Tháng ba định mệnh.
Với những dòng này, mong đóng góp chút
ít tư liệu về cuộc chiến, và những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những
anh hùng không tên tuổi đã nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ gìn miền Nam êm ấm
thanh bình gần 3 thập niên từ sau 1945-1975 ...
…Những ngày cuối tháng 3, trời mưa như
trút nước, cả ngày lẫn đêm, như xót thương cho số phận non sông Bình Định đã
rơi vào tay của lũ vô thần. Qua hơn 2 ngày đêm, chúng tôi không có gì để ăn, ruột
đói cồn cào, quần áo ướt sũng, thiệt đói và lạnh. Chúng tôi đi ngang qua những
đám gò trồng đậu phộng, nhổ lên hy vọng kiếm củ ăn cho đỡ đói lòng, nhưng vào
mùa đó cuối tháng 2 Âm Lịch, củ còn rất non. Chúng tôi rửa bằng nước mưa, nhai
lấy nước mà thôi. Chúng tôi qua những cánh đồng bắp cũng thế , chỉ ngậm lấy nước.
Qua ngày thứ 3, cả ba chúng tôi đều bị tiêu chảy, kiệt sức không còn đi nổi.
Tôi thấy tình hình như vậy, chắc là số phận tôi không xong rồi, nên nói với hai
anh bạn đồng hành:“Tôi không đi nổi nữa rồi, hai anh còn sức cứ đi theo hướng
Đông ra biển may ra còn tàu của hải quân của quốc gia bốc các anh về Sài
Gòn.”Thiệt là cảm động, tuy không cùng đơn vị nhưng hai anh lính nói:
“Đại Uý đi thì chúng tôi đi, ông ở lại
chúng tôi ở lại. Chúng tôi không nỡ bỏ ông ở đây!”
Không còn cách nào khác, chúng tôi đành vào làng, may ra xin được thức ăn và dưỡng bịnh sau đó tiếp tục cuộc hành trình. Sau đêm thứ 3, chúng tôi đến một ngôi làng, trước vài thửa ruộng của ngôi làng có một cái chòi, chúng tôi vào chòi khoảng 2, 3 giờ sáng. Chúng tôi vắt cho khô quần áo, nằm ngủ đợi trời sáng. Sau những ngày đói lạnh, bịnh tật, chúng tôi nằm thiếp đi cho đến khi mặt trời mọc. Sáng hôm đó chúng tôi vào một nhà dân gần đó, để nhờ họ cho cơm ăn và dưỡng bịnh, để có sức mà đi. Chủ nhà là một người đàn bà nhà quê trông cũng bình thường như những bà nông dân khác, không có gì phải nghi kỵ. Sau khi nấu cơm cho chúng tôi ăn xong, chủ nhà chỉ cho chúng tôi bộ ván để lên nằm nghỉ lưng. Ôi thiệt là một bữa cơm ngon nhứt trong đời, dầu chỉ có cơm trắng với bầu luộc và mắm ruốc. Nửa giờ sau, du kích đã vào nhà, súng AK chĩa vào đầu, bắt chúng tôi trói ké dẫn đi. Tâm trạng tôi lúc này chỉ còn biết tới đâu hay tới đó mà thôi. Sự sống còn phó mặc cho số mệnh. Chúng tôi bị dẫn đi nhiều nơi, đôi khi là trụ sở của làng, đôi khi là trường học, có khi là ngôi đình làng. Dần dần số người bị bắt cứ tăng lên. Nhiều khi một ngôi trường Tiểu học nhỏ, mà nhốt số người lên đến hàng trăm. Đêm đến không có chỗ nằm, chỉ ngồi mà thôi. Ôi thiệt là những ngày ghê gớm nhứt của cuộc đời, không biết còn có cảnh khổ nào hơn không?
Chúng tôi không được cho ăn uống chi cả.
Tự ai có gì nấy ăn mà thôi. Ngày hôm sau, chúng tôi bị dẫn về hướng Tây, không
gian vô định, ai biết mình sẽ bị đưa về đâu, và sống còn đến ngày nào. Khoảng
thời gian này, không có một quy ước hay chính sách gì cả, hễ ai bất tuân bọn
chúng, thì coi như bị bắn bỏ. Trong đoàn chúng tôi đi, có một binh sĩ còn trẻ,
không dè dặt với chúng, đôi khi anh ta đi ngoài hàng một chút thì bị bọn chúng
lôi ra bắn ngay. Thiệt là dã man! Chúng muốn bắn để khủng bố tinh thần của mọi
người. Ôi sinh mạng con người nhỏ hơn là con ong, cái kiến. Dọc đường quốc lộ
19, từ Bình Khê lên đến chưn đèo An Khê, trước kia có lực lượng của SĐ 22 Bộ
Binh trấn đóng. Tôi không nhớ rõ là Tiểu Đoàn nào, nhưng thuộc Trung Đoàn 41.
Trước đây có một trận đánh thiệt là ác liệt, hai bên vệ đường tử thi của các
chiến sĩ VNCH nằm la liệt, có lẽ đã xảy ra gần nửa tháng rồi, cơ thể bắt đầu
sình thúi chỉ thấy quân phục và sọ người trắng hếu. Một số tử thi khác thì còn
loang lổ một ít tóc trên phần sọ đã rữa. Mùi tử khí xông lên nồng nặc khắp trời.
Ôi chiến tranh và thân phận con người, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của bà Đoàn
Thị Điểm:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn…..
Vào thời gian này, tôi không còn nhớ rõ
là mình đã nghĩ gì, chỉ có một con đường, chúng muốn đưa mình đi đâu thì mình
theo đó thôi, mặc cho số phận đẩy đưa, cuối cùng cùng là giải thoát kiếp người.
