…”Bạn ơi nếu tôi có một điều ước, tôi ước mong cho ngày nào trời đất phong quang, chúng ta được trở về đất nước Việt Nam yêu dấu, muốn đi đâu thì đi. Tôi sẽ đi tới những trại tù năm cũ, thăm lại người xưa, thăm lại các bạn tù chúng ta còn nằm lại. Tôi sẽ tới trại Yên Hạ, tới quận Phù Yên hỏi xem ông cụ Việt trại trưởng năm xưa còn sống hay không? Nếu gặp được ông cụ tôi sẽ nầm lấy tay mà nói “Tôi là là cựu tù nhân Yên Hạ đây, cụ còn nhớ tôi không, thưa cụ?”… Một mai qua cơn mê, xa cuộc đời bềnh bồng, tôi lại về bên em…- Trần Trịnh- Nhật Ngân.Tôi vừa nhận thư từ Seattle, Mỹ gửi sang. Không phải những người bạn thân quen của tôi mà nhìn tên người gửi thấy đề T. Nguyen lạ hoắc. Sang xứ sở văn minh thực dụng này, tên tuổi lộn đầu lộn đuôi mà chữ viết cũng ít khi dùng đến nên tôi cầm lá thư mà chưa nhớ ra ai. Mỗi người sinh ra trên trái đất này đều có một nhân dáng riêng, cũng như có một nét chữ riêng, có ai giống ai đâu? Bây giờ bỏ cái riêng tư ấy đi, dùng toàn chữ in sẵn trong computer – tiện lợi thì có tiện lợi thật nhưng cầm cái thư tôi thấy nó lạnh lùng, khô khốc… Bề ngoài bao thơ không cho tôi một tín hiệu tình cảm nào, tôi hờ hững mở thư. Nhưng vừa đọc, tôi đã vô vàn cảm xúc: “Anh P. ơi, chắc anh không nhớ được em đâu, nhưng em nhớ anh hoài, em nhớ “ông già chăn ngựa”. Em là “La Sơn Phu Tử” đây.” Những cụm từ “ông già chăn ngựa ” và “La Sơn Phu Tử” đã như chiếc chìa khóa mở ra một quãng đời tù tưởng đã nhạt nhòa trong ký ức…
Dạo
ấy là cuối năm 1977, chúng tôi vừa từ giã trại tù quân quản Liên trại 2 để đến
một nhà tù chính thức Yên Hạ – Sơn La thuộc Công an – Bộ Nội vụ. Cùng là đi cải
tạo nhưng bên trong có chia ra nhiều loại. Loại cải tạo trong Nam tương đối nhẹ
nhàng hơn, ngắn hạn hơn. Tù nặng, tù lâu là ra Bắc. Những năm đầu ra Bắc, tù
đặt dưới quyền quân quản, tức là do bộ đội quản lý. Sau chừng từ 2 đến 3 năm tù
được chuyển dần từ trại “trâu xanh” (bộ đội) sang trại “bò vàng” (công an). Ở
trại tù chính thức của Bộ Nội vụ như trại Yên Hạ này chúng tôi được gặp những
bạn tù anh em ta bị bắt từ hồi Mậu Thân (1968) cũng như một số anh em khác, tù
binh từ trận Hạ Lào (1971). Những trại tù này thường là trại hỗn hợp vừa có tù
chính trị (như tụi tôi) vừa có tù hình sự. Bên hình sự có thiếu gì những người
tù bị hình án nặng nề từ 20 năm đến chung thân ở đây.Đến trại Yên Hạ này, tôi
được gặp Trung tá Kh., dân Tiếp vận bị bắt hồi Mậu Thân khi về Huế ăn Tết thăm
gia đình. Anh còn sống sót không nằm trong nấm mồ tập thể mấy nghìn người, kể
ra cũng phải tạ ơn Trời Phật. Cho đến lúc này thì Kh. đã có thâm niên 9 năm tù,
kinh nghíệm hơn tụi tôi nhiều lắm (mới có trên 2 năm). Khi được hỏi về sự khác
nhau, giống nhau giữa 2 trại trâu xanh và bò vàng Kh nói: “Một bên là dao
găm, một bên là thuốc độc, không biết bên nào êm ái hơn bên nào”. Ngừng một lát
Kh. Nói tiếp: “Tuy nhiên, qua các trại miền Bắc tôi thấy cuộc sống tù đày tùy
thuộc khá nhiều vào trại trưởng. Mới chuyển sang trại bò vàng Công an mà các
bạn được về đây là khá đấy. Ông cụ Việt, trại trưởng trại này là một biệt lệ
trong các cai tù… Rồi các bạn sẽ thấy”.
