Nằm ở cửa Nam sông Hậu,
vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam, Sóc Trăng giáp với Trà Vinh,
Vĩnh Long, Hậu Giang và Bạc Liêu. Sóc Trăng có bờ biển dài khoảng 72 km giáp với
Biển Đông. Có Cửa Ba Động nơi tui xuống thuyền vượt biên ngày cũ.
Tên Sóc Trăng, thời VNCH
là tỉnh Ba Xuyên, xuất phát từ tiếng Khmer ‘Srok Khleang’, có nghĩa là ‘vùng đất
của kho bạc’ hoặc ‘nơi chứa bạc’. Tôi nghĩ Sóc Trăng là cái sóc trù phú nhờ đất
giồng ven biển do phù sa sông Hậu tràn bờ bồi đắp cả ngàn năm. Miệt Sóc Trăng
dân cuốc khoai nhiều lắm. Trên đất giồng, mình trồng khoai lang.
Dân Sóc Trăng có người Việt,
người Miên và người Tiều. Người Miên, còn gọi là người Khmer, là sắc dân thiểu
số, ít người khi so với người Việt. Người Miên sống tập trung trong nhiều phum
sóc ở Sóc Trăng. “Phum” trong tiếng Khmer có nghĩa là ‘vườn’, tương đương với
xóm, thôn, ấp của người Việt, gồm một số gia đình có bà con với nhau. Mỗi phum
thường có hàng rào tre xanh bao quanh và có cổng phum. Sóc thì nhiều phum,
tương đương với làng hoặc xã của người Việt. Mỗi sóc thường có một hoặc nhiều
ngôi chùa Miên. Các ngôi chùa Khmer (wat) đẹp và cổ kính như chùa Dơi, chùa Đất
Sét và chùa Phật Nằm, theo hệ phái Phật giáo Nam tông.
Người Miên ở Sóc Trăng
nói tiếng Khmer. Tiếng Khmer có nguồn gốc từ chữ Pallava của Ấn Độ, là ngôn ngữ
đa âm và tượng thanh, nghĩa là mỗi ký tự đại diện cho một âm thanh cụ thể. Tiếng
Khmer có một lượng lớn từ vay mượn từ tiếng Phạn và tiếng Pali, do ảnh hưởng của
Ấn Độ giáo và Phật giáo. Ngoài ra, tiếng Khmer cũng có nhiều từ vay mượn từ tiếng
Pháp do thời kỳ thuộc địa. Tiếng Khmer có nhiều phương ngữ khác nhau, như
phương ngữ Phnom Penh, thủ đô của Campuchia; phương ngữ Battambang, vùng tây bắc
Campuchia; và phương ngữ Khmer Krom. Từ “Krom” có nghĩa là ‘dưới’, thường chỉ
những người Khmer sống ở phía nam của Campuchia, tức là khu vực đồng bằng sông
Cửu Long.
Về Kế Sách, Sóc Trăng,
tôi biết người Miên có Lễ hội Ok Om Bok (Lễ cúng trăng), Lễ hội Chol Chnam
Thmay (Tết Khmer) và Lễ hội Đôn-ta (Lễ cúng ông bà).
Người Miên thích cờ bạc,
chơi bầu cua cá cọp; tin dị đoan, xin số đề mà huyện đề là một ông người Tiều lủm
hết.
Người Khmer đi ‘tu phước’
là đi chùa đọc kinh, lạy Phật, cúng dường cho các sư sãi, ôm bình bát, không đi
khất thực, bố thí cho những người nghèo.
Người Miên không địa táng
hoặc thổ táng (thổ là đất), đem chôn dưới đất như người Việt. Người Miên theo
phong tục hỏa táng (hỏa là lửa) nên bị chọc quê là “dân chết đốt”. Nghe vậy họ
giận mình lắm nhe!
Tui biết tiếng Việt chịu ảnh
hưởng tiếng Miên như: Con nít khỉ khọn bị kêu là thằng cốt đột, thằng khỉ. “Bon
ơi! Tâu na? Tâu tâm tức, tâu xa, tâu phất xạ, tâu phất cà phê ôn ơi” (Anh ơi!
Hôm nay đi đâu? Đi tắm xong thì đi chợ nhậu, đi uống cà phê, em ơi.)
