Câu chuyện ‘Ke Ga’ chỉ là một trong những
câu chuyện dài về chữ nghĩa thời nay ở Việt Nam, nơi mà sự lẫn lộn giữa tiếng
Anh, tiếng Pháp, và cách dịch sang tiếng Việt làm cho nhiều người thấy khó hiểu.
‘Ke Ga’
Mới đây, bà con Sài Gòn kinh ngạc khi thấy danh từ
‘Ke Ga’ xuất hiện trong các nhà ga xe điện tuyến Metro 1 Sài Gòn –
Thủ Đức. Ai cũng ngơ ngác hỏi nhau ‘Ke Ga’ là gì. Nhà đầu tư giải
thích rằng chữ này được du nhập từ miền Bắc: nó đã được dùng ở tuyến Metro Hà Nội
và trong ngành ‘đường sắt’ hàng chục năm qua. Lại có người giải thích rằng danh
từ này đã có trong luật đường sắt.
Nhưng tại sao
‘Ke‘? Mấy người Tây học thời nay giải thích rằng chữ ‘Ke’ là
xuất phát từ tiếng Pháp ‘Quai’ (tiếng Anh là ‘Quay‘). Còn chữ
‘Ga‘? À, chữ đó, họ giải thích là từ chữ ‘Gare‘ trong tiếng Pháp.
Nói cụ thể hơn, người ta dịch từ chữ ‘Quai de la Gare‘ từ tiếnh Pháp sang tiếng
Việt là ‘Ke Ga‘.
Danh từ ‘Ke Ga’ đang làm cho bà con
Sài Gòn ngơ ngác hỏi nhau nó là cái gì???
Tuy nhiên, vấn đề ở đây là người ta (chủ đầu tư)
viết phụ chú bằng tiếng Anh là ‘Platform‘ dưới danh từ ‘Ke Ga‘. Ở
các nước nói tiếng Anh, xe điện / xe lửa là một phương tiện họ sáng chế ra, và
theo đó, chữ Platform, một cách đơn giản, có nghĩa là bến xe điện, là
nơi mà hành khách lên xuống. Tiếng Việt tương đương với chữ Platform là
‘Sân Ga’ hay ‘Thềm Ga’.
Hai danh từ này, Sân Ga và Thềm Ga,
rất phổ biến ở người Việt (Bắc, Trung, Nam) vì nó dễ hiểu. Nguyễn Bính từng
sáng tác bài thơ bất hủ ‘Những bóng người trên sân ga‘ mà tôi tin rằng
những ai ở thế hệ tôi đều biết.
Tại sao người ta không viết “Thềm Ga /
Platform” cho dễ hiểu? Tại sao lại đi chế ra một cái tên vừa lai căng, vừa
Tây bồi như ‘Ke Ga‘. Thú vị hơn là phía trên thì viết theo tiếng Pháp,
còn phía dưới thì lại là tiếng Anh!
Người ta giải thích rằng danh từ ‘Ke Ga‘
có trong Từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê (một học giả có uy tín ở
trong nước), thế nhưng chính cuốn từ điển đó cũng có danh từ ‘Sân Ga‘. Họ
giải thích thiếu tính thuyết phục.
Càng thiếu thuyết phục hơn khi chữ ‘Ke’ / Quai
có nghĩa là ‘Đường dọc theo bờ sông. Thềm trước sân ga hay dựa bến tàu
dành cho khách đến đợi rước người nhà hoặc khách đi tàu đợi lúc tàu sắp đến‘ (Từ
điển Các từ Tiếng Việt gốc Pháp do Nguyễn Quảng Tuân – Nguyễn Đức Dân
biên soạn). Nói cách khác, Ke /Quai thường dùng cho bến tàu,
không phải bến xe điện.
Xin nói thêm rằng khi người Pháp chiếm Cần Thơ
năm 1876, họ đặt bến ghe / tàu là ‘Quai de Commerce’ (dịch đúng
nghĩa là ‘Bến thương mại’). Nhưng người dân Cần Thơ chẳng ai gọi là ‘Ke
Com‘ kiểu tiếng bồi cả; họ gọi là Bến Hàng Dương vì ở đó có
hàng cây dương. Thời Việt Nam Cộng Hoà, Bến Hàng Dương được đổi tên
là Bến Ninh Kiều.