Chúng tôi nhận ra biệt lệ
này ngay trong lần đầu tiên lên hội trường nghe “huấn thị”. Trại trưởng trại
Yên Hạ, cấp bậc Trung tá Công an, thường được gọi thân mật là cụ Việt, là một
ông già tóc bạc, tuổi trên dưới 60, dáng vẻ trầm tư, phát ngôn mực thước. ông
nói “Chúng tôi được trên giao nhiệm vụ quản lý các ông, cải tạo viên chính
trị. Phạm nhân chính trị có quy chế riêng. Trại sẽ áp dụng đúng quy chế ấy đối
với các ông. Tôi mong các ông chấp hành nội qui nghiêm chỉnh để trại chúng tôi
thực hiện tốt mục đích trên giao mà các ông cũng tạo được kết quả bước đầu
trong học tập cải tạo”.
Khác với cán bộ CS thường
thay, trại trưởng Yên Hạ nói ngay vào vấn đề, ngắn gọn, cụ thể – không lèm bèm
chửi mắng mà cũng không lý thuyết chính trị rẻ tiền. Nhưng điều đặc biệt là tù
nhân chúng tôi chưa bao giờ nghe thấy ở đâu là ông cụ Việt này gọi chúng tôi là
“các ông”. Sau tháng 4 đen 75, chúng tôi tự biết mình đang đi xuống nấc thang
thứ bét của xã hội, thuộc vào giai cấp bị triệt tiêu, chưa bị hành hạ, bắn giết
lúc nào là may lúc ấy. Có bao giờ chúng tôi nghĩ rằng mình lại được gọi là “các
ông” như thế. Tìm hiểu về người trại trưởng, tôi lại phải hỏi Kh. , người tù
thâm niên ở đây. Được tiếp xúc với trại trưởng nhiều lần, nên Kh. dường như
hiểu biết khá rõ về ông cụ Việt. Kh. nói: ông ta là người có văn hóa, nói tiếng
Pháp khá hay, nguyên là trưởng xa (chef train) của Sở Hỏa xa thời Pháp. ông ta
hình như có tham gia hội kín, hội hở trước 1940 và sau mới chuyển theo Cách
mạng. Vì “quá trình” như thế nên bây giờ gần tuổi về hưu rồi mà cấp bậc vẫn lẹt
đẹt trung tá. Xem như tên trại phó Đặng U. dân răng đen mã tấu chính tông mới
chưa đến 40 mà đã thiếu tá Công an rồi. Nó bóp còi qua mặt ông ta mấy hồi…”
Đây là trại tù chính thức
của Công an miền Bắc, và tôi nhận ra rằng những trại tù sau này mà tôi sẽ đi
qua đều có một kiến trúc tương tự. Tường đá bao quanh cao chừng 4m (ở đây Sơn
La “lưới núi” nên xây tường bằng đá hộc), ở trên có chăng thêm 3 tầng dây thép
gai chằng chịt. 4 góc có 4 chòi canh, công an bò vàng gác suốt ngày đêm, đầu
giờ, cuối giờ kẻng đánh lia chia, gắt gỏng. Ngay bên cạnh cổng giữa đi vào là
văn phòng trực trại, nhìn vào một cái sân rộng gọi là sân “tập kết” nơi tù các
đội tập họp đợi giờ xuất trại đi làm. Cuối sân tập kết là Nhà Văn Hóa hay Hội
trường, vừa là nơi hội họp, học tập toàn trại vừa là nơi trình diễn văn nghệ.
Dọc hai bên sân tập kết là 2 khu nhà. Gọi là khu A và khu B. Mỗi khu lại chia
ra nhiều lô nhỏ có tường bao quanh. Mỗi lô có một nhà tù dài chia ra làm 2 lán.
Mỗi lán chứa 2 đội tù, từ 70 đến 100 người, tùy theo nhân số lúc vắng lúc đông.
