ mời gia nhập lực lượng cảnh sát với chức Đại Úy, Cảnh Sát Trưởng một quận ở Sài Gòn. Đại Cathay khảng khái trả lời: “Tôi không thể làm hài lòng Chuẩn Tướng được. Tôi chấp nhận như thế thì còn mặt mũi nào nhìn ai ở đời này”.


Đại Cathay chính là hình mẫu của nhân vật Trần Đại trong cuốn truyện “Điệu Rơi Nước Mắt” của Duyên Anh. Theo tác giả Duy Chính, cuộc hội ngộ giữa Duyên Anh và Đại Cathay xảy ra khi Duyên Anh nhờ một đàn em của Đại Cathay là  Hùng Đầu Bò dàn xếp cuộc gặp gỡ. “Nhà văn Duyên Anh (tên thật là Vũ Mộng Long) từ Bắc di cư vào Nam, lúc này đã nổi tiếng với nhiều tác phẩm cho thanh thiếu niên, đang là chủ bút tờ Tuổi Ngọc, quen Hùng “đầu bò”, nghe kể, tỏ ra thích thú. Hùng “đầu bò” xin ý kiến Đại Cathay. Để tỏ ra là người biết trọng nghệ thuật, Đại cho mời nhà văn Duyên Anh đến đàm đạo trong tiệm hút thuốc phiện Đông Kinh trên đường Ngô Tùng Châu, nay là đường Lê Thị Riêng, quận 1… Nhà văn Duyên Anh nói: “Anh giống như nhân vật bước ra từ trang sách của Francoise Sagan!”. Nghe đến đây, dù chẳng biết nhà văn Francoise Sagan là ai nhưng cũng khiến Đại Cathay sung sướng muốn rụng rời chân tay.

Hắn quay lại hỏi đàn em một câu khiến ông nhà văn cụt hứng: “Sagan… là ông nào vậy?”. Lâm chín ngón phải kề tai nói nhỏ là nữ văn sĩ Pháp, chuyên viết về bụi đời, được giải Nobel… Đại càng thích hơn, mời nhà văn nhậu mấy chập. Một thời gian sau Duyên Anh cho xuất bản tiểu thuyết “Điệu ru nước mắt” rất nổi tiếng. Nhân vật chính là Trần Đại, lấy nguyên mẫu từ Đại Cathay. Có khác chăng nhân vật Trần Đại trong “Điệu ru nước mắt” xuất thân là con nhà giàu, học giỏi nhưng chán ghét thời cuộc, bỏ nhà theo tiếng gọi giang hồ, làm đại ca nhưng vô cùng nghĩa hiệp, cứu giúp kẻ thân cô thế cô, dám đánh cảnh sát ăn hối lộ. Cuối cùng, vì chung thủy với mối tình vô cùng lãng mạn, đã chết trên hàng rào kẽm gai một cách lâm li bi tráng...

Hùng “đầu bò” tìm mua quyển tiểu thuyết, mừng lắm, đem về cho đại ca. Những phần đầu Đại Cathay đọc sướng lịm ngất ngây, lim dim thưởng thức. Tuy nhiên, ở phần kết, Đại Cathay nổi khùng lên khi đọc tới đoạn nhân vật Trần Đại nằm vắt trên hàng rào mà chết.
Hắn thét lên: “Thằng Duyên Anh đáng chết, dám chơi xỏ tao. Tao thế này mà phải lụy đàn bà đến khô cả xác à? Tụi bay tìm cắt gân chân cho tao!”. Mấy tên đàn em “có chữ” như Hùng “đầu bò”, Hoàng ghi ta xúm lại can ngăn, rằng đó là hư cấu, “chết rất đẹp” chứ không phải “lụy đàn bà”, Đại nhất quyết phải “luộc” Duyên Anh cho bằng được. Hùng “đầu bò” vốn quen biết nhà văn Duyên Anh, lại hiểu rõ tại đại ca “dốt” chữ chứ không phải nhà văn chơi xỏ nên lo cho nhà văn, mật báo tin dữ. Duyên Anh nghe tin báo, rụng rời chân tay, không kịp lấy quần áo, vội vàng dông thẳng lên Đà Lạt trốn đòn thù. May cho Duyên Anh là cuối năm ấy (1966), Đại Cathay bị cảnh sát tống ra đảo Phú Quốc, mới dám trở về Sài Gòn. Tiếc cho cuộc đời Đại Cathay, y không kịp sống để xem bộ phim “Điệu ru nước mắt” do hai diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ là Trần Quang và Thanh Nga đóng. Cái chết của Trần Đại trong phim và giọt nước mắt của người yêu tên Loan đã làm xúc động thế hệ khán giả thời bấy giờ vì đẹp như cái chết của Romeo và Juliet!”


Không biết có bao nhiêu phần sự thật trong chuyện kể của tác giả Duy Chính này nhưng nghe thấy khoái lỗ tai. Tháng 8/1966 Đại Cathay bị bắt. Ngày 28/11/1966, một chiếc máy bay C47 chở Đại Cathay và nhiều du đãng khác ra giam ở Phú Quốc. Không chịu khuất phục, tay giang hồ khét tiếng liên lạc với vợ gửi 60 cây vàng ra lo lót cho cai ngục để đào thoát. Kế hoạch bị Tướng Loan biết và cho cảnh sát mai phục bắn chết. Khi đó Đại Cathay vừa tròn 26 tuổi.

