Sunday, April 20, 2025

Trại Tập Trung Ở Việt Nam: Vết Thương Không Bao Giờ Lành - Đỗ Văn Phúc (Song Ngữ)


Sau khi chiếm được miền Nam vào tháng Tư năm 1975, Cộng Sản đã lập tức tiến hành nhiều biện pháp để củng cố quyền lực. Một trong những biện pháp đó là đề ra chính sách cải tạo để lừa gạt và luà vào các trại khổ sai hàng trăm ngàn cựu quân nhân, viên chức chế độ cũ ở miền Nam cũng như những nhà trí thức, tu sĩ các tôn giáo, những người giàu có và ngay cả những đảng viên Cộng Sản mà họ không còn tin cẩn. Những thành phần nói trên chịu đựng nhiều năm dài và đã có hàng chục ngàn người bị chết do hành quyết, tra tấn, đói khát, chịu nhiều thứ bệnh hiểm nghèo, và điều kiện sinh hoạt tồi tệ. Ngay cả gia đình họ cũng bị ngược đãi, cắt đứt các nguồn sống. Nhà cầm quyền Cộng Sản tuyên bố rằng các trại này là để thay đổi những người chế độ cũ qua sự lao động và giáo dục chính trị. Trong thực tế, các trại này là những nhà tù lao động khổ sai để giam giữ những người đối kháng cũ trong một thời gian dài thay vì tàn sát họ như các dư luận quốc tế tùng dự liệu về một cuộc tắm máu vĩ đại sau chiến tranh. 

 

Ngày nay, đã tròn 50 năm qua; nhưng vết thương do những tội ác mà người Cộng Sản gây ra vẫn chưa hề được hàn gắn trong số những nạn nhân và gia đình họ. Người Cộng Sản không chịu nhìn nhận tội ác của họ đã gây ra trong những năm dài kinh hoàng đó; họ cũng làm ngơ không tiết lộ những chi tiết về các trại khổ sai và con số người đã chết trong vòng lao lý. Trong khi vẫn hô hào kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc, họ vẫn cứ tiếp tục gieo thêm những hạt giống thù hận đối với chế độ cũ ở miền Nam bằng cách viết lại trang lịch sử chiến tranh theo cách nhìn đầy thiên vị của họ.

 

Với kinh nghiệm của một nạn nhân từng bị tù đày trong gần mười năm trong các trại khổ sai, tôi sẽ trình bày những điều tôi trải qua, biết được để nói lên sự thật cho nó không bị thế giới lãng quên mà còn phải cùng hợp tác để tránh nó xảy ra trong tương lai.

 

Sự Lừa Gạt Vĩ Đại

Từ tháng Năm cho đến tháng Bảy năm 1975, Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn, nhân danh Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, tổ chức những lớp học ba ngày dành cho các hạ sĩ quan và binh sĩ quân đội miền Nam. Sau đó, họ triệu tập các sĩ quan với chương trình hứa hẹn trong 15 ngày dành cho cấp úy, và 30 ngày dành cho cấp tá và cấp tướng. Đến tháng 8, họ bủa một mẻ lưới cuối cùng kêu gọi tất cả những cựu quân nhân đi trình diện để theo học những lớp kéo dài trong bảy ngày.

Trong các thông cáo, họ ghi như sau (xem ảnh):

(1) Sĩ quan (ngụy) cấp đại uý, thiếu tá, trung tá đã được về hưu hoặc giải ngũ; sĩ quan ngụy) cấp đại úy đến đại tá đã được hoãn học tập trong các đợt tập trung cải tạo từ trước đến nay:

Đúng bảy giờ ngày 20 tháng 8, 1975 phải có mặt tại trường Don Bosco, số 12 đường Trương Vĩnh Ký, Gò Vấp để học tập trong thời hạn bảy ngày.

(2) Nhũng người đến tập trung phải mang theo giấy bút, quần áo, chăn màn, các đồ dùng cá nhân và lương thực, thực phẩm (tiền và hiện vật) đủ dùng trong bảy ngày kể từ ngày tập trung (ngày đầu mang lương khô ăn; ngày thứ hai trở đi do nhà thầu cung cấp.

Ở tất cả các tỉnh thành khác, cũng có thông cáo tương tự.

Những người lính miền Nam hời hợt tưởng rằng chế độ mới sẽ hàn gắn và cho họ sớm trở lại đời sống mới trong một đất nước thanh bình. Họ tin rằng Cộng Sản sẽ giữ lời hứa! Than ôi, tất cả nạn nhân đã bị lừa gạt để phải trải qua nhiều năm khổ nhọc trong các trại tập trung.

Trừ môt số nhỏ những người có thân nhân là đảng viên cao cấp của đảng Cộng Sản, những người khác đều chịu tối thiểu là ba năm cho đến hàng chục năm tù. Câu nói thường nghe từ miệng các cán bộ trại tù là: “Các anh sẽ được cải tạo để trở thành con người mới qua giáo dục, lao động, chấp hành nội quy. Khi nào chứng tỏ sự tiến bộ, các anh sẽ được trả về với gia đình để cùng xây dựng cuộc sống mới hạnh phúc.


Vào giữa năm 1976, Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam công bố chính sách 12 điểm trong đó ấn định thời gian cải tạo là ba năm. Đến năm 1978, khi tù nhân thắc mắc về kỳ hạn đã đến, các cán bộ tại trại cải tạo lại giải thích rằng ba năm chỉ là một cái mốc để trại viên phấn đấu; và những ai không chứng tỏ sự tiến bộ sẽ bị giữ thêm nhiều mốc nữa,

Ước lượng có hơn một triệu người miền Nam bị giam giữ trong các trại cải tạo ngắn hạn; hai trăm ngàn người bị giữ ít nhất là một năm cho đến vài chục năm. Tháng 5 năm 1976, báo Nhân Dân đăng lời dối trá của Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Đồng khi trả lời phóng viên quốc tế rằng “hiện chỉ còn vài ngàn trong trại cải tạo; là những kẻ ăn gan uống máu theo nghĩa đen”. Trong khi vào năm 1988, Bộ Thông Tin Cộng Sản xác nhận có khoảng một trăm ngàn quân nhân và viên chức chính quyền miền Nam bị giam giữ trong các trại tập trung. Như thế, họ đã lừa gạt nạn nhân tham dự các lớp cải tạo trong vài tuần và hậu quả là giam giữ người ta trong nhiều năm dài lao động khổ sai.

