Hồi tôi mới độ 15 tuổi, bố tôi
mang về một con chó đực. Con chó có bộ lông trắng, đôi mắt màu nâu đen rất đẹp.
Năm đó mất mùa đói kém, gia đình tôi phải thường xuyên ăn độn khoai sắn. Lạ
lùng thay, con chó này cứ lớn phổng phao, mượt mà. Nó phải nặng đến 15kg.
Cũng như nhiều gia đình khác,
những con chó nuôi đều không được đặt tên. Nó là loài vật, nên vô danh ! Mỗi
lần muốn gọi, chỉ cần: "Êu, Êu" là nó xuất hiện, ve vẩy đuôi, miệng
rít lên những tiếng như tiếng rên, rất dễ thương ! Thường ngày, khi không có ai
cần đến, nó nằm khoanh tròn trong gậm giường, đầu hướng ra phía cửa. Có khách
lạ, nó sủa lên vài tiếng báo hiệu. Còn là người quen thân, nó vùng dậy, xông
ra, vẫy đuôi rối rít và kêu lên mừng rỡ.
Từ ngày mua được con chó này,
nhà tôi như được bình an hơn. Cha tôi quý con chó lắm. Mùa đông giá rét, ông
lấy một chiếc bao tải quấn quanh mình, giữ ấm cho nó.. Những ngày hè nóng nực,
ông mang nó ra ao tắm cho sạch lông. Nhà tôi nghèo như thế, vậy mà đôi khi ông
vẫn đi đâu đó tìm được một khúc xương mang về cho nó gặm. Con chó rất quyến
luyến cha tôi, suốt ngày luẩn quẩn bên ông.
Một hôm có hai người khách lạ
đến nhà tôi hỏi mua chó. Họ nói, họ ở làng bên cạnh, cách làng tôi một cánh
đồng. Ngày mai gia đình họ có đám giỗ, cần một con chó để thịt! Cha tôi nghe
vậy không muốn bán, nhưng gia cảnh nhà tôi lúc đó rất nghèo. Cả cha mẹ và bốn
anh em tôi, mặc dù bữa ăn phải độn nhiều khoai sắn nhưng không ngày nào thật sự
được ăn no.
Mẹ tôi bàn với cha tôi lâu lắm.
Nếu tiếp tục nuôi thì không còn gì để cho nó ăn, dù rằng con chó vô cùng dễ ăn.
Nó có thể ăn vài cọng rau thừa, dăm bảy cái vỏ khoai lang, mấy cái xương lõi
sắn, vài hạt cơm rơi vãi quanh mâm hoặc bất cứ cái gì có thể ăn được mà con
người cho phép. Tuy nhiên, nuôi nó cũng như thêm một miệng ăn nữa. “Người chẳng
có mà ăn, lấy đâu ra cơm nuôi nó mãi ?” - Mẹ tôi bảo thế.
một điều rất lạ là khi cả
cha và mẹ tôi miễn cưỡng đồng ý bán con chó, thì tự nhiên nó chạy biến đi đâu
mất! Không lẽ con chó này hiểu được tiếng người ? Chúng tôi chia nhau đi tìm
mọi xó xỉnh, xung quanh nhà, thậm chí sang cả nhà hàng xóm, nhưng bặt vô âm
tín.
Cho đến khi cha tôi nước mắt
lưng tròng, lên tiếng gọi, thì từ trong đống rơm ở phía sau chuồng lợn nó chui
ra ! Người ta lấy cái chày giã gạo chẹn cổ nó xuống, trói mõm và bốn chân nó
lại. Con chó tội nghiệp kêu rên ư ử, hai mép nó sùi bọt. Cha tôi ôm lấy nó,
khóc. Nhìn bộ dạng cha tôi, thương lắm. Tôi liên tưởng đến lão Hạc, một nhân
vật của nhà văn Nam Cao khi phải bán cậu Vàng !...
Người ta trả tiền cho mẹ
tôi và dùng đòn ống khiêng nó đi. Cha tôi buồn bã lên giường nằm, tay trái vắt
ngang qua trán, tay phải để lên bụng và thở dài thườn thượt... Chiều hôm đó ông
bỏ ăn. Một bát cơm và đĩa khoai phần ông vẫn còn nguyên trong trạn. Mẹ tôi bảo,
nó chỉ là một con chó, việc gì phải tiếc quá như vậy ? Nếu muốn, lại sẽ mua con
khác về nuôi ! Cha tôi không nói gì, cứ nằm im như người bệnh nặng....