Bao thuốc lá Salem

Tiếng lóng Sài Gòn nổi tiếng nhất có lẽ là “OK Salem”. Tôi chắc là tới ngày nay mọi người vẫn chưa quên từ “OK Salem”. Có điều vui vui là ngay chữ OK đã là một tiếng lóng của Mỹ. Có nhiều giả thuyết về tiếng lóng ngày nay được dùng khắp nơi trên thế giới này. Một số người cho chữ này bắt nguồn từ chữ “okeh” của bộ lạc da đỏ Choctaws ở châu Mỹ. Nghĩa của “okeh” là…OK. Theo nhà ngôn ngữ học Allen Waiker Read, OK là dạng viết tắt của cụm từ “All Correct”. Lại có người cho OK là chữ viết tắt bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp. Giả thuyết sau đây có vẻ bài bản hơn. Vào thập niên 1830, những nhà trí thức trẻ ở Boston muốn có một cách giao tiếp đặc biệt nên quyết định tạo ra những mật mã ngôn ngữ riêng nội bộ. Công thức tạo từ của họ là: cố tình viết sai chính tả những cụm từ phổ biến để tạo ra từ đồng âm vô nghĩa, sau đó thì lấy hai chữ cái đầu tiên dùng làm mật mã. Điều này dẫn tới xu hướng tạo ra những từ viết tắt như KC là “Knuff Ced” (enough said – nói đủ rồi) và OW là “oll wright” (alright - tốt). Trong đó từ viết tắt nổi tiếng hơn cả chính là OK: “oll korrect” tức “all correct” - “tất cả đều đúng”. “All correct”  đã được sử dụng thường xuyên ở cuối các văn bản với mục đích xác nhận những thứ nêu trên đều chính xác. Cách viết tắt “OK” chỉ thật sự trở nên thông dụng khi được báo Boston sử dụng lần đầu tiên vào thứ bảy ngày 23/3/1839. Những tờ báo khác cũng dần sử dụng “OK”, biến nó thành một từ được hiểu biết rộng rãi chứ không còn là ngôn ngữ riêng của giới trẻ Boston nữa. 

Tổng thống thứ 8 của Hoa Kỳ Martin Van Buren đã quyết định sử dụng “OK” làm biệt danh tại các cuộc vận động tái tranh cử vào năm 1840. Ông đến từ Kinderhook, New York và đã áp dụng khẩu hiệu: Old Kinderhook was “oll korrect” (Người đàn ông già đến từ Kinderhook luôn luôn đúng), viết tắt cực kì bắt mắt: OK was OK. Những người ủng hộ Martin còn lập ra những “Câu lạc bộ OK”, còn những kẻ phản đối sẽ áp dụng công thức ban đầu của các nhà tri thức trẻ Boston để tạo nghĩa mới cho OK như “Orful Katastrophe” (awful catastrophe – thảm họa tệ hại) để làm nhục tổng thống. Martin sau đó đã thua cuộc tranh cử này nhưng những hoạt động tranh cử của ông đã đủ làm từ “OK” nổi tiếng khắp nước Mỹ. Khi KC hay OW dần đi vào quên lãng, “OK” ngày càng phổ biến. Năm 1844, máy điện báo được phát minh và mọi người cần một cách ngắn gọn và hiệu quả để xác minh đã nhận được tin nhắn. “OK” đã được chọn và các hướng dẫn sử dụng điện báo ghi rõ rằng tất cả tin điện báo phải được hồi âm với tín hiệu “OK” khi nhận.


Ngày 8/3/1965, những quân nhân đầu tiên của Tiểu Đoàn 3, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, đổ bộ xuống Đà Nẵng, tiếng lóng OK đã theo chân các chú G.I. du nhập vào Việt Nam. OK lập tức được Việt hóa thành “OK Salem” khi dân đạp xích lô, trẻ đánh giầy chạy theo lính Mỹ chìa tay xin thuốc lá hay kẹo cao su. Càng ngày số lính Mỹ tại Việt Nam càng gia tăng. Họ có mặt trên nhiều tỉnh thành. Các quán snack bar mọc lên như nấm để phục vụ nhu cầu giải trí của họ. Khác với các snack bar bên Mỹ là những cửa hàng bán thức ăn nhẹ, xì-nách-ba ở Việt Nam là nơi uống rượu giải sầu của đám thanh niên trai tráng xa nhà. Giải sầu phải có các cô gái ngồi bên cùng uống mới có ép-phê nên một loạt các cô gái bán bar với áo quần cũn cỡn, đổ xô nhau hành nghề. Họ không uống rượu mà mè nheo lính Mỹ mua “Saigon tea” với giá khoàng 1 đến 2 đô một ly cho họ uống. “Saigon Tea” trở thành một tiếng lóng mà anh lính Mỹ nào cũng nằm lòng. Các cô gái bán ba thường ít học, không biết tiếng Mỹ nên sáng chế ra các tiếng lóng giả cầy mà anh lính Mỹ nào cũng hiểu như “No star where” (Không sao đâu), “Buy me Saigon tea” (Mua Saigontea cho em).