Mục Đích của các Trại Tập Trung Cải Tạo

Mặc dù chính quyền miền Nam đã đầu hàng và đất nước đã thống nhất về một mối, chính quyền Cộng Sản vẫn coi người miền Nam là kẻ thù mà sẽ không dễ gì chấp nhận chế độ của họ. Hơn nữa, sau hơn hai mươi năm chiến tranh, mối thù hận đã bị cấy sâu vào tâm tư họ. Họ vẫn còn lo sợ những người miền Nam sẽ lập nên những lực lượng chống đối gây nguy hiểm cho họ.

Cộng Sản đã kết án người lính miền Nam tội danh phản bội tổ quốc và là mối nguy cho nền nội an. Họ không đưa những nạn nhân này ra toà án để xét xử mà nại lý do rằng chính sách “cải tạo” là nhân đạo, khoan dung hơn là việc xét xử ở tòa.

Đối với người Cộng Sản - từ Liên Sô, Trung Hoa cho đến Việt Nam - chính sách “cải tạo” là biện pháp thuận lợi nhất để loại bỏ kẻ thù, ít nhất là làm tê liệt sinh lực và ý chí của họ; cô lập họ khỏi dân chúng và vừa tận dụng sức lao động của họ. Đó cũng là ngón đòn trừng trị kẻ thù vừa răn đe những ai manh nha chống đối trong tương lai. Tựu trung, họ vẫn lo ngại những quân nhân miền Nam vẫn còn nhiều ảnh hưởng trong quần chúng.

Các Trại Cải Tạo

Có hàng trăm trại tập trung được dựng lên ở khắp nước, từ Nam ra Bắc. Một vài nơi dùng các doanh trại cũ của quân đội miền Nam, còn lại đa số là các trại mới dựng lên ở các vùng hoang vu bao quanh bởi rừng núi hay giữa lòng thung lũng.

Tôi đã bị giam giữ trong chín năm chín tháng qua nhiều trại khác nhau, mà cuối cùng là trại A-20 Xuân Phước ở Tỉnh Phú Yên. Đây là nơi giam giữ những tù nhân thuộc thành phần mà Cộng Sản đánh giá là cứng đầu và nguy hiểm. Những tù loại hình sự là những người bị án chung thân hay tử hình đang chờ ngày hành quyết. Trại A-20 nằm lọt giữa lòng thung lũng Kỳ Lộ, bao quanh bởi ba dãy núi; là nơi mà trong cuốn Hồi Ký 26 Năm Lưu Đày, Thượng Tọa Thiện Minh mô tả là “Thung Lũng Tử Thần.” Trong suốt lịch sử của trại, chưa hề có tù nhân nào trốn trại mà không bị bắn chết hay bị bắt trở lại. Trong chiến tranh, đây là lãnh thổ Liên Khu Bốn, cái nôi của kháng chiến Cộng Sản. Vùng này phải cậy vào Quân Đội Nam Hàn để bình định nhờ các chiến thuật cứng rắn của họ.

Trong ngày đầu tiên đến trại, chúng tôi đã nghe lời đe dọa của trại trưởng Thân Như Yên: “Các anh sẽ ở đây cho đến mục xương!” 

Trại A-20 có năm phân trại là A, B, C, D, và E. Hai phân trại A và E ở cạnh nhau, gần cơ quan hành chánh của trại. Các trại khác ở xa hơn, mỗi trại cách nhau vài cây số. Chung quanh khu vực trại là những xóm nhà tí hon, mái lá, vách đất của nông dân nghèo. Họ là những người tuyệt đối trung thành với Cộng Sản.

Ở phân trại E của chúng tôi, có bốn dãy nhà gạch được ngăn cách nhau bằng các hàng rào kẽm gai. Mỗi nhà chứa bốn hay năm đội; mỗi đội có 30 người. Trên cái nền bằng xi măng (ở tầng dưới) và bằng gỗ thô (tầng trên), chúng tôi chia nhau mỗi người một bề ngang chừng hơn bốn tấc; khi ngủ phải nằm nghiêng, hay quay ngược đầu với hai người bên cạnh. Chừng sáu giờ chiều, sau khi phát phần ăn, tù nhân bị lùa vào bên trong. Các căn nhà được khoá lại. Mỗi tối, tù nhân phải trải qua chừng hai giờ để tự  kiểm điểm, phê bình bản thân và phê bình những người cùng đội sau một ngày làm việc để đánh giá ai làm giỏi, ai trây luời, ai có những câu nói tiêu cực hay chống đối gây ảnh hưởng xấu đến người khác…