‘Ga tàu thuỷ’
Nói đến ‘bến‘, có lẽ bạn đọc còn nhớ một
kiểu áp đặt ngôn ngữ khác liên quan đến cái bến tàu. Vài tháng trước, người Sài
Gòn ngạc nhiên khi thấy cái bảng hiệu ‘Ga tàu thuỷ Bạch Đằng’ ngay tại Bến
Bạch Đằng. Nói ‘ngạc nhiên’ là còn nhẹ, chớ trong thực tế người Sài Gòn sôi sục
với cái kiểu định danh lạ lùng đó.
‘Ga Tàu Thuỷ Bạch Đằng’ làm cho bà con Sài
Gòn một phen sôi sục.
Họ sôi sục là phải. Người Việt, dù Nam hay Bắc,
đã quá quen với chữ ‘bến’, là nơi ghe tàu đậu và lên xuống hàng hoá, là
nơi hành khách lên xuống tàu. Sài Gòn có nhiều bến tàu: Bến Nghé, Bến Hàm Tử,
Bến Chương Dương, v.v. Miền Bắc cũng có nhiều bến: Bến Chèm, Bến Phà
đen, Bến Bính, v.v.
Chẳng hiểu sao người ta lại chế ra cách gọi dài
dòng kiểu ‘Ga tàu thuỷ Bạch Đằng’. Mà, cách gọi này … trật lất. Người Việt
chúng ta dùng chữ ‘Ga’ cho xe lửa, xe điện, chớ có ai dùng chữ đó cho bến
tàu bao giờ. Rồi lại ‘tàu thuỷ’! Nếu muốn làm ra vẻ thuần Việt, sao
không là ‘tàu nước’ — có người hỏi.
Cái cách chế chữ như vậy tưởng là thuần Việt
nhưng hoá ra thành … ‘ba rọi‘.
‘Sân bay’ và ‘Ga hàng không’
Cách định danh ba rọi như vậy còn lan sang ngành
hàng không.
Trong tiếng Anh, chữ Airport có nghĩa
là một quần thể công trình phục vụ cho hàng không dân sự. Airport bao
gồm phi đạo (cho máy bay cất cánh và đáp), tháp kiểm soát không lưu, nhà để máy
bay (hangar), và trạm đưa đón khách (terminal), và các công trình
phục vụ hành khách như quan thuế, di trú, taxi và nhà hàng. Port là
‘Cảng’, do đó, Airport dịch là ‘Phi Cảng’ là hợp
lý.
Ngày xưa, ‘Export’ và ‘Import’ dịch
là ‘Xuất cảng’ và ‘Nhập cảng’, và hai danh từ này hợp lý hơn
là ‘Xuất khẩu‘ và ‘Nhập khẩu‘.
Trước 1975, các nhà chức trách định danh rất chuẩn
mực. Phi Cảng Saigon Tân Sơn Nhứt có tên tiếng Anh là ‘Saigon
Tan Son Nhut Airport‘. Ảnh: internet
Trước năm 1975, thời Việt Nam Cộng Hoà (VNCH), các nhà chức trách định danh rất chuẩn mực. Phi trường Tân Sơn Nhứt có tên chánh thức là ‘Phi Cảng Saigon Tân Sơn Nhứt‘. Tên tiếng Anh là ‘Saigon Tan Son Nhut Airport‘. Cách định danh tiếng Anh này phù hợp với cách định danh ở phương Tây. Ở Úc, phi trường Sydney là ‘Sydney Kingsford Smith Airport‘, cũng giống như ‘Singapore Changi Airport‘. Tức là người ta lấy tên thành phố trước và địa phương sau.
Sau 1975, các nhà chức trách mới đổi tên ‘Phi
Cảng Saigon Tân Sơn Nhứt‘ thành ‘Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất‘. Từ
‘phi cảng’ (Airport) thành ‘Sân bay‘ (Airfield, Aerodome),
không đúng với ý nghĩa gốc, bởi vì Airfield hay sân bay chỉ
là một phần của Airport.
Nhưng sự thay đổi địa danh ‘Tân Sơn Nhứt‘
thành ‘Tân Sơn Nhất‘ có thể nói là rất nhức nhối, vì sự thay đổi đó giết
chết một địa danh trong lịch sử.
Thế rồi, sau này lại thêm một thay đổi nữa. Cái ‘Sân
bay quốc tế Tân Sơn Nhất‘ giờ trở thành ‘Cảng hàng không Quốc tế Tân Sơn
Nhất‘. Tên tiếng Anh là ‘Tan Son Nhat International Airport.’
À, có chữ ‘cảng’, nhưng thay vì ‘Phi cảng‘,
người ta làm cho nó dài dòng hơn: ‘Càng hàng không‘! Có vẻ người ta
tránh dùng chữ thời VNCH.