Đêm hôm đó trời tối đen
như mực. Cả nhà tôi đã ngủ yên, chỉ một mình cha tôi thao thức. Thỉnh thoảng
ông trở dậy, bật diêm hút thuốc. Rồi ông nằm xuống thở dài, trằn trọc, quay ra,
lật vào, ngao ngán. Tâm trạng ông nôn nao, buồn phiền như tiếc nuối một vật gì
đã mất đi, quý lắm...
Vào khoảng 2-3 giờ sáng,
cha tôi là người đầu tiên phát hiện những tiếng động rất lạ ở vách cửa.. Cha
tôi yên lặng lắng nghe. Không có nhẽ đêm đầu tiên không có con chó giữ nhà là
đã có kẻ trộm ? Mà nhà tôi có gì đáng giá để kẻ trộm phải rình mò ?
Nhưng chỉ một phút sau, linh
tính báo cho ông biết, con chó đã trở về ! Nó cào mạnh vào cửa, kêu ư ử như cầu
cứu. Cha tôi vồng dậy, kéo cửa ra. Con chó mừng rỡ nhảy sổ vào nhà. Mẹ tôi trở
dậy thắp đèn. Tội nghiệp con chó. Cổ nó còn nguyên một vòng xích sắt có khóa,
nối với đoạn dây thừng lớn đã bị nó cắn đứt kéo lê theo. Đầu và bụng nó ướt lút
thút, bốn chân và đuôi dính đầy bùn. Nó đói quá, hai bên sườn xẹp lại, sát vào
nhau.
Cha tôi vội tháo vòng xích, lấy
cái khăn rách lau khô lông và lau sạch bùn ở đầu, ở bụng, ở chân và đuôi nó,
rồi vào trạn lấy bát cơm còn để phần ông từ hồi chiều hôm trước, trộn với một
ít tương cho nó ăn.
Lạ lùng thay, con chó đói gần
chết, và lại lần đầu tiên được ăn một bát cơm ngon như thế, vậy mà nó ngước mắt
nhìn cha tôi, như nghi ngờ và ngần ngại... Một lúc sau, nó mới cúi đầu xuống ăn
một cách từ tốn. Cha tôi vuốt ve nó rất lâu, sau đó cho nó vào gầm giường. Ông
lên giường nằm và một lúc sau ông đã chìm vào giấc ngủ bình thản và ngon lành.
Sáng hôm sau, mới tinh mơ hai
người mua chó hôm trước quay trở lại nhà tôi. Con chó đánh hơi thấy trước nên
nó trốn biệt. Cha tôi điều đình và trả lại tiền cho hai người mua chó. Cả nhà
tôi đều hiểu rằng, dù có phải chết đói, cha tôi cũng không bao giờ bán con chó
cho ai nữa.
Từ hôm đó chúng tôi để tâm chăm
lo cho con chó nhiều hơn. Cha tôi, dù cả bữa cơm ông phải ăn khoai là chính
(tiêu chuẩn mỗi người chỉ một bát cơm), song ông luôn dành cho con chó một nửa
bát. Con chó hình như cũng hiểu được điều này. Nó trở nên nhút nhát hơn, cảnh
giác hơn với mọi người. Nhưng với cha tôi, nó cứ luẩn quẩn bên chân ông. Khi
ông ra đìa, nó luôn đi theo ông như hình với bóng. Còn những lúc ông đi làm xa,
không cho nó đi theo thì nó ra đầu thềm nhà nằm ngóng ra cổng, chờ cho đến khi
nào ông về, nó nhảy xổ ra, mừng rối rít rồi theo ông vào nhà !
Khoảng chừng hai năm sau, kinh
tế gia đình tôi khá giả hơn trước. Con chó cũng lớn hơn, khỏe ra, mượt mà, rất
đẹp. Nó luôn luôn theo sát cha tôi, không rời nửa bước. Vào một buổi trưa cuối
mùa hè, cha tôi ra đìa để vớt bèo lục bình về làm phân xanh. Cái đìa này lầy
bùn, cỏ và cây dại mọc dày đặc từ hàng trăm năm nay.
Dưới gốc rễ cây đan quyện vào
nhau như những tấm lưới thép, tạo thành những hang hốc sâu đầy bùn. Ở dưới đó,
rất nhiều lươn và cá trê lưu cữu to bằng bắp chân người lớn. Đôi khi người ta
còn bắt được cả rái cá, kỳ đà. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng ra dưới
cái đìa rậm rạp đó lại có một con trăn hoang to như một cây tre bương, dài cỡ 3
mét, sống lâu năm và chắc nó cũng đã ăn hết cả mấy tạ cá dưới đìa.