Điều Kiện Sinh Hoạt và Lao Động

Đời sống trong trại thật khủng khiếp. Người tù đói triền miên. Hai năm đầu dưới sự quản lý của bộ đội, thức ăn tương đối khá nhưng gạo lại rất khan hiếm. Sự khan hiếm này cũng xảy ra ngoài xã hội, không riêng trong trại tù. Bắt đầu là ăn gạo mục lấy từ các kho mà Việt Cộng cất giấu trong rừng; sau đó là những năm chỉ có hạt bo bo để ăn. Từ năm 1979 về sau, trại A-20 trồng cây khoai mì làm lương thực chỉnh. Đây là loại mì H-34 có gốc ở Ấn Độ là nơi mà người ta dùng tinh bột của nó để chế tạo các sản phẩm polyethylene. Loại mì này có hàm lượng chất độc Acid Anhydric rất cao có thể gây tử vong nếu củ mì không được ngâm trong nước và loại bỏ phần lõi và vỏ lụa.  Mỗi bữa ăn, mỗi người được phát vài lát khoai mì khô đã luộc; thỉnh thoảng cũng được lưng một chén cơm. Thức ăn thì luôn luôn là loại nước nấu từ xác mắm pha thêm muối. Rau xanh thì tù nhân trồng nhiều, nhưng chỉ được ăn khi rau đã già; rửa qua loa trong cái chảo lớn và thường là còn dính những vụn vãi phân người mà tù nhân dùng để bón rau. Chỉ vào ba ngày lễ lớn trong năm mà tù nhân có được chút thịt heo mà mỗi miếng chỉ bằng ngón tay cái, đa phần là da và xương. Một cựu sĩ quan tiểu đoàn trưởng Pháo Binh đã khai với nhân viên Di trú Mỹ rằng: “Chúng tôi chẳng có gì để ăn! Họ chỉ phát cơm mỗi tháng một lần. Những ngày khác, chỉ có các loại củ, bắp…”

 

Tại trại Hà Nam Ninh, liên tiếp trong hai năm, mỗi tuần có khoảng 15 người bị chết vì đói và các bệnh hiểm nghèo cho đến khi trại phải cho phép tù nhân được nhận lương thực và thuốc men từ gia đình gửi đến. Trong suốt những năm tù đày, chúng tôi phải săn nhặt bất cứ thứ sinh vật nào để cho vào miệng; kể cả rắn rết và côn trùng!

Tình trạng vệ sinh và y tế trong trại tù cũng rất tồi tệ! Tiêu chuẩn chữa trị cho tù nhân là ở các trạm y tế trại do một y tá hay bác sĩ cũng là tù nhân. Thuốc men thì chỉ có thuốc nam làm từ các loại lá, rễ. Không hề được cung cấp các thuốc tê, mê hay giảm đau mỗi khi cần đến nhổ răng hay mổ xẻ.  Tù nhổ răng cho bạn bằng cái đinh hay miếng sắt uốn cong làm đồ nạy. Tù nhân lao động gặp tai nạn gãy tay chân cũng chỉ được trị trong trại mà không chuyển ra bệnh xá. Ở trại Đông Giang tỉnh Khánh Hòa, có chừng 100 tù nhân chết vì kiệt sức và thiếu chữa trị. Chúng ta cần nhớ, trong xã hội Cộng Sản, mỗi tầng lớp từ dân thường lên đến đảng viên, cán bộ cấp huyện, tỉnh, trung ương đảng dều có tiêu chuẩn chữa trị khác nhau.

 

Tại Xuân Phước, chúng tôi làm việc từ tờ mờ sáng cho đến chạng vạng tối, dưới sức nắng chói chang hay trong cơn mưa lũ. Những năm đầu, tù nhân khai hoang vùng rừng núi để làm đất trồng khoai mì hay các hoa màu khác. Công việc liên tục nhất là đào các ao nuôi cá, ngay cả giao thông hào quanh trại cũng nói là để nuôi cá! Các cán bộ đi theo đội đề ra chỉ tiêu cho mỗi người phải dào hàng chục hố rộng 0.5 x 0.5 x 0.5 mét khối để đặt các khúc rễ cây khoai mì. Có trại thì tù nhân phải đào xới hàng chục mét đất mỗi ngày cho các kênh đào; có nơi phải vào rừng đẵn các khúc gỗ lớn, tre rừng đưa về trại. Chỉ tiêu này cứ tăng dần theo ngày tháng; và nếu tù nhân không đạt được thì sẽ không được phép xuống ao tắm rửa sau một ngày nhễ nhại mồ hôi trên nông trường. Ở nhiều trại tù khác, tù nhân phải đi làm trên những khu đất trước đó là bãi mìn. Họ không được cấp phát dụng cụ thích ứng để bảo vệ. Rất nhiều người bị mìn nổ mất mạng hay mất tay, chân.

Vào cuối mỗi thàng, các đội sẽ họp chọn bầu những cá nhân lao động với năm hạng: xuất sắc, giỏi, khá, trung bình, và kém cỏi. Kết quả của sự bình chọn này sẽ tiêu chuẩn khoai mì nhiều hay ít của mỗi người trong tháng kế tiếp.

Nói chung, lao động thì cực nhọc, dụng cụ thì tự làm lấy bằng bất cứ thứ gì kiếm được; và ăn uống thì kham khổ. thuốc men thì thiếu thốn. Tỷ lệ tù nhân chết khá cao. Các nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ ước tính có đến hàng chục ngàn tù nhân đã bỏ mình trong các trại cải tạo.

Tẩy Não

Trong những tháng đầu tiên và sau đó thì mỗi năm vài lần, tù nhân phải kê khai tiểu sử chi tiết từ lúc còn nhỏ cho đến tháng 4 năm 1975; bản thân và dòng họ ba đời. Công an Cộng Sản rất giỏi trong việc theo dõi, so sánh các bản khai để tìm ra những điều mà tù nhân còn che giấu hay man khai.  