Chúng tôi đi đến ngày thứ 3 thì đến một trại trước kia là mật khu của chúng. Trại
này nằm trong rừng sâu, cách đèo An Khê khoảng 50 km từ hướng Bắc. Cả mấy ngày
đi, chỉ ăn được một lần, chúng tôi đi ngang 1 địa phương thì được đồng bào nấu
cơm gói sẵn bằng lá chuối phát cho chúng tôi mỗi người một gói không biết là lịnh
của họ hay lòng tự nguyện của đồng bào. Đến gần phạm vi của trại, chúng dừng lại
để nghĩ và chuẩn bị cho chúng tôi nhập trại, trong lúc này tôi gặp lại một số
anh em binh sĩ trong Pháo Đội, thiệt mừng và thiệt tủi cho thân phận những kẻ
chiến bại. Thời điểm này chúng bắt giao nộp hết tư trang như đồng hồ, bút máy,
nhẫn….Tôi thấy chúng dùng nón để thu, không ghi sở hữu của ai cả. Tôi biết bọn
này muốn lấy không rồi, tôi làm dấu cho anh thường vụ Pháo Đội giấu chiếc đồng
hồ Boulevard Sport của anh, khi đi đến bờ sông có 1 số người Thượng đứng bán
chuối hoặc cơm. Chúng tôi đổi chiếc đồng hồ lấy 1 nắm cơm muối mè gói lá chuối,
hai thầy trò chia nhau ăn cho qua cơn đói lòng. Thiệt là: “Đoạn đường ai có qua
cầu mới hay”, vật chất chỉ có giá trị khi thời gian thích hợp. Còn với thời
gian này, vật chất dù cao quáy thế nào cũng không qua nổi một gói muối mè.
Thế là chúng tôi lần lượt vào trại. Sĩ
Quan đều bị đem đi cùm, từ Thiếu Úy trở lên là bị cùm. Số lượng SQ bị bắt mỗi
ngày một đông, chúng thả cấp nhỏ, cùm cấp lớn. Bắt được Đại Uý cùm Đại Uý thả
Thiếu Uý. Cứ như là cấp số cộng. Phải nói bạn nào có thời gian ở trại Vĩnh Thạnh
khi đọc dòng hồi ký này, không thể nào quên được một nơi gọi là ĐỊA NGỤC TRẦN
GIAN đúng nghĩa của nó, không nơi nào ghê sợ hơn. Vì trại nằm trong rừng sâu,
Lam sơn chướng khí. Tổng số binh sĩ bị bắt vào thời điểm cao nhất ở đây có thể
lên đến cả ngàn người, nhưng sau hơn 4 tháng, số tử vong lên đến cả trăm. Sốt
rét chết, đói mà chết, bị đánh mà chết. Các đơn vị bộ đội cộng sản ở đây đa số
đều là những cán binh CS trở về từ Côn Đảo, lòng nung nấu thù hận. Họ muốn trả
những trận đòn thù trên các người lính Cộng Hòa còn chút sĩ khí đã ở lại chiến
đấu để bảo vệ quê hương. Có 1 anh Trung Úy người miền Nam trước kia nguyên là
giáo sư bị bắt vào trại cùng thời gian với chúng tôi, vì quá căm phẫn trước sự
hành hạ của bọn chúng, nên chạy ra vọng gác giựt súng AK của tên bộ đội đang
gác cổng nhưng không thành công vì cơ thể suy nhược, ăn uống thiếu thốn làm sao
khoẻ bằng chúng. Sau khi giựt súng không được, anh ta bị rược chạy vòng vòng
trong trại. Vì trại quá đông người nên chúng không bắn được. Vì không còn đường
thoát, anh ta chạy đến bên những chảo nước đang nấu để cho tù uống và nhảy vào
chảo! Thiệt là rùng rợn và thương tâm! Chúng dập tắt lửa, mang anh ta ra ngoài,
nhưng anh ta vẫn còn sống. Anh ta chửi rủa bọn Cộng Sản luôn mồn:
“Đả đảo Cộng sản. Quân dã man khát máu”.
Chúng cho khiêng anh vào trạm xá. Thiệt
ra chỉ là một cái nhà nhỏ, vài lọ thuốc, vài lọ cồn mà thôi. Anh ta vẫn chửi
liên hồi. Chúng lấy đất sét cho vào miệng, lấy cây dọng cho đến khi hết thở.
Ôi! các bạn có hình dung được con người hay là ác quỷ nhỉ. Tôi có người bạn ở
cùng quê tên Phan Duy Liêm, cấp Tr/Uý ĐĐT/ĐPQ cũg bị bắt vào trại này, tôi
không nhớ anh đã làm gì phật ý chúng mà buổi chiều hôm đó, tôi chứng kiến tận mắt,
3 tên bộ đội đứng 3 góc đánh anh từ góc này văng sang góc kia, như là người ta
chuyền bóng. Là thân phận tù sao dám chống trả chúng. Sau khi anh được thả ra,
lục phủ đã bị dập nát, đã bị tổn thương. Mặc dù thời gian sau được gia đình tiếp
tế thuốc men chữa chạy, sau hai năm hao tổn, anh đã lìa đời, bỏ lại một vợ và một
con thơ, là bà con họ hàng với gia đình tôi.
Ở đây khí hậu chưa có một nơi nào dễ sợ
hơn. Danh từ sơn lam chướng khí thiệt là đúng nghĩa của nó. Các nhà giam (lán)
được cất dưới những tàng cây cổ thụ, suốt ngày ít khi thấy ánh sáng mặt trời,
sương buổi sáng rất nặng và dày đặc, 9 hay 10 giờ mới thấy mặt trời, máy bay
thám thính cũng chỉ thấy toàn màu xanh của rừng. Khoảng hơn tháng đầu chúng
chưa cho đi làm, mỗi ngày chỉ phát hai nắm cơm bằng một bát trung bình, vơi chứ
không đầy, mì khô hết 80%, vài hột gạo có thể đếm được, tất cả chúng tôi đều
đói và sốt rét.
Ở đây trung bình một tuần sốt rét 3 lần.