Chúng tôi đến trại Yên Hạ này đầu mùa rét tháng 11 năm 1977 lúc tù rầm rộ kéo
về mỗi người tù chỉ có được chừng 50cm vừa ăn vừa nằm chật cứng. Khu A là khu
dành cho chúng tôi, tù chính trị, khu B đối diện là khu hình sự. Theo quy định
nhà tù, lô này không được sang lô kia, nếu không có phép của trực trại, và khu
này với khu kia thì tuyệt đối cấm không được lai vãng.
Một buổi trưa, chúng tôi
vừa tạm thu xếp chỗ nằm xong chợt có tiếng la giật giọng từ bên khu B đối diện
vọng sang: “Chết tôi rồi, cứu tôi với. ôi cụ Việt ơi!” Từ một lô nhà khu hình
sự một người tù đang cố sức chạy ra sân tập kết. Nhưng anh ta chạy không được
vì một cán bộ Công an bò vàng đang nắm tóc người tù kéo giật xuống mà lên gối.
Tiếng kêu cứu của người tù tắc nghẽn giữa những tiếng hự hự liên tiếp. Người
cán bộ này ra đòn rất gọn rõ ra có nghề . Người tù rũ xuống như một đống giẻ
rách mà cán bộ chưa tha. Còn “sút” thêm mấy quả vào lưng vào bụng. Chợt có
tiếng ông cụ Việt từ một căn nhà gác ở bên ngoài cổng trại (ở dưới là văn phòng
trại trưởng, ở trên là nơi ở) nói vọng vào: “Cái gì thế?” Có tiếng trại trưởng
là cán bộ mới từ từ bỏ đi… Tù bên khu B mới ra cõng người tù hình sự vào nhà,
hình như đã ngất đi, trào máu họng.
Vừa mới sang nhà tù Công
an mà chúng tôi đã được “dàn chào” như vậy nên rét quá. Lại phải đi hỏi Kh. bạn
tù thâm niên. Kh. nói “Tù hình sự ở đây nó khiếp lắm. “Đầu gấư’ cả đấy. Hở ra
là nó giết nhau ngay. Cho nên cán bộ an ninh kiêm chấp pháp chuẩn úy Trần M.
mới dữ như vậy. Nhưng trại trưởng ông cụ Việt thì ông ta không cho phép đánh
tù. Có mặt ông là không được phép. Nhưng mà sau lưng ông là nó đánh ra gì. Đánh
chết bỏ. Vài bữa nữa đi làm các bạn đi về phía Mường Thải, thấy có cái nghĩa
địa mả cũ mả mới lô nhô, đó là chỗ tù theo nhau ra nằm ở đấy” – “Tù chính trị
cũng vậy à”. – “Cũng nằm một chỗ nhưng có khác. Mả tù chính trị thì hơn được
cái bia, hoặc là bằng đá hoặc là bằng gỗ. Còn mả hình sự thì vùi nông một nấm,
coi như xong.”
Vài nấm mộ từ cải tạo)
Sau vụ dàn chào ghê rợn, một số anh em tù cải tạo
thầm thì to nhỏ với nhau rằng: “Trại trưởng ông cụ Việt đóng vai ông Thiện, phó
trưởng trại Đặng U. với cán bộ giáo dục (tức chính trị viên của trại) Nguyễn
Hồng L., và cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. đóng vai ông Ác. Đó là trò
vừa đấm vừa xoa thường thấy.” Nhưng ở lâu hơn, tôi thấy hai khuynh hướng này
đối chọi nhau rõ rệt, không phải chỉ là sách lược đối phó nhất thời.
Đã gần hết năm, một buổi
họp bàn về tổ chức vui Tết năm Ngọ (1978) được cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L.
chủ trì. Anh cán bộ mặt gà mái này tuyên bố: “Các anh sống một cuộc sống tay
sai, trước là cho Pháp sau là cho Mỹ nên các anh thiếu văn hóa, hay là không có
văn hóa. Bây giờ đi cải tạo, Cách mạng phải hướng dẫn các anh, dạy dỗ các anh
sống có văn hóa. Trong dịp Tết này, trại dành cho các anh một nửa chương trình,
một nửa cho khu A, một nửa cho khu B. Các anh hãy rán theo đường lối của Cách
mạng mà sửa soạn một chương trình văn nghệ, để xem các anh có mở mắt ra được
chút nào không?”