Năm 1975, các trại tổ chức chương trình học kéo dài khoảng ba tháng trong đó những lớp học toàn trại gồm 10 bài căn bản; mỗi bài kéo dài một tuần vừa nghe cán bộ giảng trên hội trường, vừa tổ chức thảo luận từng nhóm và ngày cuối tuần là viết bài luận gọi là “bản thu hoạch.” Chương trình đầu tiên là để tẩy não tù nhân về nhận thức và quan điểm; làm cho họ phải thấy chế độ miền Nam là phản động, là tay sai của Mỹ nhằm xâm chiếm Việt Nam; người tù phải nhận thức chế độ miền Bắc là thật sự dân chủ, ái quốc và con đường tiến đến chủ nghĩa xã hội là chân lý. Bài viết “thu hoạch “ cuối cùng phải là một bản tổng kết mà tù nhân phải tự đánh giá mình sau khoá học là đã nhận ra mình có tội với tổ quốc, với đồng bào; phải tự nhận bản án là “tội đáng chết” và xin được hưởng khoan hồng. Tù nhân phải viết lên những câu ca ngợi tính nhân đạo độ lượng của nhà nước Cộng Sản và hứa sẽ học tập, lao động thật tích cực để được tiến bộ. Ai cũng phải viết những câu đại khái như thế. Ai cũng phải nhận mình gây ra tội ác, dù là lính chiến đấu ngoài chiến trường hay lính làm việc trong các văn phòng; dù là bác sĩ cứu người hay giáo viên chỉ lo việc giảng dạy. Phải nặn óc cho ra tội ác tưởng tượng nào đó để chứng minh đã thông hiểu các bài học do cán bộ truyền đạt. 

Các cán bộ luôn ngồi bên cạnh các nhóm thảo luận để nhắc nhở rằng có khai báo thành thật thì mới tự chứng minh tiến bộ để sớm được tha về với gia đình; không tự tìm ra tội có nghĩa là chưa thành thật, còn ngoan cố, quanh co giấu diếm; tội càng nặng thêm! Điều đau đớn nhất là qua các đợt thảo luận, với bầu không khí căng thẳng và bức bách, những người lính miền Nam không những bị cán bộ Cộng Sản bêu nhục, mà chính do bạn đồng đội, hay chính mình nói, viết ra những câu tự bôi nhọ do sự thúc ép, mớm lời của cán bộ Cộng Sản. Tuy nhiên, cũng có nhiều người khôn khéo viết và nói cách chung chung để né tránh không dùng chủ từ “tôi” hay “chúng tôi” trong những câu thú tội.


Chương trình nhồi sọ kế tiếp là vào năm sau (1976) khi chính quyền Cộng Sản đang thi hành chính sách cải tạo công thương nghiệp miền Nam theo kiểu Cộng Sản là tiến đến công hữu hoá tất cả nền kinh tế; lập các công trường, nông trường và hợp tác xã. Tù nhân trong khi học phải viết thư khuyến khích gia đình lìa bỏ thành phố đi khai hoang các vùng rừng núi để thực hiện kế hoạch “Khu Kinh Tế Mới.” Sau ngón đòn đổi tiền hai lần đã vét sách hết tài sản dân miền Nam, đây là lúc họ đuổi dân Nam ra khỏi thành thị để đưa dân miền Bắc vào chiếm ngụ.

Sau đó, các chương trình học tập giảm dần và cũng kém phần sôi nổi so với hai chương trình đầu tiên. Một điểm mỉa mai đáng nhắc đến là hàng trăm tù nhân mà trình độ thường cỡ trên trung và đại học phải ngồi xổm trên nền đất để nghe lời giảng từ các “cán bộ giáo dục” mà trình độ thì chỉ ở cấp tiểu học nói chưa tròn một câu! Những câu, những lời họ nói ra đều rập khuôn từ sách của đảng từ Nam ra Bắc, trại nào cũng một kiểu nói, một cách lý luận.

Các Hình Phạt trong Tù

Cuộc tắm máu mà dư luận quốc tế dự đoán đã không xảy ra sau chiến tranh ở Việt Nam. Tuy nhiên vẫn xảy ra những vụ giết người vô tội vạ trong các trại tập trung; nhất là các trại vùng đồng bằng Cửu Long, trại Katum, trại Suối Máu. Tù nhân thường bị bắn tại chỗ vì trốn trại; có người bị bắn tung toé óc vì khai bệnh không chịu lên hội trường nghe giảng bài. Tù nhân bị trừng trị nếu có thái độ hay lời nói biểu lộ không tin tưởng vào chế độ, vì né tránh lao động, vì vi phạm các điều trong nội qui trại. Hình phạt là bị nhốt trong các xà lim hàng tháng dài. Người tù bị cùm chặt hai gót chân vào một thanh sắt 12 li có khía ở sát vách tường. Anh ta chỉ có hai vị thế: một là nằm dài ra, hai là nửa ngồi nửa nằm. Khi vào xà lim, tù nhân chỉ có trên người bộ áo quần mỏng manh, không dép, không vớ, không nón hay khăn trùm, chăn đắp. Do đó, vào mùa đông, nhất là ở những vùng núi rừng khi cơn lạnh xuống đến gần độ âm, người tù chỉ còn cách cuốn mình lại mà run rẩy chịu đựng. Đã thế, mỗi ngày, anh ta chỉ được phát một lần thức ăn vào lúc xế trưa gồm hai muỗng cơm chan ngập thứ nước mắm mặn chát và hai muỗng nước uống. Việc giam giữ có thể kéo dài hàng tháng cho đến khi người tù chỉ còn là một bộ xương biết cử động. Bản thân tôi bị ba lần nhốt, tổng cộng gần năm tháng.

 

Khi còn ở trại Suối Máu, vào mùa hè năm 1977, chúng tôi đã bị nhốt vào một cái conex của Quân Đội Mỹ. Cùng chịu chung với tôi là hai anh bạn nữa. Ba người trong một cái thùng sắt dày bề ngang 1.5 mét, dài 2 mét kín bưng phơi giữa trời khi nhiệt độ bên ngoài lên tới 40 độ C.