Sốt thì nằm, dậy được thì đi lao động, xuống trạm xá khai bệnh, cặp nhiệt độ 40
độ C, cho vài viên Nivaquine, 39 độ trở lui, thì chúng cho uống một thứ rễ cây
tên là “mật nhân”. Trên đời nà y chưa có thứ nào đắng như thứ này, uống xong
quay đi là nôn thốc, nôn tháo, nôn đến mật xanh, mật vàng, lần sau sốt hoặc nằm
liệt không dám khai bịnh nữa, hết sốt thì dậy đi làm. Con người thiếu ăn, thiếu
dinh dưỡng, sốt rét triền miên, nên chúng tôi trong như những thây ma còn sống.
Da mặt thì vàng bệt, xám ngoét, mắt trũng sâu, chân đi siêu vẹo, quần áo tả
tơi. Ôi! chúng tôi thật là tới tận cùng của địa ngục. Chúng tôi nào có tội tình
gì, chỉ biết cầm súng bảo vệ quê hương không có một ý đồ bất chính, không có một
tham vọng nào làm tổn thương đến giá trị vật chất hay tinh thần của con người,
tại sao chúng tôi lại phải bị trừng phạt một cách khủng khiếp như thế? Có những
lúc tuyệt vọng, anh em nói đùa:
“Chúa hay Phật gì cũng bỏ chạy hết rồi
còn đâu mà cầu nguyện.”
Sau hơn 3 tháng tôi bị bắt, gia đình tôi mới được tin tức. Vợ tôi từ Phan Thiết ra Bình Định đến trại 3 Vĩnh Thạnh để thăm, thiệt là một chặng đường vất vả. Vì xe cộ không có, vợ tôi phải đi bộ khoảng 50km đường rừng, phải ngủ lại ở trại 2 rồi mới lên trại 3 được. Biết bao nhiêu gian nan và sợ hãi, khi được gặp mặt, vợ chồng tôi nhìn nhau nước mắt lưng tròng, hỏi thăm vài câu sức khoẻ, đâu còn lời nào để nói. Và biết nói gì hơn khi mỗi bàn có hai bộ đội ngồi bên cạnh, súng AK lăm lăm, nói được gì đây. Về nhà, vợ tôi bị sốt rét chữa trị gần 2 năm mới bình phục. Thời gian ấy, vợ tôi phải truyền sérum liên tục, thế mới biết rừng thiêng nước độc đến cỡ nào. Sau đó thân phụ tôi đi thăm một lần, về cũng bị sốt rét liên tục. Từ đó về sau, chỉ có em trai tôi còn khoẻ mạnh đi thăm mà thôi.
Có những lúc đói quá, mắt đổ đom đóm
vàng khi nhì thấy các anh em khác có người tiếp tế, có đồ ăn. Muốn quên đi, tôi
chỉ còn biết ra gốc cây ngồi luyện Yoga cho quên đi nỗi đói khát, bịnh tật. Ai
có biết sách lược triệt hạ kẻ thù, không sợ chúng phản kháng là làm cho chúng
đói triền miên, không bao giờ cho chúng ăn đủ no. Suốt ngày tư tưởng lẩn quẩn,
mong có cái gì bỏ vào miệng, vào bụng mà thôi, không còn nghĩ được thứ gì khác
trên đời. Ôi con người có những lúc phải như thế này ư? Tôi có đọc cuốn Tiểu
Đoàn Trừng Giới của Erich Maria Remark, nhà văn Đức, tù binh Đức, cũng bỏ vào
các trại tập trung cũng đói như chúng tôi, nhưng thời gian ngắn hạn và không bịnh
tật. Còn chúng tôi đói dài hạn và bịnh tật triền miên. Tôi còn nhớ vào thời
gian cò ở quân ngũ, tướng độc nhãn Mó Dayan của Do Thái có qua thăm trường Võ Bị
Đà Lạt, đã nói:
“Muốn chiến thắng Cộng Sản, phải sống với
Cộng Sản”.
Xin những ai, có làm chính khách, chưa
bao giờ biết ngục tù Cộng Sản, thì xin nghĩ đến bao nhiêu anh hùng đã hy sinh,
bao nhiêu triệu đồng bào còn đang sống vất vưởng nơi quê nhà, vật lộn với miếng
cơm manh áo hàng ngày vì phương châm “làm cho tập thể, hưởng theo nhu cầu” của
chúng. Và cả một thế hệ chúng tôi tù đày oan khiên, khổ nhọc, thì chớ nên phụ
quá khứ một thời tự do, dân chủ, thanh bình của miền Nam Việt Nam.
Ở trại này có những cách giết người rất
dã man. Các bạn có biết, một cái nhà cùm kín mít, bên trong là một dãy khóa lại,
tất cả việc ăn uống vệ sinh đều tại chỗ, đó là cùm thông thường. Nếu chúng muốn
tra tấn ai, cho hai chưn vào hai lỗ chéo nhau, chân phải lỗ bên trái, chân trái
lỗ bên phải, dưới mông ngồi có một cây đà vuông thông ra ngoài, xuyên qua một
cây trụ thẳng đứng khoét một lỗ hình chữ nhựt, để cây đà vuông có thể di chuyển
được từ thấp lên cao, chúng gọi là cùm yên ngựa. Mỗi lần nâng cây đà lên là ống
quyển bị ép vào lỗ cùm. Bên ngoài chúng dùng một miếng nêm hình tam giác để
đóng, mới đầu đóng là tù nhơn la thất thanh sau đó im dần…im dần, tù nhơn đã hết
thở. Ôi địa ngục ở đâu, có lẽ còn ít sợ hãi hơn nơi này. Chúng tôi bị nhốt
trong một cái lán gần bên nhà cùm. Đêm đêm nghe tiếng la thất thanh xé tâm can,
rồi dần , im dần và tắt hẳn… Thế là một người đã ra đi không biết là tốt hay xấu
với chúng tôi, biết đâu vài hôm đến lượt mình.