Lính Mỹ và Saigon Tea trong một snack bar tại Sài Gòn

Tiếng Mỹ giả cầy còn có từ “mumber one” mà ta gọi là “số dzách”. Thành phần bình dân giao dịch với lính Mỹ muốn khen anh G.I. chi xộp chỉ cần giơ một ngón tay: “You number one”. Vậy là hai bên đều hiểu là một câu khen. Trái ngược lại “number ten” là câu chê. Thậm tệ hơn là câu chê “năm-bơ-ten tháo giường”. Đó là phiên âm của  “number ten thousand”!

Sài Gòn là thành phố rất sinh động nên thời nào cũng phát sinh ra tiếng lóng của thời đó. Thời Pháp thuộc, nhà bưu điện gọi là “nhà dây thép”, con tem gọi là “con cò”, cảnh sát trưởng một quận được gọi là “ông cò”, nhân viên sửa morasse tại các tòa báo là “thầy cò”, tay môi giới chạy việc là “cò mồi”, tiền môi giới chạy việc gọi là “tiền cò”. Không biết có còn những “cò”nào  khác không?


Khi kinh tế phát triển, xe hơi có tiếng lóng là “xế hộp”, xe ngựa là “ôtô hí” , xe đạp là “xế độp”,đi nhảy đầm là “đi bum”, đi tán gái là “chim gái” hoặc “cua gái” hay “o mèo”, cua gái với ý đồ xấu là “bắt bò lạc”, đi ngắm gái là “đi nghễ”, quần là “quởn”, quần áo xịn diện đi chơi là “đồ vía”, chơi tứ sắc là “đi xòe”, đánh chắn là “múa quạt”, chơi mạt chược là “đi xoa”, đi uống rượu là “đi nhậu”, tiền bạc gọi là “địa”, nhiều tiền là “đông địa”, làm tiền người khác là “bắt địa”, ăn cắp là “chôm chỉa” hay “nhám tay” hoặc “cầm nhầm”, tuyệt vời là “hết sảy”, không giữ lời hứa là “xù”, bố mẹ là “ông bà via” hoặc “khứa lão”.

Cái chết thường bị kiêng kỵ, ít được nhắc tới. Vậy mà tiếng lóng Sài Gòn có tới 7 tiếng lóng chỉ cái chết: tịch, hai năm mươi, mặc sơ-mi gỗ, đi ô tô bương, chầu Diêm vương, đi bán muối, hui nhị tỳ.

Kể cũng...can đảm.

Dân làng báo chúng tôi hồi đó cũng lả vua tiếng lóng. Báo hàng ngày gọi là “nhật trình”. Nhật trình ra hàng ngày nên những giờ trước khi báo ra tòa soạn nhộn nhịp như đánh vật. Kẻ chạy ra, kẻ đi vô, cột báo thiếu mấy phân cần trám vô, vậy là “tin kho tiêu” được moi ra. Tin kho tiêu là tin không cần thời gian, cứ vứt đó, khi nào có một khoảng trống cần ráp vô là moi ra xài.

Các nhật báo ngày đó thường có mục “Xe Cán Chó, Chó Cán Xe” đăng những tin hạng nhì, vậy mà cột báo này lại ăn khách. Hầu như trong mỗi người chúng ta tính tò mò cũng nằm vùng. Tin loại “chó cán xe” đáp ứng được cái tính đó. Những tin quan trọng được gọi là “tin vơ-đét”, nhại từ chữ tây vedette, được bưng lên trang nhất. Tóm tắt tài liệu thành một bài tóm gọn gọi là “luộc bài”, chắp nhiều nguồn vào thành một bài gọi là “xào bài”. Tin tung ra để thăm dò dư luận là “tin ba-lông”. Đây là một thứ tin có thể có thật chưa được tiết lộ, tung ra để coi phản ứng của độc giả.

Tin ba-lông khác với “tin phịa” là tin hoàn toàn bịa đặt. Điển hình là phóng sự “Con Ma Vú Dài tại Khám Chí Hòa” của báo Trắng Đen vào đầu thập niên 1960.


Bìa Cô gái Đồ Long
 

Báo hàng ngày hồi xưa đều phải có truyện dài hàng ngày, gọi lả “feuilleton”,để giữ độc giả.

Đây là chiêu cạnh tranh nhau khốc liệt nhất. Đầu tiên chỉ một truyện, rồi leo thang lên dần tới cả chục truyện. Có lúc ông Thứ Trường Bộ Thông Tin Trần Ngọc Huyến phải ra lệnh giới hạn mỗi báo chỉ được đăng một truyện feuilleton thôi. 

Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, khi ông Phạm Thái nắm bộ Thông Tin đã cởi trói cho đăng thả giàn. Các nhà văn Mai Thảo, Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Duyên Anh và nhiều nhà văn nổi tiếng khác đều đã cầm tiền feuilleton. Mấy ông nhà văn thường lười, viết truyện feuilleton thì không lười được, mỗi ngày phải trám đủ mấy cột báo. Nhờ vậy mà các ông có tác phẩm xuất bản sau khi đăng báo. Phần lớn tiểu thuyết của Mai Thảo đều là sản phẩm mì ăn liền từ feuilleton.