Còn ông trại trưởng ông cụ
Việt, khi gặp ban Văn nghệ chúng tôi được triệu tập lo chương trình Tết thì ông
cụ lại nhỏ nhẹ nói rằng: “Tết là một ngày lễ truyền thống của dân tộc. Các ông
là người có học. Tôi hy vọng các ông sẽ đóng góp được một chương trình văn nghệ
có ý nghĩa”. Cách ăn nói, thái độ khi tiếp xúc với chúng tôi của ông cụ Việt
trại trưởng nó ôn tồn, thoải mái, không có vẻ nghiến răng căm thù như thường
thấy nơi cán bộ CS. Phải chăng nguồn gốc xuất thân của ông đã khiến ông có một
niềm thông cảm tự nhiên đối với chúng tôi, những người tiểu tư sản thua quân
mất đất. Năm ấy chủ trương đấu tranh giai cấp còn rất mạnh; ở miền Nam đang vào
cao điểm đánh tư sản, mại bản nên dân “Ngụy” chúng tôi từ trong tù cho đến
ngoài xã hội được coi như một lũ “cùi” không ai dám đến gần. Đúng theo quy
luật, chúng tôi là giai cấp bị triệt tiêu. Có những người bạn tù, có anh em
ruột thịt làm lớn ở ngoài Bắc.
Những nhà CM ấy đã vào Nam
nhận họ, nhận “hàng”, nhận tiền, nhận bạc để khi ra Bắc, nhờ mang một số quà đi
thăm người thân cải tạo. Nhưng dù là anh em ruột thịt, cùng mẹ cùng cha nhưng
phần lớn các nhà CM ấy quên luôn, không dám đi thăm. Dính líu với ngụy quân
ngụy quyền là phản động. “Thời kỳ phát động chiến dịch, bố tôi bị đi cải
tạo là tôi cũng phải quên bố tôi luôn nếu tôi muốn có sổ gạo, có bát cơm mà ăn,
huống hồ là anh em họ hàng”, một người tù hình sự đã nói với tôi như vậy. Thế
mà ở đây đang mùa đánh tư sản mại bản, ông cụ Việt chánh giám thị trại tù lại
gọi chúng tôi là “các ông”. Tôi chưa gặp ở đâu, cai tù CS lại gọi đối xử với tù
nhân như vậy… Trại triệu tập ban Văn nghệ tù chính trị bằng hai cách. Theo
nghề nghiệp trước đây ghi trong hồ sơ và tin tức nhận được về những người tù có
khả năng văn nghệ. Một người bạn của tôi được gọi ra thành lập ban kịch. Đó là
bạn Nguyễn Văn Th. nguyên đạo diễn điện ảnh và sân khấu. Anh cũng là người được
giải thưởng văn chương toàn quốc thời Đệ nhất Cộng hòa… cùng với nhà văn Nguyễn
Mạnh Côn. Th. già là bạn cùng khóa 2 Thủ Đức và cùng ngành Chiến tranh Chính
trị với tôi nên một bữa Th. tìm gặp tôi và nói: “Cán bộ chính trị nó chửi mình
nặng như thế thì dù là tù đi nữa, mình cũng phải làm cái gì chứ ông”. Nể lời
bạn nên tôi cũng vào ban văn nghệ với một nhiệm vụ khiêm nhượng “phụ tá khói
lửa”. Ở miền Bắc, kịch cũng như điện ảnh bao nhiêu năm qua đều sống với đề tài
chiến tranh nên tổ chức nào cũng phải có người lo về khói lửa tức là vấn đề kỹ
xảo về súng bắn, mìn nổ, lửa cháy, v.v… Nhưng nhiệm vụ khởi đầu của tôi chỉ là
đem đến ban kịch một cái nùi rơm và cái điếu cày để anh em giải lao hút thuốc.
Ngẫm ra rất đúng với nhiệm vụ được giao: có khói và có lửa.
Nguyễn Văn Th. được lệnh
viết một cái kịch ngắn cho anh em trình diễn. Nhưng mà bạn tôi kẹt, viết mãi
không ra. Một bữa tôi mới nói với Th.: “Mình “sức voi” mà đi viết kịch. Tư
tưởng mình khác, tư tưởng của họ khác. Đầu óc họ luôn luôn căm thù, nghi kỵ, không
khéo rồi bút sa gà chết. Tại sao mình không lấy kịch của họ mà “chơi?” – “Nhưng
mà kịch của họ, nó chỉ chửi bố mình không làm sao mà diễn”, Th. đủng đỉnh trả
lời như vậy.