Ở đây có những cái chết rất kỳ lạ, buổi
sáng còn ngồi chơi nói chuyện, vì là ngày Chúa Nhựt, anh bạn ở cùng quê, Đ/Uý Dậu
TĐT/CB, ngồi ngã ra, quay quay như gà mắc toi, đem xuống bịnh xá, chừng 1 giờ đồng
hồ sau thì chết. Khí hậu thật là rùng rợn, sinh mạng con người còn thua những
loài côn trùng. So với tù binh của Đức Quốc Xã thời Đệ Nhị Thế Chiến đâu có
khác gì nhau.
Sau một tháng nhốt một chỗ, chúng tôi được
chia ra để đi lao động. Những công việc chính là nhổ mì, trồng mì, và làm cỏ
mì. Buổi sáng tù tập trung do 1 hoặc 2 tên bộ đội dẫn đi tới những bãi mì trong
núi hoặc trên đồi cao. Chúng tôi dàn hàng ngang, mỗi người một cái cuốc, dùng để
cuốc cỏ xung quanh cây mì. Cây mì mới mọc cao chừng 5cm hay một tấc, rất dễ lẫn
lộn với cỏ. Chúng tôi đâu phải nhà nông chuyên nghiệp, từ nhỏ cha mẹ đã hy sinh
gian khổ, nuôi con ăn học, mong con sau này thành đạt đâu nghĩ đến việc phải
dùng cái cuốc, cái cày. Ôi công lao của cha mẹ lo lắng nuôi con trong thời điểm
này hình như đã sai đường. Nếu chẳng may chúng tôi cuốc gãy cây mì chúng thấy được,
thì báng súng AK vào đầu, vào cổ, mũi súng thọc vào sườn, vào bụng.
Anh bạn tôi là Đ/Uý Dậu có lẽ bị đòn thù
trong trường hợp này, nên đã mất đi vài tuần sau đó, trong bữa sáng Chủ Nhật mà
tôi vừa nói ở trên. Thiệt là thê thảm, những tù nhân chẳng may mà mất đi, chúng
quấn bằng miếng vải ni lông, dùng để làm áo mưa, xung quanh kẹp 7 nẹp tre, quấn
lại như một khúc dồi lớn. Hai người khiêng, hai người đào lỗ ngoài rừng rồi lấp
đi. Xong chúng cắm một cái bảng nhỏ viết tên tù nhân bằng sơn. Với 2,3 tháng nắng
mưa, thì không còn biết ai là ai nằm đó nữa. Vì thế gia đình anh Dậu đã cố gắng
nhiều lần, nhưng vẫn không tìm thấy xác anh ở đâu để đem hài cốt của anh về mai
táng nơi quê nhà.
Rất may là khoảng tháng thứ 5 chúng tôi
chuyển trại, lúc này đại đa số là Quân, Cán, Chính VNCH đã bị bắt hoàn toàn,
không còn 1 lực lượng nào trong nước có thể đối kháng và phá hoại chúng được.
Chúng thành lập những Tổng Trại Tù Binh để quản lý. Một Tổng trại như thế do cấp
Trung Đoàn chính quy quản lý do Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Đồng ký, mục đích
là để trấn an dân chúng và để trình làng với Quốc Tế. Giai đoạn cuối ở địa ngục
này, tôi bị sốt rét hành hạ liên tục, có lẽ đã xâm nhập vào gan, lá lách hay thận.
Người tôi vàng vọt, xám ngoét, mắt trũng sâu, bụng ỏng, chân thì dần dần to ra
như chân voi bước đi không nổi nữa. Chúng tôi được đưa xuống Tổng trại 4 An Trường.
Ôi, thiệt là một cuộc di chuyển có khác nào như chở heo, chở gà ra chợ để bán!
Một chiếc xe Motolova như vậy chở xấp xỉ cả trăm người, người sau phải bám người
trước cho chặt, nếu không khi xe quẹo, quán tính của trọng lượng sẽ làm văng những
người sau ra ngoài mà chết. Súc vật đem bán cần sống, cần khoẻ chứ chúng tôi
thì không….
Tôi được đưa xuống trại 1 của Tổng Trại
4, nhờ gia đình tiếp tế, thuốc men đầy đủ, và ở trại này, chế độ ăn uống có phần
dễ thở hơn, nên tôi đã dần dần hồi phục và giữ được cái mạng còm cho đến hôm
nay. Phải nói rằng sáu năm tù đày, thời gian ở trại này là tương đối dễ chịu nhứt
so với các trại khác. Vào thời điểm này, đa số anh em đều tin rằng sau 3 năm rồi
thì thế nào cũng được thả về, nhưng thiệt sự là một sự lầm lẫn to lớn. Lời nói
của chúng như những bó cỏ treo trước đầu con ngựa đang kéo xe, cỏ thì nhìn thấy
đó, nhưng con ngựa có bao giờ ăn được đâu?….Những ngày kêu thẩm vấn, tự khai,
ui thực... là khổ sở. Nói thế nào chúng cũng không tin. Hỏi:
“Từ ngày anh tham gia nguỵ quân, ngụy
quyền đến giờ giết bao nhiêu cách mạng?”
Tôi trả lời:
“Tôi là đơn vị Pháo Binh yểm trợ, họ yêu
cầu tác xạ ở đâu, chúng tôi bắn ở đó. Kết quả do các đơn vị Bộ Binh tham gia họ
ghi nhận và báo cáo, chúng tôi đâu có trực tiếp tham dự ”
Hỏi:
“Anh nói anh không giết cách mạng sao họ
cho anh mang lon Đ/Uý sớm như vậy?”
Tôi trả lời:
“Theo chế độ đào tạo SQ tại miền Nam, có
bằng cấp mới được chọn, 1 năm Chuẩn Uý, được thăng Thiếu Uý, 2 năm Thiếu Uý được
thăng Trung Uý. Sau đó khoảng 3 năm đủ điểm thì lên Đ/Uý.”