Nhưng rầm rộ nhất của truyện feuilleton là ông nhà văn Kim Dung sống ở Hồng Kông. Truyện của ông được đăng hàng ngày trên báo Hồng Kông bằng tiếng Hoa, nhiều báo Việt Nam đăng lại. Người tiên phong dịch truyện Kim Dung là Tiền Phong Từ Khánh Phụng. Ông này người Minh Hương, thường được gọi tên là “Sìn Phoóng”, đọc chữ Hoa nhanh như chớp.

Truyện đầu tiên ông dịch là Bích Huyết Kiếm đăng trên báo Đồng Nai. Một dịch giả trẻ thông thạo chữ Hán là Tam Khôi “cạnh tranh” dịch bộ Anh Hùng Xạ Điêu cũng của Kim Dung đăng trên tờ Dân Việt. Từ đó báo chí Sài Gòn rộ lên truyện Kim Dung. Một loạt các dịch giả truyện Kim Dung từ đó nổi lên được các báo trải chiếu hoa đón chào. Hàn Giang Nhạn, Từ Khánh Vân, Phan Cảnh Trung, Đà Giang Tử, Tường Anh, Lã Phi Khanh, Vũ Ngọc, Dương Quân, Khưu Văn, Cao Tự Thanh, Lê Khánh Trường, Đông Hải, Hoàng Ngọc (Huỳnh Ngọc Chiến), Vũ Đức Sao Biển, Ngọc Thạch Hữu Nùng, Phạm Tú Châu.

Nhà văn Kim Dung
 

Truyện Kim Dung đăng trên Minh Báo ở Hong Kong, mỗi ngày chỉ vài ngàn chữ. Nhưng vài ngàn chữ này là vàng ròng được gửi theo máy bay đi khắp nơi trong đó có Việt Nam. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa Sài Gòn chỉ có 9 nhật báo. Tháng 12/1963, sau đảo chánh, có tới 44 tờ. Tất cả đều có đăng truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Có khi máy bay từ Hồng Kông qua chậm, các dịch giả, các chủ báo và các độc giả vò đầu bứt tai như đỉa phải vôi.

Hàn Giang Nhạn là dịch giả được các chủ báo o bế nhất. Ông dịch cho cả chục tờ báo. Khi nhận được tờ Minh Báo, ông nửa nằm nửa ngồi trên ghế trường kỷ, mắt đọc, miệng dịch cho người thư ký ngồi bên cạnh ghi lại, chung quanh là các tay chạy bài của các báo có hợp đồng ngồi chờ. Người thư ký ghi trên một sấp giấy có kẹp giấy than để viết thành nhiều bản. Ngưởi thư ký đó là ông Nguyễn văn Tầm sau này kể lại: “Nhà của Hàn Giang Nhạn tiên sinh ngày ấy ở Bàn Cờ. Buổi sáng, tiên sinh vừa uống cà phê xong là đã có 12 anh tùy phái của các nhật báo tới chờ. Tiên sinh mở tờ Minh Báo ra và cứ thế mà dịch và đọc cho tôi viết bằng tay. Tôi phải lấy 12 tờ giấy pelure loại mỏng, lót 11 tờ carbon, cố gắng ấn đầu bút Bic xuống thật mạnh để “lực đạo” có thể in qua 12 tờ giấy. Hễ tùy phái nào đến trước thì được bản ở trên, ai tới sau phải chịu lấy bản ở dưới.


Cho nên chữ nghĩa lộn xộn, cùng một dịch giả mà báo này in khác báo kia”. Mấy ông sắp chữ ở các tòa báo hẩm hiu nhận phải bản mờ căng mắt lên vừa đọc vừa đoán, có khi chữ tác đánh ra chữ tộ, nên bản dịch do cùng một người dịch mà mỗi báo in một phách! Cũng từ truyện chưởng Kim Dung, các nhà văn thứ thiệt khi viết phim đã dùng tên các nhân vật trong truyện làm bút danh như: Kiều Phong (Lê Tất Điều), Hư Trúc (Nguyên Sa), Kha Trấn Ác (Chu Tử). Truyện chưởng Kim Dung phổ biến như vậy nên có nhiều tiếng lóng ăn theo. Như “Nhạc Bất Quần” chỉ người ngụy quân tử, “Đoàn Chính Thuần” chỉ đàn ông đa tình nhiều vợ. Ngôn ngữ vỉa hè còn có “tẩu hỏa nhập ma”, “cho một chưởng”, “nhất dương chỉ”.


Cuối cùng tôi không thể bỏ qua một tiếng lóng thời thượng còn sống lay lất tới tận bi chừ: “xưa rồi Diễm”. Ai cũng biết chữ lóng này bắt nguồn từ bản nhạc Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn. Bản nhạc này là một trong những bài nổi tiếng nhất của nhạc sĩ họ Trịnh, không chỉ ở Việt Nam. Tại hội chợ Osaka năm 1970, ca sĩ Khánh Ly đã hát lời Nhật của Diễm Xưa dưới nhan đề: Utsukushii mukashi.

Dân Nhật kết bài hát này liền. Họ đã chọn Diễm Xưa Utsukushii mukashi là một trong 10 tình ca hay nhất mọi thời đại tại Nhật. Ca sĩ Nhật Yoshimi Tendo đã hát lời Nhật bản Diễm Xưa và được xếp hạng 11 trong 20 ca khúc hay nhất trên truyền hình.