Thế nhưng điều thú vị là cái bảng hiệu thì lại đề
là ‘Tan Son Nhat International Terminal‘! Như giải thích trên, terminal là
một trạm đưa đón khách, chỉ là một phần của Phi Cảng / Airport.
Terminal không phải là ‘Cảng hàng không‘.
Sau 1975, nhà chức trách đổi tên ‘Sân Bay Quốc Tế Tân Sơn Nhất’ thành ‘Cảng Hàng Không Quốc Tế Tân Sơn Nhất’ và tên tiếng Anh là ‘Tan Son Nhat International Terminal’ (dù tên tiếng Anh chính thức là Tan Son Nhat International Airport). Ảnh: VietJetAir.
Hãy nhìn sang các nước chung quanh! Có nơi nào
trương bảng hiệu kiểu ‘Tan Son Nhat International Terminal‘ ngay tại phi
cảng? Không. Người ta viết là ‘Suvarnabhumi Airport’ (Thái Lan), ‘Singapore Changi
Airport’ (Tân Gia Ba), ‘Incheon Airport’ (Nam Hàn), ‘Denver International
Airport’ (Denver, Hoa Kỳ), Sydney Kingsford Smith Airport (Úc) v.v. Chỉ có Việt
Nam là khác người.
Phi trường Schiphol, Hà Lan–Amsterdam Schiphol Ariport.
Cái khác người đó còn thể hiện qua cách định danh
phi trường quốc nội. Thật vậy, phi trường quốc nội hiện nay có cái
tên tiếng Việt – Anh là ‘Ga hàng không trong nước — Domestic Terminal‘.
Domestic Terminal là gì?Là trạm xe bus nội
địa, thuộc bến tàu nội địa, hay thuộc phi cảng nội địa?
Thấy gì qua cách định danh trên? Nó lẫn lộn giữa
‘Ga‘ và ‘Cảng‘. Tại sao khu vực quốc tế thì gọi là ‘Cảng hàng
không‘, còn khu nội địa thì gọi là ‘Ga hàng không trong nước‘? Ga
thường dùng cho nhà ga xe lửa, chứ có ai dùng cho cảng hàng không bao giờ? Mà,
tại sao phải dài dòng ‘Ga hàng không trong nước’ mà không là ‘Phi
cảng nội địa‘?
Tôi nghĩ, với tinh thần hội nhập quốc tế, các nhà
chức trách nên: (a) đổi bảng hiệu “Tan Son Nhat International Terminal”
thành “Saigon Tan Son Nhut International Airport“; và (b) đổi
“Ga hàng không trong nước — Domestic Terminal” thành “Saigon Tan
Son Nhut Domestic Airport”.
Cách dùng tiếng Anh có vẻ tuỳ tiện trên còn lan sang cả các đường cao tốc nữa. Nếu có dịp đi trên các đường cao tốc ở Việt Nam, các bạn sẽ thấy danh/động từ ‘Slow Down’ để bổ nghĩa tiếng Anh cho động từ tiếng Việt ‘Giảm tốc độ.’
Thấy gì qua cách dịch như trên? Trong tiếng Anh,
‘slow down’ là một danh từ (cũng có thể là động từ) có nhiều nghĩa: giảm
hoạt động, giảm sản xuất, chậm lại. Chẳng hạn như ‘economic slow down‘
có thể hiểu là nền kinh tế phát triển chậm. Điều này có nghĩa là khi dùng ‘slow
down’, người đọc ngoại quốc có thể hiểu theo nhiều ý nghĩa khác nhau.
Bảng hiệu ‘Giảm Tốc Độ’ được dịch sang tiếng Anh
là ‘SLOW DOWN’
Đáng lý ra họ nên dùng động từ ‘Reduce Speed’
thì đúng hơn. Reduce Speed có nghĩa là ‘Giảm tốc độ’. Đơn giản.
Người đọc không thể hiểu cách nào khác, mà chỉ là ‘giảm tốc độ’. Ở
phương Tây, đặc biệt là các nước nói tiếng Anh, Reduce Speed rất phổ biến
trên xa lộ và đường xá. Tại sao không theo quy ước chung của nước ngoài, mà lại
đi tái chế chữ ‘Slow Down’ cho khó hiểu?
Bảng hiệu giảm
tốc độ ở nước ngoài rất rõ ràng: REDUCE SPEED. Viết bằng chữ trắng trên nền đỏ để cảnh báo.