Hôm đó cha tôi lội dưới bùn vớt
những đám bèo dày đặc vứt lên bờ. Đến gần gốc một cây vạy, ông nhìn thấy đuôi
một con trăn lớn thò ra. Cha tôi quyết định bắt sống hoặc đánh chết con trăn
này. Ông chộp lấy đuôi con trăn, đạp hai chân vào gốc vạy, kéo con trăn ra
ngoài. Con trăn chống cự. Khi bị lôi ra khỏi hang, nhanh như một tia chớp, con
trăn cong người cắn chặt vào bắp chân cha tôi. Ông ngã ra bờ đìa và kêu lên một
tiếng sợ hãi.
Ngay lúc đó con chó không kịp
sủa một tiếng nào, nó nhảy bổ vào, cắn vào cổ con trăn và dính liền hàm răng
vào đó, như không bao giờ muốn nhả ra nữa. Con trăn quật mình cuốn chặt lấy
thân con chó. Chỉ bằng một cú núc, nó làm con chó gãy đôi xương sống ! Mõm con
chó vẫn cắn chặt vào cổ con trăn. Hai bên mép nó ứa ra hai dòng máu và ở lỗ hậu
môn lòi ra một đống phân nhão !
Cha tôi đã ý thức được sự nguy
hiểm, ông vớ lấy con dao quắm mang theo để chặt cây, nhằm vào đầu con trăn chém
rất mạnh. Con trăn chỉ quằn quại được một lát, nó mềm nhũn ra và bất động. Cha
tôi cứ để máu ở chân chảy ròng ròng, ông quay ra cố gỡ mõm con chó ra khỏi cổ
con trăn và ôm chặt nó vào lòng. Nhìn thân mình con chó ướt sũng, bê bết bùn,
mềm ẹo, mắt nhắm nghiền, cha tôi khóc. Ông nghĩ rằng nó đã chết. Cha tôi mang
con chó về nhà, tắm, lau khô và để nó nằm vào một cái nong đặt ở cuối thềm.
Ông bảo tôi đi tìm một cái thùng
gỗ, đặt con chó vào và mang nó đi chôn. Khi cha tôi nhấc nó lên, định cho nó
vào hòm thì đôi mắt nó mở hé ra và chớp. Cha tôi mừng quá, sai tôi đi tìm ông
lang Tá về băng, bó nẹp cố định xương sống cho nó. Xong xuôi mọi việc, cha tôi
mới thấy đau ở bắp chân. Ông ngồi xuống bậc thềm, để cho ông lang rửa sạch, sát
trùng, bôi thuốc và băng bó vết thương.
Buổi chiều, ông bảo mẹ tôi nấu
một nồi cháo gạo, rồi đập hai quả trứng gà vào quậy đều. Đây là một món ăn sang
trọng để tẩm bổ mà gia đình tôi rất ít khi được ăn. Ông múc cháo ra tô, chờ
nguội và vuốt ve dỗ dành cho con chó ăn. Nó nằm im, đôi mắt ướt nhìn cha tôi,
nhưng không ăn một miếng nào.
Cả xóm tôi đem con trăn ra làm
thịt chia nhau, ai cũng khen con chó quá khôn, nhưng không ai tin rằng nó còn
có thể sống thêm được vài ngày nữa. Nhiều người bảo mẹ tôi đem con chó ra mà
thịt, kẻo để nó chết uổng phí của trời ! Chỉ riêng cha tôi không nghĩ thế. Ông
luôn tin rằng con chó sẽ sống cùng ông, và nếu chẳng may nó chết, ông sẽ đem
chôn nó như chôn một con người !
Khoảng hai tháng sau, với sự
chăm sóc của cha tôi, con chó đã bình phục. Tuy nhiên vì xương sống của nó bị
gãy nên hai chân sau hoàn toàn bị liệt. Mỗi lần đi, nó chỉ dùng hai chân trước
chống xuống đất và lết trên đầu gối của hai chân sau. Điều làm cả nhà tôi ngạc
nhiên, từ khi con chó đi được theo kiểu lê lết, nó chỉ gặp khó khăn trong
khoảng một tháng đầu. Sau những ngày ấy, nó lết nhanh không kém gì những con
chó bình thường.
Từ dạo đó, cha tôi cưng con chó
như con. Một suất cơm đạm bạc và ít ỏi của ông, bữa nào cũng được chia làm đôi.
Thảng hoặc, ngày nào có một hai miếng thịt, cha tôi cũng dành cho nó một phần.
Con chó rất khôn, hình như nó biết tất cả mọi điều đang diễn ra xung quanh. Nó
không bao giờ quấy rầy chúng tôi. Nhưng với cha tôi, nó quấn quýt, liếm láp
chân tay, không muốn rời ra nửa bước. Ban đêm ông nằm ngủ, nó nằm dưới chân
giường. Hình như chỉ như thế thì cả chó và người mới thấy yên tâm !.