Đài truyền hình Nhật NHK đã chọn bản Diễm Xưa làm nhạc chính cho một bộ phim nói về cuộc hôn nhân của một ông Nhật lấy vợ Việt Nam. Năm 2004, Đại học Kansai Gakuin đã xuất bản một cuốn sách viết về bản Diễm Xưa có kèm theo DVD khi đưa bản nhạc này vào chương trình học môn “Văn Hóa và Âm Nhạc” của trường.

Bìa đĩa nhạc Yoshimi Tendo hát Utsukushii mukashi.

Nhân vật của bản nhạc, Ngô Vũ Bích Diễm, sau khi tốt nghiệp ban Đốc sự trường Quốc Gia Hành Chánh, đã về làm việc với tôi tại Bộ Xã Hội. Trong những lần chuyện trò tâm sự, cô cho biết hồi đó còn nhỏ, ở gần nhà Trịnh Công Sơn tại Huế, thường đi ngang qua nhà Trịnh CôngSơn, khiến người nhạc sĩ đa tình cảm hứng viết thành nhạc. Khi tới tuổi, cô “tỉnh bơ” đi  lấy chồng!


Tôi không sanh trưởng ở Sài Gòn nhưng là dân Sài Gòn. Mỗi lần có dịp viết về những chuyện Sài Gòn tôi lan man không dứt ra được. Từ khi bị đổi tên, thành phố làm mặt lạ với dân Sài Gòn xưa. Sài Gòn của tôi, trong tôi vẫn là những kỷ niệm không bao giờ phai, trong đó có tiếng lóng của Sài Gòn.


Song Thao

06/2025 

Untitled Document

97-Year-Old Hiroshima Survivors' Final Duet—Nobody Could Hold Back Tears (AI VIDEO)

Người Lữ Khách Cuối Cùng - Phan Cao Trí

 

Suốt 20 năm, ông cụ lặng lẽ sống ở sân bay, như cái bóng giữa dòng người qua lại, ai cũng từng chỉ trỏ, bàn tán. Cho đến một ngày, sự thật về thân phận ông khiến tất cả phải lặng người trong xúc động.


Sân bay Tân Sơn Nhất những năm gần đây đã trở nên hiện đại và náo nhiệt hơn bao giờ hết. Hành khách kéo vali lộc cộc, tiếng loa thông báo chuyến bay vang vọng đều đặn, những cuộc chia ly và đoàn tụ nối tiếp nhau không ngừng nghỉ. Giữa dòng người hối hả ấy, chẳng ai không từng nhìn thấy một hình bóng quen thuộc – một ông cụ gầy gò, tóc bạc trắng, khoác chiếc áo khoác cũ kỹ, ngồi lặng lẽ bên góc ghế chờ gần cổng ra vào quốc tế.


Người ta gọi ông bằng nhiều cái tên: “ông cụ sân bay”, “người lang thang thời gian”, thậm chí có người đùa gọi là “hồn ma lạc lối”. Có những đứa trẻ chỉ vào ông rồi thầm thì với mẹ cha, người lớn cũng từng ái ngại mà bỏ lại vài gói mì tôm, chai nước, hay đôi khi là tờ tiền lẻ. Nhưng ông chưa từng xin ai bất cứ điều gì. Ông chỉ ngồi đó, mắt nhìn xa xăm như chờ đợi một điều gì đó sẽ đến từ những chuyến bay không ngừng cất cánh và hạ cánh mỗi ngày.

Không ai biết ông đến từ đâu. Không ai rõ vì sao ông lại chọn sống suốt 20 năm giữa nơi nhộn nhịp này, nơi mà ai cũng chỉ dừng lại tạm thời, chứ chẳng ai ở lại vĩnh viễn.

- “Ông ta bị mất trí nhớ.” – một anh bảo vệ từng nói với cô lao công.

- “Không phải đâu, nghe đâu ông ấy từng là Việt kiều, bị con cái bỏ rơi lúc về nước.” – chị bán cà phê trong sân bay thì thầm.

- “Cũng có khi là gián điệp thời chiến, không dám để lộ danh tính.” – có người thêu dệt, kèm nụ cười nửa miệng.

Mỗi người một giả thuyết, một mảnh ghép vụn vặt để cố ghép nên câu chuyện chưa có hồi kết. Nhưng ông cụ thì chẳng bao giờ giải thích. Ông chỉ lặng lẽ sống – như thể sự im lặng của ông là một phần của những âm thanh ồn ào kia, là tiếng ngân dài của thời gian bị lãng quên.


Một ngày đầu mùa thu năm ấy, khi mưa Sài Gòn kéo đến bất chợt, một cô phóng viên trẻ tên là Hà xuất hiện tại sân bay. Cô được giao thực hiện một phóng sự về “cuộc sống thường ngày ở sân bay”, và khi lướt qua góc ghế quen thuộc, cô thấy ông cụ – ướt lấm tấm mưa, tay ôm khư khư chiếc va-li cũ sờn góc. Tò mò, cô dừng lại hỏi chuyện.

Lúc đầu, ông không trả lời. Nhưng cô gái trẻ không bỏ cuộc. Cô mang nước, mang bánh mì, thậm chí ngồi cùng ông cả buổi chiều mà chẳng hỏi gì thêm. Cô chỉ kể về mình – một cô phóng viên tỉnh lẻ lên thành phố, làm nghề vì đam mê kể chuyện của con người. 