Trường hợp tù nhân bị tra tấn hay đánh đập đến chết xảy ra không hiếm. Vào tháng 10 năm 1979, ở trại Vườn Đào vùng Tiền Giang, tù nhân Quách Dược Thanh đã bị tên trưởng trại Ba Minh nửa đêm dùng khăn siết cổ đến chết. Lý do: tên Minh đã không đủ lý luận tranh cãi về vấn đề chính trị với anh Thanh. Cũng ở trại này, Trung tá Nguyễn Đức Xích, cựu Tỉnh trưởng Gia Định đã bị gạt đến hàng rào kẽm gai để tên lính gác vu tội mưu trốn trại và bắn chết.  

Chấm Dứt Cải Tạo

Năm 1977, chính phủ bắt đầu thả lai rai một số nhỏ những sĩ quan cấp nhỏ có liên hệ gia đình với các cán bộ Cộng Sản. Qua sau năm 1978, họ tiếp tục thả thêm nhiều đợt những người có chuyên môn mà họ cần dùng như các bác sĩ, nha sĩ. Vào đầu thập niên 1980, mỗi năm ba lần vào các dịp lễ lớn, nhiều đợt tù nhân được tha về. Tù nhân khi về đến địa phương phải chịu sự quản chế của công an khu vực thêm một năm nữa; mỗi tuần họ phải đến văn phòng công an để khai báo những hoạt động như đi đâu, làm gì, và gặp gỡ ai. Dĩ nhiên họ không được phép ra khỏi thành phố nơi cư ngụ. Đa số được khuyến cáo phải đưa gia đình đi vùng kinh tế mới. Người công an phụ trách khu vực có quyền lùng xục vào nhà bất cứ lúc nào và tra vấn cả thành viên trong gia đình.

Nhiều người tù khi ra về gặp nhiều hoàn cảnh trái ngang gia đình tan vỡ, con cái bơ vơ thất học. Có những người vợ đã vì cuộc sống mà bỏ đi lấy chồng, thậm chí lấy những cán bộ Cộng Sản. Người cựu tù bị coi là thành phần thấp nhất trong xã hội, không thể tìm được một công việc theo khả năng mà phải chấp nhận những việc làm tay chân như đạp xe xích lô, khuân vác, phụ hồ, làm ruộng…

 Con cái của nhân viên chế độ cũ dù có khả năng, cũng không bao giờ vào đại học được. Cộng sản áp dụng gắt gao chế độ truy cứu lý lịch tận ba đời.

Hậu Quả về Tâm Lý

 

Sức chịu đựng về sinh lý và tâm lý của con người có một giới hạn; vượt trên giới hạn đó, con người có thể quị gục hay qui hàng! Họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì để thoát khỏi cực hình này. Rất may, đa số anh em cựu quân nhân miền Nam đã nghiến răng chịu đựng các cuộc tra tấn, vượt qua nỗi sợ hãi do ở một niềm tin và lòng trung thành với lý tưởng họ theo đuổi dù trong cơn vô vọng.

 

Đáng sợ nhất là cơn đói thêm triền miên mà Cộng Sản dùng như một phương tiện để trấn áp, mua chuộc. Có người dễ trở thành xấu xa chỉ vì được thêm một chén khoai hay chè ngọt. Tù nhân bị cơn đói hành hạ, ám ảnh; lúc nào họ cũng nói về các món ăn tưởng tượng; cả đến trong giấc mơ cũng thấy ăn.

Anh em chúng tôi thà bị phê loại kém với khẩu phần bị cắt xén hơn là đầu hàng nghịch cảnh!

Ngày nay, ở bến bờ tự do hàng chục năm sau, nhiều người vẫn trải qua những cơn ác mộng. Có người thấy mình vẫn còn ngắc ngoải trong các nhà tù chật ních, hôi hám trong khi vẫn ý thức được mình đang có nhà, có xe ở một thành phố văn minh ở Hoa Kỳ! Có người lại thường mơ thấy đang bị bủa vây giữa những thi thể đã sình thúi của bạn đồng tù.

 

Bài Sử Không Chịu Học

 

Có lẽ đây là sự khác biệt giữa văn minh Tây Phương và Đông Phương, giữa chế độ Tư Bản và chế độ Cộng Sản.

Nước Mỹ chấm dứt cuộc nội chiến trong trật tự và hoà hợp hoà giải. Ngày 6 tháng 11 năm 1865, Nam quân đầu hàng Bắc quân. Tướng miền Nam là Robert Lee được tướng Ulysses Grant đối xử rất tử tế; Tướng Grant ra lệnh cung cấp 25,000 khẩu phần cho phe bại trận; quân lính miền Nam sau khi giao nộp vũ khí được tự do trở về nhà mình, đem theo con ngựa (mà trong chiến tranh cũng được coi là vũ khí).

Sau Thế Chiến thứ Hai, Hoa Kỳ giam giữ 175,000 tù binh Đức ở New York và Virginia. Họ được cho ăn ở tươm tất. Một năm sau chiến tranh kết thúc, số tù binh này được thả về; có một số phải chịu thêm hai năm giam giữ ở Pháp và Anh là hai nước mà Đức Quốc Xã tàn phá nặng nề. Các quốc gia đồng minh tập trung vào việc tái thiết hơn là trả thù.

Xã hội văn minh người ta cư xử với nhau như thế đó!

 

Cuối năm 2004, đánh dấu ba mươi năm sau chiến tranh, Thủ Tướng Võ Văn Kiệt của Cộng Sản Việt Nam đã nói: “… một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu.” Đây có lẽ là một câu nói hiếm hoi từ cửa miệng một lãnh tụ cao cấp tỏ sự cảm thông với phe cựu thù.

