Tôi và anh Lê Quang Phát biệt phái làm
việc cho Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ (U.S Defense Attaché Office DAO) của tòa
Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Hai chúng tôi có nhiệm vụ thường xuyên liên lạc với
phòng An Ninh Không Quân Tân Sơn Nhứt của Trung Tá Trần Văn Ngưu để cung cấp thẻ
an ninh cho tất cả quân nhân và dân sự Hoa Kỳ và toàn thể nhân viện Việt Nam
làm việc cho cơ quan này. Với thẻ an ninh này họ mới được phép ra vào phi trường
Tân Sơn Nhứt và các cơ sở của Hoa Kỳ tại Saigon, Gia Định và Biên Hòa.
Trong khoảng thời gian vài tháng trước
ngày Sài Gòn rơi vào tay Cộng Sản Việt Nam, các hội từ thiện tại Hoa Kỳ muốn giải
cứu các em bé mồ côi ra khỏi vùng chiến tranh. và một số hội Cha Mẹ Nuôi đang
hoạt động ở Việt Nam yêu cầu chánh phủ Huê Kỳ giúp di tản trẻ mồ côi từ những
trại mồ côi ở Việt Nam. Họ làm áp lực bên Hoa Kỳ và bên Việt Nam. Họ yêu cầu Tổng
Thống Gerald Ford nên tìm cách di tản các em mồ côi ra khỏi Việt Nam càng sớm
càng tốt. Đầu tháng Tư 1975 Tổng Thống Ford tuyên bố Chánh phủ Huê Kỳ sẽ di tản
trẻ mồ côi từ niềm Nam Việt Nam. Chiến dịch này sẽ đưa trẽ em mồ côi Việt Nam
qua Hoa Kỳ và những nước khác như Úc đại Lợi, Pháp và Gia Nã Đại,
Ông John Gillen, trưởng phòng An Ninh của
DAO bảo hai chúng tôi thông báo cho Trung Tá Trần Văn Ngưu rằng chiến dịch
Operation Babylift sẽ được thực hiện bất cứ lúc nào. Chiến dịch này được gọi là
Chiến Dịch Di Tản Trẻ Em Mồ Côi Việt Nam hay dịch ra tiếng Anh là Operation
Babylift.
Cũng nên nhấn mạnh rằng vào lúc ấy những
người thực hiện chiến dịch này không biết chắc chắn có bao nhiêu trẻ mồ côi sẽ
được di tản. Dự đoán là khoảng từ vài trăm em hay cả ngàn, rồi mấy ngàn em. Con
số này tiếp tục tăng cao theo tin đồn có những em nhỏ ở tận Quảng Trị - Thừa
Thiên cũng được người ta đem vào, nhưng không ai có thể chứng minh đúng số là
bao nhiêu em.
Về mặt pháp lý thì vấn đề xin con mồ
côi, các em mồ côi cha me hội đủ điều kiện được các gia đình người Mỹ nhận làm
con nuôi. Giấy phép xin con nuôi bên Hoa Kỳ đã chuyển đến Bộ Ngoại Giao Việt
Nam. Theo lời ông Đệ Nhứt Bí Thư Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ thì chánh phủ Việt Nam quá lộn
xộn nhưng còn chuyện giấy phép là phải có Bộ Tư Pháp Việt Nam chấp thuận. Ông
không thể chờ đợi và giận dữ. Ông Gillen nói chuyện này phải tiến hành mau lẹ.
Khi nhận được giấy phép, máy bay của Không Lực Hoa Kỳ (US Military Airlift
Command (MAC) đến đưa các em đi ngay.
Chiến dịch Operation Babylift được chuẩn
bị trong một thời gian rất ngắn. Tất cả các em được các hội cha me nuôi Mỹ Việt
tại Saigon và bên Tòa Đại Sứ Mỹ chuẩn bị rất chu đáo. Tất cả nhân viên gồm Bác
Sĩ và Y Tá thuộc bịnh viện Hoa Kỳ ở Saigon cộng với một số lớn nhân viên Mỹ của
DAO, xe cứu thương và xe buýt với tư thế chờ đợi và sẵn sàng .
Đầu tháng Tư chiến dịch Operation
Babylift bắt đầu. Hôm đó tôi bị bịnh vì mới mổ ruột thừa nên không đến sở. Anh
Phát phải làm việc ngày đó. Anh và ông Gillen phối hợp với Trung Tá Ngưu chỉ
huy cho xe chở các em vào phi trường.
Ngồi nhà buồn chán, tôi mở truyền hình
lên xem thì thấy hình ảnh của chiếc phi cơ A C-5 Galaxy chở mấy trăm em nhỏ và
người lớn rớt ở một địa điểm hiểm trở cách Saigon không xa. Hôm sau, tôi vào sở,
nghe anh Phát kể lại các hoạt động hôm đó mà rùng mình. Chiến dịch này kéo dài
mấy ngày liền. Về chuyến bay bị rớt, tôi hỏi ông Gillen có bao nhiêu người chết,
ông ta lắc đầu lia lịa, rồi ông quát lớn, “Nobody know” Không ai biết hết! Các
anh đừng phao tin này ra ngoài. Nó rất nguy hiểm.”
Một tuần lể sau tại nạn đó, Ông Gillen
nói với tôi một cách buồn bã, “Anh đi qua cư xá, đến phòng của Jennifer kiểm kê
hết đồ đạc trong phòng, lập một cái list, kêu người đóng thùng gởi về cho cha mẹ
cô ấy”.