Sau ba ngày như thế, ông cụ cuối cùng cũng lên tiếng – bằng một chất giọng trầm, rõ ràng và đầy cảm xúc.

- “Cháu có tin là có những người sống cả đời chỉ để đợi một người không?”

Hà ngỡ ngàng. Lần đầu tiên, ông cụ không còn là một bóng mờ, mà trở thành một con người – với giọng nói, ký ức, và một trái tim chưa bao giờ thôi chờ đợi.


Chuyện của 40 năm trước 

Ông tên là Trần Văn Minh. Năm 1975, ông theo chuyến bay định mệnh rời Việt Nam sang Mỹ cùng vợ và con gái nhỏ, chỉ 3 tuổi. Nhưng giữa cảnh hỗn loạn lúc ấy, ông bị thất lạc vợ con ở sân bay. Máy bay không thể quay lại, và thế là ông đi một mình – mang theo nỗi day dứt, mang theo trái tim bị xé đôi.

Cuộc sống ở Mỹ không dễ dàng, nhưng ông luôn giữ hy vọng một ngày sẽ quay lại tìm vợ con. Ông học hành, làm việc, tích cóp từng đồng. Sau 20 năm, khi đã đủ điều kiện, ông trở về – nhưng không còn ai ở địa chỉ cũ, không còn tin tức. Họ đã biến mất như cơn gió năm nào.

Ông lục tung hồ sơ, tìm đến từng nơi có thể. Nhưng chẳng có gì. Duy chỉ có một điều ông giữ chắc trong lòng: vợ ông từng nói, nếu một ngày nào đó bị lạc nhau, hãy quay lại sân bay, nơi họ từng bắt đầu chia xa.

Và thế là ông trở lại Tân Sơn Nhất – ngày đó ông 60 tuổi. Giờ đã 80. Hai mươi năm ông sống ở đây, mỗi ngày đều dõi theo từng chuyến bay, từng khuôn mặt. Có lần ông tin là đã thấy bà – một người phụ nữ tuổi lục tuần, ánh mắt rất giống – nhưng rồi bà quay đi, ôm tay một người đàn ông lạ. Ông không đuổi theo. Vì ông sợ sai. Và cũng vì, ông nghĩ, nếu là bà – chắc chắn bà sẽ nhận ra ông.

- “Cháu biết không,” ông khẽ cười, đôi mắt đầy nước, “Mỗi ngày trôi qua, ta sợ không còn đủ thời gian. Nhưng ta vẫn ngồi đây, vì nếu bà ấy còn sống, chắc chắn sẽ quay lại. Chúng ta đã hứa với nhau…”

 

Tin tức gây chấn động

Hà lặng người. Cô quay về với cuốn băng ghi âm, và chỉ trong vài ngày sau khi phóng sự “Người lữ khách cuối cùng” được đăng tải, mạng xã hội bùng nổ. Bài viết lan tỏa với hàng trăm nghìn lượt chia sẻ. Nhiều người cảm động rơi nước mắt, nhiều Việt kiều liên hệ cô để hỏi thêm thông tin.

Và rồi một điều kỳ diệu đã xảy ra.

Một người phụ nữ tên là Trần Thị Ngọc Linh – hiện sống tại Melbourne, Úc – liên hệ với Hà, gửi ảnh chụp bà cùng mẹ ngày còn nhỏ. Hà run rẩy khi nhìn thấy cô bé trong ảnh – đôi mắt giống hệt ông cụ, và sau lưng tấm ảnh là dòng chữ “Gửi ba Minh, nếu ba còn sống, con vẫn chờ.”

Cuộc gọi video đầu tiên trong 45 năm – giữa ông Minh và con gái – là những tiếng nấc, là những “ba ơi”, “con đây”, là những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt già nua và khuôn mặt đã trở thành mẹ.

Họ hẹn gặp nhau – không phải ở sân bay – mà ở chính căn nhà nhỏ ông đang được chăm sóc bởi một nhóm tình nguyện sau khi câu chuyện lan rộng.


Ngày đoàn tụ

Ngày hôm ấy, trời Sài Gòn nắng dịu. Bà Linh – giờ đã là một phụ nữ gần 50 tuổi – bước xuống từ xe, tay run rẩy cầm theo chiếc khăn tay cũ màu hồng, thứ duy nhất còn giữ từ mẹ cô – và là bằng chứng cuối cùng của mối liên kết máu thịt.

Ông Minh, ngồi trên chiếc ghế gỗ trong sân nhà, nhìn thấy con gái bước vào – không nói được lời nào. Chỉ có hai cánh tay run run dang ra, và cái ôm nghẹn ngào kéo dài mãi mãi như thể thời gian đã ngừng trôi.

- “Ba vẫn ngồi chờ con suốt 20 năm… ở cái nơi lần đầu ba mất con.”

-  “Con xin lỗi, ba… Con cứ tưởng ba đã không còn…”

Và sau đó… 

Không ai còn thấy ông cụ ngồi ở sân bay nữa. Góc ghế quen thuộc giờ trống trải, nhưng trong lòng mọi người vẫn in hình bóng ông. Người bảo vệ năm xưa cũng thay đổi thái độ, nói với ai đó mới đến: “Nơi đó từng có một người cha, sống bằng niềm tin, chờ đợi suốt nửa đời người.”