Nhưng dù có nói thế nào chúng cũng chẳng
tin. Và cứ như thế hết ngày này đến ngày khác, tôi cứ bị kêu liên tục, hỏi hơn
cả tháng, chúng cứ xoáy vào một điểm là giết hại bao nhiêu cách mạng. Cuối cùng
tôi phải moi một trận yểm trợ nhớ mang máng theo kết quả của Bộ binh báo cáo,
là địch quân tổn thất vài chục chúng mới hết hỏi. Ai có ngờ đâu đó là cái giá
treo cổ mà mình tự gánh vào, sau này chúng cho là thành phần ác ôn có nợ máu với
nhân dân….
Thời gian ở Tổng trại này hơn 1 năm, sau
đó có lẽ tình hình thanh lọc tù nhơn giảm dần, chúng tôi chuyển từ tổng trại
này sang tổng trại 5 thuộc các đơn vị tỉnh Phú Yên quản lý. Trại này cũng là một
trại sắt máu, chúng tôi làm việc như lao động khổ sai, và cơm thì không bao giờ
được ăn no. Có một vài anh em bỏ mạng vì đốn cây rừng cho chúng, cây đè mà chết
hoặc thương tật suốt đời. Các bạn từng xem những phim La Mã thời Caesar, các nô
lệ kéo gỗ hay kéo đá, chúng tôi cũng vậy. Một khúc gỗ súc dài 4 hoặc 5 mét, đường
kính khoảng 7 tấc, xỏ 4 dây thừng, mỗi bên 4 người khiêng. Đường từ trên núi,
leo dốc, xuống ghềnh hiểm trở, nếu rủi ro mà té ngã thì coi như cái mạng đi đoong.
Súng AK thì lăm lăm, sẳn sàng nhả đạn nếu chúng tôi tìm đường chạy trốn. Ôi, nếu
so sánh, chúng tôi và nô lệ thời Trung Cổ của La Mã có khác gì nhau đâu.
Tôi còn nhớ nằm cạnh tôi có ông bạn già
là Tr/Tá ĐN Thanh trước 75 là CHT Quân Cảnh Quân Khu 2, và có thời gian Tr/Tá
Thanh đã từng làm Trưởng trại giam tù phiến cộng ở Phú Quốc. Có một ngày họ
phân công tôi và bác Thanh là 1 cặp trong toán chặt gỗ làm nhà, chỉ tiêu dài
sáu mét, đường kính từ 1.5 đến 2 tấc, phải là gỗ tốt, lá nhỏ, vỏ mỏng. Tôi và
bác Thanh phải lên núi cao tìm gỗ vì dưới thấp không còn nữa. Sau khi chặt
xong, tôi và bác Thanh khiêng về trại. Vì lúc đó tôi còn trẻ nên nghĩ rằng mình
khiêng phần gốc để bác Thanh phần ngọn nhẹ hơn. Từ trên triền núi cao, tôi lao
xuống dốc vì nặng quá, không kềm được, nên đã té ngã nhiều lần. Rốt cuộc để khỏi
tai nạn, bác Thanh dành khiêng phần gốc vì thật sự mà nói, bác rất khoẻ và rất
đô con. Tối về sinh hoạt kiểm điểm xong, bác nằm và than sao đau lưng và khổ
quá. Bên cạnh tôi có anh bạn Luật sư Lê Đình Khang nói nhỏ:
“Bác khổ là vì hồi đó bác hà tiện quá
mà.”
Bác càu nhàu hỏi:
“Hà tiện gì?”
Anh bạn Khang nói:
“Nếu hồi đó bác sắm bao tải cho nhiều, cứ
mỗi chuyến C130 chở tù phiến cộng từ Sài Gòn ra Côn Đảo, bỏ hết vào bao ném xuống
biển, thì đâu có ngày hôm nay.”
Bác và chúng tôi cùng cười, quên đi nỗi
đau đớn nhọc nhằn.
Trong thời gian ở trại này, chúng tôi chứng
kiến một cảnh thương tâm. Có một số anh em trốn trại nhưng không thoát được,
tôi chỉ nhớ tên 2 người là T/Tá Giang và T/Tá Phước, 2 người còn lại tôi không
nhớ được. Chúng cho làm mỗi người một cái lều, như lều cắm trại, sát mặt đất,
có khung bằng ván để nằm, làm hệ thống cùm dưới chân bằng gỗ, khóa lại suốt
ngày đêm, trông giống như những chiếc nhà mồ nằm ngay tại vọng gác trước mặt trại.
Chúng tôi ngày nào lao động cũng phải đi ngang qua, trông thật đau xót và
thương tâm, nhưng đâu biết làm sao khác hơn….
Vào một đêm, bỗng dưng lửa cháy các
chòi, chòi của T/Tá Giang là nặng nhất. Họ được đưa đi bệnh viện Tuy Hòa để cấp
cứu. T/Tá Giang phải cưa hai chân đến đầu gối. Các bạn khác đều bị phỏng nhưng
cũng được lành. Chúng tôi đều nhận định rằng chúng muốn đốt cho chết rồi cho là
tai nạn, vì các chòi nằm giữa miếng đất trống thì sao lại có hỏa hoạn.
Khoảng 5 tháng sau, họ thả anh Giang về.
Gia đình từ miền Nam phải lo phương tiện di chuyển anh, sau 1975 gạo còn không
đủ ăn, làm sao mà sắm xe lăn. Tôi nghe sau này hình như anh đã quyên sinh vì
nghịch cảnh gia đình. Ôi thân phận con người, thân phận của những kẻ chiến bại,
dưới nanh vuốt của một lũ bạo tàn nhứt và dã thú nhứt trong lịch sử của nhơn loại.