Khi mới về trại, tôi có
thời gian lo liên lạc mượn một số sách, báo cho anh em, nên tôi biết thư viện
trại có một số kịch bản. Trong trường kịch Quang Trung của Trúc Đường có một
màn có thể tách ra diễn được. Tôi ngỏ ý với Th. già: “Màn Lửa Kinh Thành trong
kịch Quang Trung này viết khá. Nếu chơi màn kịch này, mình có 2 điều lợi. Thứ
nhất mình không mất công viết, kịch của họ, tác giả của họ mình khỏi lo về phần
tư tưởng. Thứ hai kịch lịch sử nên anh em ta không có mặc cảm khi tập và khi
diễn. Như thế may ra mới có “chút lửa” cho anh em”. Tôi đưa kịch bản Lửa Kinh
Thành cho Th. đọc và bạn tôi đồng ý; sau đó kịch được đưa lên ban Giáo dục
duyệt. Trong khi đó bộ phận nhạc do một số anh em ngành Tâm lý chiến đảm trách
lo hát đồng ca, tốp ca, đơn ca và độc tấu tây ban cầm. Anh em bên nhạc cũng
đồng ý chọn trình bày những bài ca ít sắt máu, ít căm thù mà vẫn bàng bạc một
tấm lòng yêu quê hương xứ sở. Chương trình tổng quát được chuẩn y, gồm 30 phút
ca nhạc, một giờ kịch, anh em bắt đầu vào tập dượt.
Chúng tôi tập ở trên Hội
trường, anh em hình sự tập trong một căn nhà khu B. Chúng tôi được biết anh em
hình sự được nghỉ lao động ăn tập trước chúng tôi 2 tuần theo một chương trình
đã được công diễn từ những năm trước, nay chỉ ôn luyện lại cho thuần thục. Nửa
buổi, khi chúng tôi đang uống nước cầm hơi thì anh em văn nghệ hình sự xuống
nhà bếp đem về một rổ khoai lang “bồi dưỡng”. Theo như chúng tôi cảm nhận, ban
Giáo dục trại đang dốc hết tâm lực để phần trình diễn của anh em hình sự nhuần
nhuyễn, vượt trội hơn phần văn nghệ của tù chính trị, nhằm “dạy cho tụi ngụy
một bài học về văn hóa”.
Anh em trong ban Văn nghệ
khu A tuy không nói ra nhưng cảm thấy có trách nhiệm trong trò chơi văn nghệ
của mình. Đói thì đói nhưng anh em tập dượt hết mình.
Còn gần một tháng nữa mới
đến Tết nhưng không khí thi đua văn nghệ giữa 2 khu A, B đã lan truyền khắp
trại. Anh em khu A đi làm ngoài, có bữa kiếm được củ khoai, miếng sắn lại dấm
dúi đem cho. Chúng tôi hiểu được sự chăm lo, kỳ vọng của anh em. Cuộc chiến
tranh quân sự tàn rồi, cuộc chiến tranh văn hóa còn đang tiếp diễn.
Một hôm đang nửa buổi,
trại trưởng ông cụ Việt vào hội trường dự khán anh em chúng tôi tập dượt. Thấy
gần trưa rồi mà ban Văn nghệ khu A vẫn xuông tình, ông cụ hỏi: “Anh em không
nghỉ ăn bồi dưỡng hay sao?” Mấy người có trách nhiệm mới trình bày với trại
trưởng là chúng tôi vẫn tập “xuông” không có “bồi dưỡng”. Ông cụ Việt liền cho
gọi thi đua (mấy anh tù được cất nhắc lên làm chân chạy việc cho ban giám thị)
lên chỉ thị: “Cung cấp ngay chế độ bồi dưỡng hằng ngày cho đội văn nghệ khu A”.
Ông cụ còn dặn thêm: “lệnh trại trưởng cấp thêm cho mỗi đội văn nghệ của A lẫn
B mỗi ngày một gói trà. Anh em tập dượt ca, kịch cần thấm giọng”. Thế là hàng
ngày, “phụ tá khói lửa” là tôi lại thêm việc đun nước pha trà cho anh em nhấm
nháp.