Hà kết thúc phóng sự của mình bằng một dòng đơn giản:

“Không phải ai đi sân bay cũng chỉ để đi. Có người, ở đó, chỉ để chờ.”

 

Phan Cao Tri

Facebook

Nuối Tiếc Cuộc Tình Lỡ - Nguyễn Duy Phước

Monday, October 27, 2025

Dừa Nước - Từ Kế Tường

 

Quê tôi là vùng đất ven biển miền Tây Nam Bộ, sông rạch chằn chịt. Từ nhỏ tôi đã nghe gọi "Người xóm Rẫy", "Nguồi xóm Vườn", "Người xóm Giồng". Tên gọi này xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, để chỉ ngoài tên gọi bao quát là "Làng" ví dụ "Người cùng Làng", còn có người sinh sống ở từng xóm. Ví dụ "Người xóm Rẫy", tập trung ở vùng đất trũng, nước mặn, bùn lầy. "Người xóm Vườn", tập trung ở những thớt vườn trồng dừa, đất thịt trơn trợt còn "người xóm Giồng", tập trung ở vùng đất cao, xa nguồn nước, vùng đất thịt pha cát.

Tôi ở "Xóm Giồng", nằm giữa "Xóm Rẫy" và "Xóm Vườn".

Nhưng xóm nào cũng hai mùa mưa nắng quanh năm. Mỗi mùa có 6 tháng mưa và 6 tháng nắng. Mùa mưa thì nước ngọt, mùa nắng thì nước mặn. Giữa 2 mùa có một khoảng thời gian để nước chuyển dòng gọi là "Mùa nước lợ". Do đặc tính vùng miền, chịu ảnh hưởng thời tiết nên quê tôi ngày xưa chỉ trồng lúc một vụ, gọi là "Lúa mùa", tức trong thời gian mùa mưa bắt đầu từ tháng 6 tới tháng 12, gọi là tháng giáp năm (theo âm lịch).

Và cũng do vậy nên quê tôi chỉ có 2 loại cây trồng chính là cây dừa (cây công nghiệp) và cây lúa nước (cây nông nghiệp). Cây dừa quê tôi bạt ngàn, đất ruộng trồng lúa mênh mông nên nhà giàu ngày xưa là chỉ nhà nào có vườn dừa rộng 5-10 mẫu (hecta), ruộng vài chục mẫu thậm chí có nhà giàu (điền chủ) có tới hàng trăm mẫu ruộng cho tá điền thuê trồng lúa, để lấy lúa ruộng hàng năm sau mùa vụ.

Tuổi thơ tôi gắn bó nhiều hơn với cây dừa so với cây lúa. Mỗi tháng, dừa mùa, nhà giàu giựt dừa khô một lần tính ra hàng mấy thiên dừa (mỗi thiên dừa là 1.200 trái, dừa tính chục 12). Nếu tháng dừa treo, thì 2 tháng giựt một lần. Tôi có thú vui bè dừa giúp mấy đứa bạn con nhà giàu từ vườn của nó theo mương chính khi nước lớn từ sông, rạch đổ vào mương vườn về nhà rồi quăng dừa lên sân nhà nó. Chỉ với một mục đích được ưu tiên lựa những trái dừa khô quá lứa mọc mọng, tức đã nhú ra mầm cây dừa con để lột vỏ, đập ra ăn cái mộng dừa hấp dẫn bên trong.

Nhưng bên cạnh cây dừa trồng tập trung trên những bờ mương trong vườn gọi là vườn dừa hay thớt vườn, có một loài dừa mọc thành bụi rậm, sống và phát triển dưới bùn lầy, ven sông, rạch, mương vườn rất thú vị, gắn bó với tuổi thơ tôi và những thú vui theo mùa, đó là dừa nước (để phân biệt với dừa trồng trên bờ).

Dừa nước không ai trồng, là loài cây mọc hoang. Trái dừa nước khô rụng, hay bất kỳ lý do nào rời buồng dừa rơi xuống nước sẽ trôi theo dòng nước đi bất cứ đâu, khi nước ròng, bãi cạn thì trái dừa nước ghim vào bãi bùn, lâu ngày mọc mọng, thành cây dừa nước con bám đất nơi đó mà sống, phát triển thành bụi, trổ bông, có quầy, cho trái... và cứ thế dòng đời của cây dừa nước lan toả khắp nơi, tuy nhiên ở những vùng nước mặn mới có dừa nước.

Cây dừa nước có nhiều công dụng đối với người dân thôn quê, lá dừa nước tươi, đủ độ già người ta chằm lại từng tấm gọi là lá chằm dùng để lợp nhà (ngày xưa hầu hết đều là nhà lợp bằng lá dừa nước chằm), rất mát. Vách cũng được "vừng" bằng nguyên tàu lá dừa nước dài xé ra làm đôi phơi cho dốt dốt, gọi là lá xé. Nhà "vừng vách" bằng lá xé rất kín và đương nhiên cũng rất mát. Nhà mái lợp bằng lá dừa nước chằm, vừng vách bằng lá dừa nước xé sẽ cột bằng gì?