Khó hiểu hơn đối với người miền Tây là danh từ ‘Nút
Giao‘ đột nhiên xuất hiện trên các con lộ cao tốc. Hoá ra, cái danh từ ‘Nút
Giao‘ này chính là ‘Giao Lộ‘ thời trước 1975! Thời VNCH, người gọi
nơi mà các con lộ gặp / giao nhau là ‘Giao Lộ‘, rất dễ hiểu.
Thế nhưng có lẽ
do kỵ húy ngôn ngữ thời
VNCH, nên ngày nay người ta sáng chế là cái danh từ khó hiểu ‘Nút Giao‘.
Ngoài ra, thay vì ‘Tỉnh Lộ’ (trước 1975), người ta sửa lại là ‘Đường
Tỉnh‘, cũng chỉ là một kiểu kỵ huý. Tương tự, thay vì ‘Phi cảng’ (trước
1975) người ta làm cho dài hơn ‘Cảng hàng không‘!
Cái chết của phương ngữ Nam Bộ
Ở Việt Nam, có một số người nghĩ rằng họ biết tiếng
Việt, và tiếng Việt họ nói và viết là ‘chuẩn’. Từ suy nghĩ đó, họ áp đặt loại
ngôn ngữ họ nói và viết cho toàn quốc, không cần quan tâm đến, chứ chưa nói đến
‘tôn trọng’, phương ngữ. Ngạo mạn.
Hôm nọ, tôi có dịp nói chuyện với một bác sĩ ở miền
Tây, và em ấy than phiền là rất vất vả giải thích cho con cái về những chữ ‘mới’.
Sách giáo khoa tiếng Việt dành cho học trò bậc tiểu học ngày nay dùng toàn cách
nói và từ ngữ miền Bắc. Học trò miền Nam ngày nay phải học những chữ như bát,
thìa, mũ, lợn, v.v. và sẽ đến một ngày, trẻ em miền Nam sẽ không còn biết đến chén,
muỗng, nón, heo, v.v. là gì. Thậm chí, ngày nay có em dùng ‘bố’ thay
cho ‘ba‘!
Rồi những cách
sửa thứ tự chữ như bảo đảm (nay là ‘đảm bảo‘), khai triển thành
triển khai, bệnh dịch thành dịch bệnh, liên lạc thành
liên hệ, bảo trì thành bảo dưỡng, khẩn cấp thành
khẩn trương, khả dĩ thành khả năng, khả năng thành
kỹ năng, hiệu đính thành biên tập, hồi âm thành
phản hồi, diễn văn thành bài nói chuyện, hải phận thành lãnh
hải, căn cước thành chứng minh nhân dân, và vô số cách
thay đổi theo hướng Tàu hóa. Dĩ nhiên, lúc nào cũng có những người
tỏ ra có học thức đứng ra trích dẫn đủ thứ và lý giải cho nhà chức trách về những
thay đổi đó, nhưng rất tiếc là không thuyết phục.
Cái cách áp đặt ngôn ngữ đó được lặp lại với câu
chuyện ‘Ke Ga‘ mà thiên hạ bàn tán mấy tuần qua. Xin nhắc lại, chữ ‘Ke
Ga‘ được du nhập từ miền Bắc (như nhà đầu tư giải thích). Các đồng hương ngoài
Bắc có khuynh hướng viết ‘bồi’ từ tiếng Pháp. Chẳng hạn như họ ‘chuyển ngữ’ chữ
chambre thành ‘săm’, và envelope thành ‘lốp‘,
hoặc có khi khó hiểu hơn như ‘Cu dơ bây’ (Coos Bay), thậm chí ‘Ben Dơ‘
(Bend thuộc tiểu bang Oregon)!
Do đó, không ngạc nhiên khi họ chế ‘Quai’ thành
‘Ke‘. Còn người miền Nam, tuy tiếp xúc với người Pháp sớm hơn, nhưng vẫn
cố gắng thuần Việt hoá các danh từ gốc Pháp. Thay vì nói chambre, người
miền Nam nói ‘ruột’, và envelope thành ‘vỏ’,
‘automobile’ thành ‘xe hơi’ (chứ không phải ôtô), cũng
như ‘Quai‘ là ‘bến‘ vậy.
Không có lý do
gì làm cho tiếng Việt khó hiểu và lai căng qua những cách pha chế từ ngữ kiểu ba
rọi như thế
Nguyễn Văn Tuấn
Bàn luận chữ nghĩa với đám vô học chi cho mệt, từ chủ tịch nứơc trỡ xuống có ai học tới trung học đâu?
ReplyDelete