Đi vào thực hiện kịch lịch
sử đối với chúng tôi, nó có ưu điểm nhưng cùng một lúc nó kéo theo nhiều điều
phức tạp. Thứ nhất tập dượt cầu kỳ. Người “ngày xưa” ăn nói cử chỉ khác người
ngày nay. Một ông quan văn với một ông quan võ chào hỏi, vuốt râu nó khác nhau,
không giống nhau. Cách phát âm hay nói theo giọng nhà nghề “đài từ” của kịch
lịch sử khác với kịch thời đại. Hơn nữa trang trí sân khấu, cách phục sức cho
nhân vật kịch “ngày xưa” nó đòi hỏi nhiều nghiên cứu, nhiều phụ tùng hơn kịch
“bây giờ”, cái kho đạo cụ của trại không thỏa mãn được. Vào việc đạo diễn Th.
già bấn xúc xích về việc dàn cảnh, về đạo cụ nên bạn già yêu cầu tôi lo giúp về
phần tập luyện.
Bạn Th. già biết dạo xưa
tôi có sinh hoạt trong Sông Hồng Kịch Xã ở Hà Nội trước khi động viên vào quân
đội, trong khi đó Th. già viết cho báo Giang Sơn. Chúng tôi biết nhau từ ngày
ấy. Vả chăng tôi vốn sinh trưởng ở nhà quê mà làng tôi vốn là đất chèo, có một
phường chèo thường trực ở trong làng nên tự nhiên tôi quen thuộc với một số ước
lệ của tuồng, chèo cổ. Những năm đi kháng chiến ngoài bưng, tôi đi theo một
đoàn Tuyên truyền xung phong nên tôi cũng tàm tạm có một số kinh nghiệm về sân
khấu. Cho nên nhận lời bạn già, tôi đang là “phụ tá khói lửa” lại thêm một chức
vụ nữa “phụ tá đạo diễn”.
Không gian kịch là tư dinh
Đinh Đề Lĩnh, viên quan trấn thủ kinh thành Đông Đô (Thăng Long – Hà Nội). Thời
gian là đêm mồng 4 tháng Giêng năm Kỷ Dậu đêm trước của toàn quân vua Quang
Trung đại phá quân Thanh. Vở kịch đòi hỏi 5 vai quan trọng: Đinh Đề Lĩnh, trấn
thủ Thăng Long; thất vọng trước sự yếu hèn của hôn quân Lê Chiêu Thống, căm hận
trước sự tham tàn bạo ngược của quân tướng nhà Thanh nên phút cuối cùng Đinh Để
Lĩnh nghe theo lời khuyến dụ của La Sơn Phu Tử, đặc sứ của vua Quang Trung
Nguyễn Huệ, mở cửa thành, đốt kho lương thảo khi nghĩa quân tấn công. Vai chính
Đinh Đề Linh do Nguyễn Huy T., đại úy đài Tự Do cục Tâm lý chiến đảm trách. T.
là một con người tài hoa, hát hay, nhảy giỏi, dáng người cao mà thanh, vừa văn
vừa võ, đã nhập vai Đinh Để Linh rất đẹp. Anh chơi kịch từ thời sinh viên nên
có đủ bản lĩnh trên sân khấu vừa say mê vừa tỉnh táo.
Vai La Sơn Phu Tử do
Nguyễn T. cũng đại úy bên Tổng cục Chiến tranh Chính trị (người ở Seattle vừa
viết thư cho tôi) nhận lãnh. Nguyễn T. vốn là em một người bạn tôi, nên tôi
biết T. từ khi chưa bị động viên vào quân đội. T. đi Hướng đạo nên quen thuộc với
sân khấu. T. không dám tin ở tài sức của mình nhưng tôi khuyến khích T. nhận
vai La Sơn Phu Tử. T. vốn người Thanh Hóa, nói được giọng già, dáng người văn
nhã mà cứng cỏi, lại chuyển sang gíọng Nghệ An – Hà Tĩnh rất ngọt nên có đầy đủ
dáng vẻ của một mưu sĩ “đàng trong”. Một vai phản diện rất gay là vai tướng nhà
Thanh, nói tiếng Việt ngọng líu ngọng lo mà tham dâm hiếu sắc do Trung tá Lê
Văn Hóa, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn văn nghệ Quân đoàn 4 phụ trách. Anh là
người tràn đầy kinh nghiệm sân khấu lại thêm là “vua cười” của đội, luôn mồm
hát, no cũng hát, đói cũng hát “Ngộ bên Tàu à… ngộ mới sang – sang Nam Việt bán
buôn làm giàu…” nên vai tướng Tàu như là vai viết riêng cho anh vậy.
(trong trại tù)
No comments:
Post a Comment