Không phải kẽm hay loại dây nào khác đâu nhé, mà chính sợi "lạt" chẻ ra từ cây "cà bắp", tức là tàu dừa nước non. Cũng từ cọng lá của tàu dừa nước non gọi bằng cây "cà bắp" này, người dân quê dùng để gói bắnh lá dừa, cột bằng sợi dây "lạt dừa", khi nấu chính, bánh lá dừa có màu sắc rất đẹp

Bây giờ thì người thành phố đã quen với trái dừa nước màu nâu được người từ ruộng rẫy quê mùa chặt từng quầy chi chít trái mang lên bán. Trái dừa nước "nạo cứng" chẻ ra lấy phần ruột bên trong dầm đá đường ăn rất ngon, mát ruột mát lòng, có hương vị đặc trưng của đất bùn ruộng rẫy, phù sa sông rạch chính là cây, bụi dừa nước mà tôi muốn nói.

Một điều thú vị nữa của cây dừa nước sống trong bùn lầy, ven bãi sông, kênh rạch, mương vườn là khi nước cạn người dân quê tôi có thể đi mò bắt những con cá bống dừa sống cặp, xây tổ uyên ương trong kẹt bặp dừa.


Và tuổi thơ của tôi khi bắt đầu tập bơi lội cũng chính nhờ ôm cái bặp dừa vẫy vùng các kiểu mà lớn lên tôi bơi như rái qua kênh, qua rạch và bơi theo những giề lục bình ngoài khơi con sông để bắt cá lia thia sông sống trong nhửng giề lục bình. Cá lia thia sông lớn con, màu sắc tuyệt đẹp, đá rất hăng, chỉ có "chết tại chiến trường" chứ không chạy mặt đối thủ như cá lia thia ruộng.

Và một điều đặc biệt nữa của cây dừa nước mà tôi muốn nói. Người thành phố gốc quê đều biết hoa của cây dừa trồng trên bờ mương, trong sân nhà hay sau vườn rụng sau cơn mưa trên mặt đất có màu trắng sữa, hoa tròn xoe như bông tai của con gái tuổi dậy thì, thơm thoang thoảng. Nhưng ít ai biết, hay còn nhớ hoa của cây dừa nước cũng rất đẹp, cũng thơm mùi dân dã, mưa nắng quê nghèo mà quyến rũ không kém hoa của cây dừa trên bờ. Nếu chịu khó lội mương, lột rạch chặt về chưng, cắm trong bình phù hợp cũng rất đẹp, cũng lộng lẫy mà lại lâu tàn.


Tối nay bỗng có một người bạn không phải người miền Nam nhưng sinh sống ở Sài Gòn nhắn tin cho tôi bảo muốn có 2 cây dừa nước nhỏ trồng trong chậu trên sân thượng, khi dừa nước lớn lên sẽ bứng ra mang trồng xuốt đất. Tôi bật cười vì ý nghĩ trồng dừa nước ngộ nghĩnh này của người bạn không phải là dân Nam Bộ. Bởi vì nếu là người Nam Bộ chắc chắn phải biết rằng, dừa nước dù mới mọc mầm cây con từ trái già trôi theo con nước lớn rồng trên sông, rạch, kênh mương để tìm một bãi bùn cắm xuống “định cư”, nếu người nào đó tình cờ vớt được cũng không thể trồng trên đất giồng, huống chi lại trồng trong chậu như trồng kiểng.

Dừa nước chỉ thích hợp với bãi bùn lầy lội, là một loại cây chắn sóng, ngăn đất lở và chỉ sống và phát triển thành bụi, thành hàng, thành rừng dừa nước dọc theo bãi lầy, có nước thuỷ triều lên xuống mỗi ngày. Dừa nước chỉ sống dưới… nước, làm bạn với nhà vườn, nhà nông miệt rẫy vùng nước mặn, nước lợ. Không chỉ mọc thành bụi thành hàng, thành rừng để chắn sóng, ngăn đất sạt lở mà còn là nguyên liệu để người đi mở cõi lợp nhà, dừng vách, chẻ tàu dừa nước non gọi là “cà bắp” ra làm những sợi lạt chằm lá lợp nhà, cột vách, gói bánh…

Trái dừa nước không to như trái dừa bờ, rất ít nước nhưng múi trái dừa nước nạo là món ăn vặt cực ngon nếu được dầm với đá đường. Người miệt rẫy, miệt vườn vẫn dùng ghe tam bản, xuồng ba lá luôn sâu trong kênh rạch hay ven sông vào mùa dừa nước trổ quày chặt mang về chịu khó chẻ ra từng trái, lấy múi dừa nước nạo bên trong bỏ bịch nylon mang lên thành phố bán cho người thích ăn vặt để biết món ăn dân dã, hoặc người gốc quê nhớ món ăn quê. Bởi dừa nước nạo, cơm dừa nước còn mềm chế được nhiều món, ngoài dầm đá đường còn nấu chè đậu xanh ăn rất ngon.


Gần đây có thông tin một kỹ sư trẻ ở Cần Giờ đã có sáng kiến lấy mật từ hoa của cây dừa nước chế biến ra loại mật hoa dừa nước rất thơm ngon, bổ dưỡng. Như thế cây dừa nước lại có thêm một công dụng hữu ích để khẳng định vị trí trong cuộc sống nơi quê nghèo rẫy bái đã vươn xa tới chốn thị thành.