 Một cựu Đại tá Cộng Sản ở Hà Nội cũng thú nhận khi được phóng viên Trà My phỏng vấn trên đài RFA ngày 7 tháng 5, 2006: “Tôi thấy có rất nhiều chính sách mà bây giờ mình mới nhận ra sai lầm. Sau khi thống nhất đất nước, thay vì phải tập trung vào mặt hoà bình, kiến thiết xây dựng thì lúc đó lại xảy ra những chính sách không thích hợp… đáng lẽ phải tập trung xây dựng thì lại tập trung vào chuyện đấu tranh không những đối với phía đối phương mà ngay cả trong nội bộ những người kháng chiến như chúng tôi cũng bị những sai lầm đó thao túng…


Người Việt Nam, đặc biệt là người miền Nam chúng tôi vẫn còn chờ đợi nhà cầm quyền Cộng Sản bày tỏ sự ân hận của họ về những tội ác đã gây ra trong chiến tranh để chúng ta có thể bỏ quá khứ sang bên mà cùng chung tay xây dựng một nước Việt Nam phú cường.

  

Bản tiếng Anh: 

Concentration Camps in Vietnam – The Wound Never Healed

By Michael Do

The Scope

About several months after the fall of Saigon, the communist government began to build hundreds of labor camps throughout the country where it misrepresented and lured hundreds of thousands of people who had worked in the former regime of the Republic of Vietnam, including military officers, civil servants, religious leaders, intellectuals, merchants, non-communist parties members, and even some communists it deemed distrustful.

Hanoi officially claimed the Re-Education camps to educate the people about the new government’s policy through labor and political education. In reality, the camps were forced labor camps to imprison their former enemies for a long time when they could not kill more than a million people en masse.

The Great Deception

From May to July, the Martial Administration Committee (acting as South Vietnam’s provisional government) organized 3-day re-education sessions for low-ranking military members and civil servants. Next, they summoned the officers from company grade to senior grade and general officers for 15-day to one-month sessions, depending on their ranks.

In August 1975, the communists threw the last dragnet, misrepresenting discharged and retired soldiers into attending a 7-day learning session.

The pamphlet read: (1) Retired and discharged officers of the ‘puppet army’ from Captains to Lt. Colonels; officers of the ‘puppet army’ from Lieutenants to Colonels whose summon orders have been previously postponed must report at Don Bosco School at 12 Truong Vinh Ky Street, Go Vap District at exactly 7:00 am August 20, 1975,  for a 7-day education session. (2) Bring with you paper, pens, clothing, blanket, mosquito net, personal items, and food (money) for use in 7 days (instant meal for the first day, then will be taken care of by food caterers).

Image: The announcement issued by the Martial Administration Committee of Ho Chi Minh City on August 19, 1975, to summon South Vietnamese officers to report to a 7-day re-education session.

The soldiers hoped that they could reconcile with the new government and would soon be released to continue their normal lives in a peaceful environment. They were naïve to believe the communists would keep their word! All the victims ended up from a minimum of three years to decades in the concentration camps.

However, except for very few people who had close relationships with the high-ranking Communist Party members, all others were kept in the camps for a minimum of three years up to 20, or 30 years. The usual statement we heard from the cadres was: “You will be converted into new men through political indoctrination, labor, and obeying the camp rules. When you show your progress, you will be released to go home with your families and build a new, happy life.”

In mid-1976, the Republic of South Vietnam’s Provisionary Government issued a 12-point policy that decided that the term for re-education was three years. In 1979, the cadres in concentration camps explained that three years was not a prison term but a milestone for prisoners to strive; those who did not show progress would be kept for more terms.

It was estimated more than one million people in the South underwent short-term detention, and approximately 200,000 people were detained for at least a year. In 1988, the Communist deputy Minister of Information confirmed that there were about 100,000 former soldiers and civil servants of the South Vietnam government imprisoned in re-education camps. The re-education courses claimed to be for just several weeks, turned into years of hard labor.

Reasons for the Establishment of Re-education Camps

Although South Vietnam surrendered and the country was reunified, the Communist government considered the southerners as enemies who would not readily accept the new regime. Furthermore, twenty-plus years of war had instilled in them a deep hatred toward the South Vietnamese soldiers, and they were still afraid that hundreds of thousands of ARVN soldiers would form an opposing political force, causing a clear and imminent danger to their regime.

Without trials, the communists charged the soldiers with “betraying the fatherland” and “being dangerous to the domestic security.” Explaining the reasons for not bringing the soldiers to court and trial, they claimed that the “Re-education” policy was more humane than prosecuting at criminal courts.

The Re-Education Policy was a convenient way for the communists to eliminate or at least disable or isolate their former enemies from the people, as well as to retaliate against people affiliated with the old regime or presumably suppress future opponents. Communists were worried that these elite officers and politicians still influenced people in the South.

Re-education Camps

There were numerous camps built throughout Vietnam. While some had been converted from the abandoned military bases of the South Vietnamese Army, others were built in the remote jungle or the deep valleys surrounded by mountain ranges.

I spent nine years and nine months in various concentration camps; the last four years I was in Xuan Phuoc A-20 Camp which held prisoners who had been classified as very unrelenting and dangerous.  After reporting to the local authorities, I was sent to five camps before finally settling at A-20 Camp in 1979. This was one of the most brutal camps in Southern Vietnam that held dangerous criminals who had received long-term to life sentences or the death penalty waiting for execution. A-20 was located in the valley of Ky Lo, District of Dong Xuan, Phu Yen Province – The Venerable Thich Thien Minh in his book Memoirs of My 26 Years in Prisons, calls it the “Valley of Death.”  In its history, no prisoners could escape without being caught or killed. The area had been the cradle of the communist resistance in the Viet Cong 4th Inter-zone during the two Indochina Wars that only the Republic of Korea Army’s soldiers were tenacious enough to subdue, thanks to their harsh military tactics.

On the first day we came, the camp commander warned: “You will rot here!” 

A-20 consisted of five sub-camps labeled A, B, C, D, and E. Sub-camps A and E were built close to the camp administration facilities; while B, C, and D were located about five kilometers apart. Around the camp, there were dozens of small thatch-roof houses of the peasants who were absolutely loyal to the communist government.