Và cuộc đời chúng tôi cứ kéo dài như thế
thôi, niềm tin được thả về còn xa lắm, chỉ khi nào sức cùng lực kiệt, chúng bảo
gì nghe đó, sự đối kháng không còn nữa, may ra mới được về, lúc đó liệu còn sống
sót bao nhiêu người đây. Phần cá nhân tôi, có một hôm, tôi bị sưng chân phải đi
cà nhắc, xuống trạm xá được cho làm việc nhẹ . Buổi sang 1 tên bộ đội vào kêu
chúng tôi đi làm, thấy tôi không chuẩn bị, hắn hỏi tại sao, tôi trả lời đau
chân, trạm xá cho làm việc nhẹ. Hắn trừng mắt, giơ súng lên và bắt tôi đi làm với
đội. Tôi phải cà nhắc theo đội để đi làm. Đứng cuốc đất suốt ngày bằng 1 chân,
ngày hôm sau chân kia sưng phù lên. Thế là tôi phải nằm liệt mấy ngày. Ôi, bạn có
hình dung được chúng tôi phải chịu đựng như thế không?
Sau hơn 3 năm chúng tôi được chuyển giao
cho ngành Công an quản lý. Chúng tôi thuộc loại tù chuyên nghiệp, được chuyển đến
trại A30 ở Tuy Hòa. Trại này tập trung đủ các thành phần, hình sự, vượt biên,
những người bị bắt năm 78,79 họ gọi là phản động, và chúng tôi từ các tổng trại
5, tổng trại 8, Trại Lam Sơn, Trại Thanh Bình, v.v….Cảm nghĩ của tôi khi đến trại
này là thôi, thế là cuộc đời gắn liền với chữ Tù. Giống như nhân vật Papillon của
Henrie Chariere. Ở tù không biết tại sao mình ở tù, ngoại cảnh đưa đến mà mình
không tài nào vùng vẫy được. Hay gần giống như nhân vật chính trong tác phẩm
“Giờ thứ 25″ của một nhà văn Nga tôi không nhớ rõ tên. Hết ở tù bởi quân Đức, rồi
đến Nga, rồi đến Đồng Minh, khi ra đi thì mới lấy vợ, khi về vợ đã 3 con rồi, mỗi
quốc gia, một đứa.
Dưới tay Công An quản lý, thiệt là một sự
xảo quyệt của con người, tinh vi đến mức không thể nào diễn tả được. Ở đây cũng
thiếu thốn và đói như những trại khác, nhưng ở đây thì gia đình thăm nuôi, tiếp
tế cho nhận thoải mái. Mục đích của chúng, cứ cho người nhà thăm nuôi ăn cho
no, làm việc cho chúng vượt chỉ tiêu, thì đâu có gì tốt bằng đâu nào. Các trại
khác thì thân nhân thăm nuôi chỉ cho đem quà, bánh, thức ăn không cho nhận gạo.
Ở trại A 30 này, không tiếp tế gạo cho tù nhơn là một thiếu sót lớn. Lần thăm
ban đầu gia đình tôi không biết, sau mới hiểu ra gạo là chính. Đến A 30, chúng
tôi khai phá những cánh đồng ngút ngàn. Tất cả những cánh đầm lầy biến thành ruộng
xanh ngút tầm mắt, và những cánh đồng mía chỉ thấy đường chân trời, tầm mắt
không thể nhìn hết. Chúng lại lên lớp:
“Ta làm ta hưởng. Lao động là vinh
quang.”
Ôi thiệt là bực lỗ tai. Sao có những con
người, chỉ biết nói và không cần thái độ của người nghe. Chúng tôi làm cho họ
hưởng, nếu gia đình chúng tôi không nuôi thì chúng tôi đã chết đói rồi.
Ở đây có một trường hợp, anh Đ/Úy Thức
đơn vị Dù, tôi không biết Lữ Đoàn mấy vì ở khác lán. Buổi chiều đi lao động về,
anh gặp tên Tr/Tá Hạnh Công An Giám Thị trưởng Trại A 30 hỏi thăm và nói gì đó,
sau lên lớp…Vì hắn quá trâng tráo và dối trá nên anh Thức dằn không nỗi nhảy
vào đánh tên Giám Thị trại. Công an phòng vệ đã nhào vô bắt và đánh anh Thức,
không thể nào diễn tả được. Chỉ biết sau khi đánh xong, chúng bỏ anh vào xe cút
kít đẩy vào chỗ biệt giam thì thấy anh như một đống thịt, máu me đầy mình! Ôi
con người đến thế thì thôi! Tôi nghe sau đó họ đưa anh xuống bệnh viện Tuy Hòa
để điều trị và nghe đâu hình như có người bà con làm lớn ở Hà Nội lãnh anh đem
về nhà. Từ đó đến nay, không còn được nghe gì hơn nữa, không biết anh có còn sống,
và nếu như có đọc những dòng này của tôi, thì xin anh nghĩ, lúc đó chúng tôi rất
căm phẫn chúng nó, và xót thương anh nhưng chúng tôi đành bất lực……
Tôi cũng không biết nói sao, vì mỗi con
người có trình độ nhận thức khác nhau, phải nói rằng nếu nghị lực không đầy đủ
thì sẵn sàng làm tay sai cho chúng. Có một ngày, chúng tôi đang cuốc cỏ thì tên
Công An quản giáo kêu tôi ra giữa đám mì, giở trò giáo đầu là tôi lao động lấy
lệ, sinh hoạt không chịu phát biểu, ù lì, là thành phần chống đối ngấm ngầm,
như vậy làm sao tiến bộ, cách mạng xét cho các anh về. Tôi muốn bật cười nhưng
không dám, vì nó đã nhàm với chúng tôi. Nghe bao nhiêu năm rồi. Tôi lặng thinh,
hắn nói tiếp:
“Bây giờ anh muốn thể hiện cho chúng tôi
thấy sự tiến bộ của anh thì anh phải theo dõi báo cáo tư tưởng của anh nào chống
đối cách mạng, ai phát biểu những gì bất lợi cho cách mạng. Báo cáo trực tiếp với
tôi, hay bỏ vào hòm thư trước trại.”
Tôi phải trả lời hắn theo sách vở:
“Thưa cán bộ, nhiệm vụ chúng tôi ngoài
việc học tập lao động, tôi còn phải báo cáo ngay nếu phát hiện được những thành
phần nào trốn trại.”