Cuộc sống như vậy trôi đi. Cả
nhà tôi luôn biết ơn con chó và gần như ngày nào cũng nhắc đến chuyện con trăn
! Cho đến tháng hai năm 1959, nhà tôi có đại tang. Cha tôi bị một cơn bạo bệnh
rồi qua đời ! Tôi còn nhớ như in, hôm đưa ma cha tôi, trời mưa tầm tã, rét lắm,
nhưng người đi đưa rất đông. Anh chị em, chú bác, cô dì, dòng họ ai cũng khóc
như mưa.
Không mấy ai để ý trong dòng
người đông đúc đó, con chó liệt cũng có mặt. Nó ướt lút thút như chuột lột, rét
run lẩy bẩy, cố lết trên đôi chân liệt, len lỏi giữa dòng người than khóc sướt
mướt trong đám tang. Không ai hình dung ra được con chó liệt đó có thể đi theo
đám tang ra tận nghĩa địa, nơi chôn cất cha tôi, và sau đó bằng cách nào nó lại
tự lê lết về nhà ?
Chỉ đến khi trời tối mịt, thắp
đèn lên, mới tìm thấy nó nằm sâu trong gầm giường, bộ lông hãy còn ẩm ướt và
đôi mắt buồn rầu khó tả, cứ nhìn đi đâu đó, như hướng về một cõi nào mơ hồ
nhưng ở đâu xa lắm...
Sáng hôm sau, cúng cơm cho cha
tôi xong, chúng tôi gọi chó ra cho nó ăn. Không còn thấy nó nằm trong gầm
giường nữa. Nó đã lết ra đầu thềm tự khi nào, nằm quay đầu ra cổng ngóng chờ
xem một ngày nào đó liệu cha tôi có trở về ?
Tôi bế nó vào nhà, vỗ về và dỗ
dành cho nó ăn, nhưng tuyệt nhiên nó không đụng vào bất cứ thứ gì. Tôi đem mấy
miếng thịt lợn luộc, những thứ mà ngày thường nó vô cùng thích ăn. Nó quay đầu
ra chỗ khác. Tôi đặt nó trở lại gầm giường. Nó không chịu nằm yên, lại lết ra
đầu thềm, nằm ngóng ra cổng, kiên trì chờ đợi và im lặng như một mô đất.
Sau hơn một tuần lễ con chó nhịn
ăn như thế, nó gầy rạc đi. Cả nhà bận cúng tuần cho cha tôi, nhưng ngày nào tôi
cũng để tâm và dỗ dành, hy vọng nó ăn lấy một chút. Nhưng nó không màng.
Rồi một buổi sáng tinh mơ, trời
còn đầy sương và se se lạnh, chúng tôi ra nghĩa trang thắp nhang và đặt tấm bia
đá trên mộ cha tôi. Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến mức không còn tin ở mắt
mình : Con chó liệt đã nằm chết trên mộ cha tôi tự bao giờ, hai chân trước chồm
lên ôm lấy ngôi mộ, hai chân sau bại liệt như đang quỳ, cơ thể nó đã cứng đơ,
đôi mắt nhắm nghiền, thanh thản, nhưng dường như còn hơi ươn ướt...
Chúng tôi trở về nhà đóng một
cái hòm gỗ, khâm liệm con chó tử tế và chôn nó dưới chân mộ cha tôi... Tôi cắm
mấy nén nhang lên ngôi mộ nhỏ bé này, lòng miên man nghĩ ngợi : Không biết giờ
này linh hồn cha tôi đang phiêu diêu bên trời Tây cực lạc, Người có biết con
chó đầy ân tình và tội nghiệp của Người đã mãi mãi đi theo Người...
Anh Thập chuyển
Truyện rất cảm động. Không con vật nào trung thành hơn con chó.
ReplyDeleteCó lẽ nhiều người đã ứa nước mắt sau khi đọc truyện ngắn này. Chó là một loài vật tuyệt đối trung thành với chủ và nó có nhiều đức tính mà loài người cần học hỏi.
ReplyDeleteCâu chuyện thật cảm động. Chó là loài vật rất có nghĩa. Tui nhớ có lần đọc được câu chuyện về nhạc sĩ thiên tài Wolfgang Amadews Mozart người nước Áo, khi qua đời thì con chó của ông cũng theo ra mộ và nằm ở đó, sau một tuần thì chết…
ReplyDeleteCám ơn tác giả Thập Nguyễn đã chuyển bài viết này. Cám ơn chị Tố Kim đã post bài này len blog NPN
Mai Khánh Thư