At A-20, there were four rows of brisk houses isolated by barbed wire. Four or five groups of 30 men were settled in one house. Each individual had a narrow space about 18 inches wide to sleep on. The only door of each house was locked after meal delivery at about 6 p.m. From 6 to 8 p.m., prisoners sat in groups of 30 to review their work during the day; then came the “Criticize and self-criticize” session to confess their own mistakes or accuse other inmates of faults.

Camp Conditions and Works

Camp conditions were extremely inhumane. We were provided with very little food. For each meal, we had a few slices of cassava root (manioc) dotted with some rice and salty water. The cassava we ate was the toxic H-34 type used to produce polyethylene sheets. Once in a while, prisoners were fed aged vegetables – mostly water spinach – slightly washed; people could find residue of human feces used to fertilize the vegetables. Three times a year, to celebrate the holidays, we were given small pieces of meat the size of a thumb. A former ARVN Artillery Battalion commander who lost his teeth when in prison, stated that “… We didn't have anything to eat. We only got rice one day a month. For the remaining days, they fed us white radishes, potatoes, and corn."  At a camp in Ha Nam Ninh Province, for two years in a row, there were about 15 people died each week from starvation and diseases until prisoners were allowed to receive food and medicine supplies from families. During years in the re-education camp, we ate whatever creatures we managed to catch, such as snakes and lizards, and even worms and insects.

Sanitation and medical care were poor. There were no medications other than some oriental medicines derived from unknown leaves and roots. Without anesthesia or pain relief medicines, we removed the decayed tooth with a pair of pliers and tweezers. A prisoner who broke his limb while working would be treated at the prisoner medical station by an inmate doctor, instead of being sent to a hospital. In communist societies, people of different classes received different levels of treatment. At Dong Gang re-education camp (Khanh Hoa Province), about 100 prisoners died from a lack of food and untreated illness.

At Xuan Phuoc, we worked eight hours a day on the field under the scorching sunshine of torrential rain. In the beginning, we had to clear the bushes and cut down the trees to convert the jungle into cultivable land. The camp set the daily quota that each prisoner must dig a minimum of 20 holes (20 x 20 x 15 cubic inches) to plant the cassava trees. The quota increased day by day until it reached 50 holes per day. Prisoners who did not meet the quota would not be allowed to bathe in the pond after a day of working hard. By the end of the month, they would be graded as “bad” and would receive a reduced ration for the whole month! At other camps, prisoners were forced to clear vast areas that previously were minefields. Many people lost their lives or had their limbs amputated. Prisoners at another camp were forced to dig a 10-meter-long canal every day or cut a cubic meter of wood a day. We had to do manual work using our hands and rudimentary tools made from any possible materials we could find.

Prisoners’ death rate was very high, thanks to starvation, diseases, hard work, and harsh punishment. Some academic studies by American researchers gave a total of 165,000 people who died in concentration camps.

Communist Indoctrination

First and foremost, prisoners had to declare a detailed life history of themselves and three generations of their families, including everything from birth until April 1975. This process was repeated every year. Communist cadres would read and compare to find out some important details the prisoners had covered up!

In the first year of detention, prisoners underwent “re-education” sessions lasting three months each. Each session consisted of from 8 to 10 lessons to brainwash the prisoner from the “counter-revolutionary” perception and perspective. For each sub-session, after eight hours of lecture, prisoners sat in groups of ten for the next three to five days to discuss in front of communist cadres. At the end of the sub-session, prisoners were ordered to write a short essay to prove that they thoroughly understood the lessons.

After the first session, prisoners had a whole week to write a comprehensive paper in which they praised and thanked the Party and government for their merciful policy that allowed them to live and gave them an opportunity for re-education. Also, they had to confess the crimes against the country and the people they had committed. Everybody had to acknowledge his crime one way or another. Many prisoners had to make up some crime to put down on paper to avoid being accused of being stubborn. The cadres insisted that the more crimes a prisoner confessed, the more he proved his sincerity and the sooner he would be released. The most critical part was to admit that they deserved the death penalty and to beg the Party to spare their lives.

The second session was to prepare prisoners for extended stays in the camps. Communists forced the prisoners to write letters to convince their families to move to the so-called “New Economic Zone.” This was a new attempt to clean up townspeople from urban areas, giving room to new migrants from North Vietnam.

It was an irony when hundreds of South Vietnamese elites - many of them college graduates - were lectured by communist educators who had the education level of a middle school or lower!

Indoctrination sessions continued each year but were less stern than in the first year.

The Cruel Punishment

Although the predicted bloodbath did not happen, indiscriminate killings were carried out in camps. Prisoners were shot dead at the scene if they attempted to escape. At camps in the Mekong Delta or in the regions that previously were communist secret zones, they would mercilessly beat and kill prisoners for no reason at all. The camp punished prisoners who expressed their mistrust toward communism or those who violated the camp rules or did not work hard enough by locking them in confinement cells for months. The prisoner was not allowed to have anything except for a pair of pajamas (no shoes, no socks, no mat, no cover sheet…). He then sat on a cement platform with two feet leaning on an iron rod. The orderly would lock both his legs at the ankles with tight shackles. The prisoner had only one position: half sitting and half lying on the concrete. He was given one meal consisting of approximately two spoons of rice and a bowl of very salty water for the whole day. The punishment could last one, two months, or longer until the prisoner became a walking skeleton  

At Camp Suoi Mau K-5, in 1977, because of a minor rule violation I was forced into a small army container with two other fellow prisoners. The container was sealed and put in the open air when the temperature reached 110 degrees. Three times at Camp Xuan Phuoc, I was locked in the confinement cell with both my feet shackled to the wall during wintertime when the temperature dropped to freezing point.

The fact that prisoners were beaten to death was not rare, particularly in the Mekong Delta region. In October 1979, Ba Minh, the Vuon Dao Camp commander used a bath towel to choke to death a former ARVN officer after he had lost a debate with this prisoner on political issues.   