Hắn nói:
“Tôi yêu cầu anh báo cáo những anh nào
phát biểu chống đối kìa.”
Tôi vâng lấy lệ. Khoảng tháng sau, hắn
kêu tôi ra lần nữa vì không thấy báo cáo của tôi, hắn hỏi:
“Tôi không thấy báo cáo nào của anh hết,
anh là thành phần ngoan cố, chống đối.”
Tôi nói:
“Tôi có để ý một hai bữa, thấy anh em ai
cũng an tâm, đâu có nói gì, thành tôi không có gì để báo cáo.”
Hắn đơn cử một vài lời nói mỉa mai của
vài anh em. Tôi nói:
“Anh em vui miệng nói đùa, tôi không để
ý.”
Thế là hắn lôi tôi ra, dùng báng súng đập
cho một trận. Tôi mang thương tích và nước mắt căm hờn về trại, cơm nuốt không
vào. Không phải đau mà khóc nhưng uất hận làm cho nước mắt tuôn trào. Tối hôm
đó một vài anh em mang thuốc giảm đau và dầu xoa bóp cho tôi, thật là an ủi. Dầu
sao chúng tôi cũng còn có nhiều anh em nghĩa khí và có tình người.
Bọn hắn cũng có mắt chọn người lắm. Mỗi
ngày chúng tôi đi cuốc đất, cả đội dàn hàng ngang, chỉ tiêu mỗi người 4 mét chiều
rộng và 200 mét chiều dài, chúng chọn một tên kêu ra nói nhỏ:
“Anh ráng cuốc 250 mét, kỳ sau gia đình
anh lên thăm nuôi tôi sẽ can thiệp với trại để cho anh được gặp gia đình ban
đêm.”
Ôi, một sự hứa hẹn tuyệt vời. Tù nhân
nào lại không muốn hàn huyên với gia đình sau bao nhiêu năm dài ngăn cách, bao
nhiêu biến cố vật đổi sao dời. Có người suy nghĩ chín chắn thì thấy là chuyện
đau khổ thêm cho vợ mình, có người chuộng vật chất thì cho đó là một đặc ân của
Cộng Sản. Thật là một thủ đoạn quá tinh vi. Thế là hôm sau, tên được kêu cuốc
vượt trội hơn anh em khác. Tối về họp kiểm điểm chúng nêu ra:
“Anh A cũng như các anh, cùng sức vóc,
cùng tiêu chuẩn ăn uống như nhau. Người ta cuốc được 250 mét, các anh cuốc có
200 mét, lại kêu không đủ giờ, chứng tỏ các anh làm cầm chừng, lười lao động.
Bao giờ các anh mới tiến bộ đây?”
Bắt đầu từ ngày đó, chỉ tiêu là 250
mét/ngày. Chúng tôi cuốc từ sáng sớm đến chiều tối, tay chân rã rời, tai như bốc
khói. Trên đường đi về trại, thân thể rã rời ngất ngưỡng như người mộng du, vì
sức đã cạn rồi. Chúng tôi chửi thầm, ôi những thằng ngu, nào dám chửi thẳng vào
mặt, nó mà báo cáo một phát là biệt giam, hai chưn vào cùm, làm bạn với gián…..
Ở đây cũng có tổ chức những đêm văn nghệ,
diễn viên là các em vượt biên bị bẳt. Các em còn rất trẻ, có em đã bị bắt vào
đây đến 3 lần, thật đáng thương. Họ cho tập dượt, và cho trình diễn những đêm
thứ 7, chủ nhật hay các ngày lễ của chúng. Nội dung hình như chúng tôi gần như
thuộc lòng, vì xem đi xem lại, tháng này qua tháng khác. Khi nào tổ chức văn
nghệ là chúng lùa hết ra sân vận động, không được ở lại trong trại. Tôi và anh
bạn Thắng đem áo mưa ra để nằm ngủ, chúng bắt gặp. Thế là hôm sau chúng họp kiểm
điểm là chúng tôi không chịu tiếp thu văn hóa cách mạng, thành phần bướng bỉnh
ù lì. Có những trò khác, bọn chúng mị dân, mà ngay cả một số gia đình chúng tôi
cũng nghĩ chúng là nhân đạo. Thí dụ sau khi cho vợ con thăm nuôi, tiếp tế, tối
còn cho gặp. Ngày hôm sau, gia đình về, chúng đưa sổ cho thân nhân viết cảm tưởng.
Chúng đem trình làng với đồng bào ở ngoài hay các phái đoàn quốc tế viếng thăm.
Chúng đem khoe khoang cũng như phổ biến trong trại, thế thì nhân đạo quá đi chứ,
thử hỏi có thân nhân nào dám viết lời không tốt cho chúng đâu.
Ở trại này, trước khi chúng tôi chuyển đến,
có nghe kể lại một chuyện thương tâm. Là có số anh em giựt súng tên Công An định
bỏ chạy nhưng bị một tên Tr/Tá của ta ôm lại để cho Công An bắn chết 1 hay 2 đồng
đội của ta. Cả trại rất căm phẫn và khinh bỉ tên này. Khi chúng tôi đến trại A
30 thì tên này đã được bọn Cộng Sản cho định cư vùng kinh tế mới Mai Liên do trại
quản lý và được đem gia đình đến sinh sống vì hắn có công với cách mạng. Tên
này là Tr/Tá Lập trước kia làm Quận Trưởng quận Vạn Ninh, tôi biết vì vợ của hắn
có chút bà con xa với gia đình tôi. Những năm sau khi được phóng thích về, có một
lần tôi ghé thăm gia đình cha mẹ vợ hắn, thì mới hay việc đời có vay, có trả,
thời gian sau vợ hắn đã bỏ hắn, sống với người khác rồi.