Vàm nơi một con rạch đổ
vào một con sông. Bưng vùng đồng lầy ngập nước, mọc nhiều cỏ lác. “Trắng da vì
bởi má cưng. Đen da vì bởi lội bưng vớt bèo.” Biền bãi lầy ở ven sông rạch, nước
thì ngập.
Xoài đông ken giữa mùa,
nhiều trái. Củ co mọc hoang vùng đồng nước, có lá và cọng giống như bông súng
nhưng nhỏ hơn. Củ co nhỏ, thường chỉ bằng ngón chân cái người lớn, với vỏ ngoài
màu đen và xù xì. Khi nấu chín, củ co có vị bùi và dẻo, vị hơi đắng tương tự
như khoai môn, khoai cao. Người dân thường móc củ co để ăn độn với cơm hoặc nấu
cháo. Ca dao có câu: “Củ co, bông súng, rau tràng. Chờ đôi năm nữa cho nàng lớn
khôn. Em muốn về Mỹ Hội mà bà nội không cho. Bắt vào Đồng Tháp, ăn bông súng với
củ co thấu trời. Đói lòng đi móc củ co. Thấy em hết gạo anh cho một nồi. Rồi hỏi
anh có nhớ Bảy Ngàn. Củ co ăn với củ bàng thế cơm?”
Tui ăn dưa điên điển làm
bằng bông điên điển, màu vàng, mọc nhiều ở vùng đất bưng, chấm thịt kho, cá
kho…
Sau tháng Tư năm 1975 định
mệnh, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh từ Sài Gòn phải phiêu dạt về Cần Thơ kiếm sống.
Ông có viết bài hát “Chiếc Áo Bà Ba” nổi tiếng: “Chiếc áo bà ba trên dòng sông
thăm thẳm, thấp thoáng con xuồng bé nhỏ lướt mong manh. Nón lá đội nghiêng, tóc
dài con nước đổ. Hậu Giang ơi em vẫn đẹp ngàn đời. Nhớ chiếc xuồng xưa năm nào
trên bến cũ. Thương lắm câu hò kêu gọi khách sang sông. Áo trắng xuồng đưa mắt
cười em khẽ gọi. Người thương ơi em vẫn đợi chờ…”
“Đẹp quá quê hương hôm
nay đẹp vô ngần. Về Sóc Trăng một ngày, nghe ca điệu lâm thôn. Đàn én chao
nghiêng, xôn xao mùa lúa chín. Về bến Ninh Kiều, thấy nàng đợi người yêu…”
(Mấy câu này, ông Nhật
Trường hô khẩu hiệu của VC. Hô xong, ông tìm cách vọt qua Mỹ mất tiêu luôn. Tôi
bèn bắt chước nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, một đi không trở lại.)
Bài “Chiếc áo bà ba” của
ông làm tôi nhớ điệu lâm thôn, còn được gọi là múa Rom Vong, của người Khmer ở
Kế Sách, Sóc Trăng. Người con gái Khmer tôi yêu, mặc “sarong,” một mảnh vải
dài, thường có hoa văn và màu sắc sặc sỡ, được quấn quanh cơ thể từ eo xuống
chân. Em dắt tôi đi theo vòng tròn. Những động tác của em uyển chuyển và nhịp
nhàng, trong khi hai tay tôi cứng ngắc như hai khúc củi. Tôi quơ quơ đuổi muỗi,
làm em cười khanh khách.
Rồi VC, Cái Văn Quạ, tức
Năm Quạ, từ bưng biền lội ra; Hai Tịch từ xã Kế An đi cẳng không, vì nhỏ lớn
chưa hề mang giày hay dép lội vào chợ Kế Sách. Sự ngu dốt của chúng biến tình
tôi thành tình mộng. Vì thời cuộc, tôi xa em từ độ ấy.
Quê người, tôi vẫn nhớ quê mình. Tôi nhớ Sóc Trăng, nhớ Kế Sách, nhớ em yêu còn kẹt lại bên kia biển, bên kia trời lận đận. Em ơi, anh yêu em lắm: (oun aoy, bong srolanh oun nas). Em ơi, anh nhớ em lắm: (oun aoy, bong neuk oun nas). Quê người nghĩ xót thân lưu lạc! “Mè ơi!” Má ơi! Hu hu!
Đoàn Xuân Thu
👍
ReplyDelete