The End of “Re-education” Period

In 1977, the Vietnamese Communist government began to release a small number of low-ranking officers who had some relationships with the communists. In 1978, they released more prisoners who were medical doctors, dentists, and pharmacists so they could serve in their medical facilities.

In the early 1980s, more waves of prisoners were released on the occasions of Lunar New Year, Liberation Day (April 30th), and National Day (September 2nd).   

Many prisoners were required to relocate with their families to the new economic zones in remote areas or work in collective farms. After going back to their hometown, prisoners were put under house arrest for at least one year. Every week, they had to report to the local police their daily activities, people whom they met and talked with… They could not go out of the town without a permit. The security officers would closely monitor every single move of their families.

Many families were broken during the time prisoners were in the camps. Some could not come back to their home because their wives had had new husbands. The most painful experience was when the wife married a communist! Unable to find suitable jobs, most prisoners worked as simple laborers such as handymen, porters, masons, or pedicab drivers.

We soon realized that our children were not allowed to attend colleges or universities. The communists applied a three-generation discrimination policy for former soldiers and civil servants of the Saigon regime. We were at the bottom of the classification in the society.

Psychological Impact

Physically or mentally, a man’s endurance has a limit! Over that point, he might break and surrender. He would do anything to get out of the circumstance. Many of us overcame the fear and endured the torture to keep our faith, and to be loyal to our ideology. We knew communists were never satisfied with whatever the prisoners confessed; they kept suspecting that there were more things hidden, and they would never stop abusing until the prisoner turned into a corpse.

In concentration camps, food became the potent weapon the communists used to control the prisoners. Hunger could transform a man into a devil or an informant. Everybody was haunted by food; it was the only thing we talked about day and night; even in our dreams. We would rather receive “bad” grading and reduced rations than surrender to the hardship.

Today, decades after our ordeal, we still have nightmares. In our dream, we were stuck in the re-education camp surrounded by hundreds of inmates while we acknowledged that we had a house in the United States and we could not come back. The more we struggled, the more we were bogged down in misery. In another dream, we were haunted by the stench of dead human flesh as we were lying among the decaying dead fellow prisoners.

Lessons not learned

By studying the US history, we can see the difference between the West and the East, Capitalism vs Communism. 

On November 6, 1865, the Civil War came to an end in a peaceful and orderly manner. After surrendering to the Union, General Robert Lee was treated with respect. His men in the Confederate army were allowed to go back home. General Ulysses Grant issued the paroles to the Confederates to return home; he ordered his officers to let the ex-soldiers of the South keep their horses and agreed to supply them with 25,000 rations. Confederate soldiers were allowed free transportation on government trains and boats. The generals appointed three officers from each side to ensure the proper execution of the terms of surrender.  

Then, Northern and Southern Americans united and began reconciliation and reconstruction.

During WW2, the US took 175,000 German prisoners and transported them to New York and Virginia. They were treated fairly, given plenty of food, and sheltered in relatively comfortable conditions. One year after the war ended, they were repatriated in 1946; some ended up two more years in labor camps in France and England. Only the top leaders and those who got involved in the Holocaust were brought to the Nuremberg Court to pay for their crimes.

The above cases are great lessons of how people from opposing fronts would be treated when the dispute ends in civilized societies.

By the end of 2004, recalling the war that ended 30 years before, the Communist Prime Minister,  Mr. Vo Van Kiet said: “There are events that brought joy to millions of people, and also sadness to millions of others.” He might be one of the very rare communists with some degree of empathy toward the war’s losing side.

Vietnamese people, particularly the Southerners have been waiting for the communists to express their remorse for the heinous crimes they have committed. Only then, a real unification will exist and both sides will put the past aside to sit down and build a bright future for Vietnam.


Michael Do

April 2025.

 

References

CIA Records (April 1985).” Vietnam 10,000 still in ‘Reeducation’ Camps”. Freedom of Information Act Electronic Reading Room.  https://www.cia.gov/readingroom/document/cia-rdp90-00965r000200730008-5.

Do, Michael (2017). The Depths of Hell. Amazon KDP.

Hoang, Tuan (August 1, 2016). "From Reeducation Camps to Little Saigons: Historicizing Vietnamese Diasporic Anticommunism"Journal of Vietnamese Studies

Kaiser, Robert (May 15, 1994). "Surviving Communist  ‘Reeducation Camps’". The Washington Post. Retrieved January 26, 2021.

Metzner, Edward;  et al. (2001). Reeducation in Postwar Vietnam, Texas A&M University Press.

Porter, Gareth; Roberts, James (Summer 1988). "Creating a Bloodbath by Statistical Manipulation: A Review of A Methodology for Estimating Political Executions in Vietnam, 1975–1983, Jacqueline Desbarats; Karl D. Jackson". Pacific Affairs.

 Sagan, Ginetta; Denney, Stephen (1983). Violations of Human Rights in the Socialist Republic of Vietnam, April 30, 1975-April 30, 1983. Aurora Foundation.

Sagan, Ginetta; Denney, Stephen (October–November 1982). "Re-education in Unliberated Vietnam: Loneliness, Suffering and Death"The Indochina Newsletter. Retrieved 2016-09-01.

Tang, Truong Nhu (1985). A Vietcong Memoir. First Vintage Books.

Vo, Nghia M. (2004). The Bamboo Gulag: Political Imprisonment in Communist Vietnam. McFarland & Co., Inc.

 

Suggested Reading:

The Depths of Hell

https://www.amazon.com/dp/B09JRJ61LW

https://online.fliphtml5.com/ykequ/kcen/


Cuối Tầng Địa Ngục:

https://www.amazon.com/gp/product/1974307107

https://online.fliphtml5.com/ykequ/bmtq/ 

No comments:

Post a Comment