Jennifer là thư ký xinh đẹp của Đại Tá
Trưởng Khối Không Quân của DAO. Người da trắng mắt xanh gốc Ái Nhĩ Lan, cô còn
độc thân và rất trẻ. Người nhỏ gọn cao 5 feet, sắc đẹp nghiên trời. Chúng tôi gọi
cô ta là Miss DAO (Hoa khôi của DAO). Sau khi tốt nghiệp Đại Học. không muốn lập
gia đình, cô nhận việc làm ở Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ rồi xin qua Việt Nam làm việc
hai năm với hy vọng có dịp thay đổi cuộc đời. Vì sức khỏa của trẻ em mồ côi
chương trình Operation Babylift buộc phải có bác sĩ, y tá và nhiều người lớn đi
theo chăm sóc. Mỗi người lớn đi theo được chỉ định hai em nhỏ khi lên phi cơ.
Jennifer tình nguyện đi theo và gặp nạn. Một số người sống sót, một số bị
thương và mấy người chết trong đó có Jennifer. Số các em sống sót và bị thương
được lập tức đưa đi qua Mỹ ngay.
Tôi và anh tài xế ghi chép, đánh số mọi
thứ trong phòng xong, tôi bước vào phòng ngủ, một gian phòng đơn sơ nhưng rất ấm
cúng. Ngọn đèn ngủ chưa tắt, cây quạt máy vẫn còn đứng quây nhè nhẹ cho tôi cái
cảm nhận cô vội vàng đi cho kịp chuyến bay hôm đó nên quên tắt cây quạt. Nhìn tấm
hình nhỏ miệng tươi cười trong khuôn hình dựng trên bàn bên giường ngủ tôi thực
sự trào ra nước mắt.
Tôi mang tấm hình trở về văn phòng báo
cáo cho ông Gillen, đồng thời tôi đặt tấn hình của Jennifer lên bàn viết của
ông. Ông nhìn tấm hình một lúc đôi mắt của ông rưng rưng. Ông cầm ống điếu bập
bập, một làn khói trắng bay lên rồi ông nhè nhẹ kêu tên tôi. “Bình! anh đem nó
trở lại bỏ chung đồ đạc của cô ta ngay bây giờ”. Tội nghiệp cho Jennifer, người
có một tâm hồn cao quý đã ra đi vì các em mồ côi Việt Nam. Tất cả chúng tôi
không ai biết các em bé nuôi này đươc đưa về đâu. Ai nhận nuôi dưởng các em bé
mồ côi cha mẹ này.
Một năm sau ngày tôi định cư yên ổn, tôi
gặp một em Babylift tại Mỹ.
Câu chuyện xảy ra rất bất ngờ. Sau khi định
cư ở Mỹ tôi làm việc cho chương trình ty nạn Đông Dương tôi thường đi thăm các
lớp học ESL và gặp người tỵ nạn trong toàn tiểu bang Washington để lượng giá sự
tiến bộ và có trở ngại gì mới của từng địa phương. Một hôm tôi đi đến trường
Grays Harbor Community College, tôi gặp anh Gary H., người phụ trách chương
trình ESL. Sau khi thảo luận về chương trình dạy xong, Gary H. nói anh ta có
nuôi một đứa trẻ mồ côi Việt Nam. Thiệt là bất ngờ cho tôi. Anh quảnh mặt lên
hãnh diện nói, “Nó là một trong các em đi trong chiến dịch Babylift đó. Một số
trẽ em trong chiến dịch Operation Babylift được máy bay đem về McChord Fort
Lewis Tacoma” nằm sát bên căn cứ quân sự Camp Murray nơi tôi hướng dẩn đoàn người
tỵ nạn Việt Nam đầu tiên đến Camp Murray tạm trú năm 1975. Anh còn cho tôi biết
có một đứa nhỏ khác cũng trong chiến dịch này đã được một cặp vợ chồng trẻ nhận
nuôi và đang ở Raymond. Gary cho tôi địa chỉ và số điện thoại của cặp vợ chồng
trẻ này.
Tôi đến thăm em bé này tại nhà người cha
mẹ nuôi, tôi không còn nhớ tên, thân hình bé bỏng, em nhìn tôi nhưng không cười,
không tránh né như những đứa trẻ khác. Bé rất dễ thương. Người cha nuôi nói với
tôi anh muốn nó gặp người Việt Nam, muốn nó ăn thức ăn Việt Nam để nó biết nguồn
gốc của nó.
Thị trấn Raymond thuộc quận Grays
Harbor, quanh năm sương mù, nhiều ngày ảm đạm vào mùa Đông. Cả thị trấn chỉ có
mấy con đường tráng nhựa, ít người và hoang vu, không có một gia đình người Á
Châu nào ở trong hay chung quanh thị trấn này. Người ở đây muốn ăn một bữa cơm
Á Châu phải đi khoảng 150 cây số mới tìm được một nhà hàng Tàu và nơi này tuyệt
đối không có một nhà hàng Việt. Tôi tự hỏi vì sao đứa bé ở cái tuổi còn quá nhỏ
mà phải đi xa tít chưn trời để rồi không còn nghe tiếng mẹ Việt Nam ru con ngủ.
Nhận thấy hoàn cảnh quá khó khăn. Tôi
đưa anh một số điện thoại của người Việt cư ngụ tại thị trấn Aberdeen cách nhà
anh khoảng 20 dặm để anh đem đứa con nuôi đi gặp các em nhỏ người Việt Nam khác
cho nó vui. Chiều buông xuống, tôi cáo lui, từ giã thị trấn Raymond, bỏ lại sau
lưng đứa bé và cặp vợ chồng trẻ. Tôi vô tình mang theo khuôn mặt buồn hiu của
nó trong tâm trí của tôì cho đến ngày nay.
Đường Bình
No comments:
Post a Comment