Những khổ hình ở trại làm sao mà nói cho
hết, tôi chỉ ghi lại những điều mình nghe, mình chứng kiến để bạn đọc suy nghĩ
thấy cái bạo tàn, quỷ quyệt của chế độ để đem một chút ánh sáng cho những ai vì
một chút quyền lợi riêng tư mà muốn cái gọi là ” hoà hợp hòa giải với Cộng Sản”.
Các bạn có biết, cảnh đời tù tội là đắng cay, khổ nhọc nhưng cũng có lắm chuyện
cười ra nước mắt. Chúng tôi là những thành phần gồm sinh viên, giáo chức, cán sự,
hay hành chính bị động viên. Dẫu sao, với xã hội miền Nam thời đó chúng tôi
cũng là thành phần gọi là trí thức chút ít. Từ nhỏ cha mẹ sinh ra đã hy sinh
cho con ăn học những mong cho con mình đỗ đạt, cho cuộc sống vững vàng, chúng tôi
nào có quen các cuốc, cái cày. Khi bị bắt vào đây chúng xem bọn tôi như một lũ
ăn hại, vô tích sự.
Có một ngày đội chúng tôi đi cày lần đầu,
các bạn có biết, trâu bò cũng quen với ngôn ngữ địa phương. Ở miền Trung từ
Bình Định trở vào, muốn bò quẹo trái thì gọi Thá, muốn bò quẹo phải thì gọi Dí,
muốn chúng dừng lại thì gọi Dò. Còn ở vùng Quảng Trị muốn quẹo trái thì gọi Tắc,
muốn quẹo phải thì dùng Rị, và muốn dừng lại thì dùng Họ. Hôm đó mỗi người được
phát một cặp bò và 1 cái cày, có một anh người Quảng Trị cầm cày và cầm roi điều
khiển bò, cứ dùng hết Tắc rồi Rị, bò nó không biết đi đâu, nó quẹo lung tung.
Bò đi mãi gần đến bờ rào đụng nhà dân, anh la Họ….Họ….., bò vẫn đi, hoảng quá
anh la : “Stop, stop, stop”. May có vài anh em ra chận bò lại, chúng tôi có dịp
cười nghiêng ngửa. Khi anh chàng trở lại chúng tôi nói:
“Bò nó đâu có đến trường mà biết tiếng
Anh, ông bạn.”
Những kỷ niệm đau khổ cũng như là hạnh
phúc của con người đều có giá trị ngang nhau trong tiềm thức, người ta khó mà
quên được. Có những ngày chúng tôi đi làm ruộng tại cánh đồng tên là Đầm Sen.
Cánh đồng đầm lầy bạt ngàn, bỏ hoang lâu ngày từ thời Pháp thuộc, thật xa xôi
và hẻo lánh, bèo lát, điên điển, cỏ dại mọc như rừng, mỗi lần nhảy xuống ruộng,
có chỗ sình ngập lên tới cổ. Và có những đám ruộng nước đĩa ơi là đĩa….lội như
bánh canh. Từ nhỏ tôi cũng như nhiều anh em khác, nói chung môi trường sống là
thành phố, nên thấy đĩa rất là sợ. Lần đầu tiên nhảy xuống ruộng, thấy nhột nhột
nhảy lên, là một vài con bám chân bám đùi, máu chảy tùm lum…..Úi trời ơi, thật
là hãi hùng, bắt chúng xong lại nhảy xuống, vì nhảy lên bờ thì AK chĩa vào đầu.
Ngày ấy làm ruộng về, mặc dù đói, nhưng
cơm nuốt không nổi vì tinh thần căng thẳng và hãi hùng quá mức. Mấy hôm sau,
chúng tôi rút kinh nghiệm, chọn bộ quần áo nào mới nhất, không có chỗ rách, bỏ
áo vào trong quần, cột hai ống chân cho chặt, cột quanh lưng, cột hai khuỷu
tay, nhờ thế mà khi nhảy xuống ruộng, thấy đĩa bơi quanh người nhưng chúng
không bám được, nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ, chúng vào tận chỗ kín
để cắn, về nhà máu me tùm lum phát khiếp. Cũng có những chuyện vui đáng nhớ. Số
là sau khi khai hoang xong, những đám ruộng bùn quậy lên rất nhiều cá nên anh
em tha hồ bắt. Tôi thì chạm cá rất nhiều, nhưng chẳng bao giờ bắt được cả. Bắt
nó lên là nó vuột, bắt một tay cũng vuột, hai tay cũng không xong. Chiều về hỏi
mấy anh bạn chuyên nghiệp chỉ giùm cho một chiêu làm sao để bắt mà nó không vuột.
Anh bạn cười:
“Bắt cá cũng như đi cua gái vậy, khi đụng
nó phải từ từ mò từ đuôi lên tới đầu, khi vị trí của đầu nằm trong lòng bàn tay
rồi, thì dịu dàng nắm lại, thật chặt và thật êm thì không bao giờ bị mất cả”.
Thế là hôm sau theo cách chỉ dẫn của anh
bạn, tôi được mấy bữa bồi dưỡng ngon lành. Có những ngày làm cỏ ở những thửa ruộng
cạn, chúng tôi không tìm được thứ gì để ăn. Vài ba người, mỗi người vài chú
nhái, chiều về cải thiện, 1 vài con không đáng là bao, người nọ dồn cho người
kia để ăn cho đủ. Các bạn biết sao không? Cho thì tiếc, bèn oảnh tù tì ai thắng
thì ăn hết, ai thua thì nhịn. Ôi con người khi tới tận cùng đất đen rồi thì mới
nhận chân được giá trị của nó. Chuyện đã 28 năm rồi, nhiều khi tôi nghĩ mình
cũng nên quên đi để sống những ngày còn lại của cuộc đời. Nhưng thỉnh thoảng
quá khứ lại hiện về, không sót một chi tiết nhỏ nào. Có những đêm ác mộng hãi
hùng, bị đánh, bị tra tấn và những cơn trốn chạy dưới lằn đạn AK của chúng. Khi
tỉnh dậy tinh thần bàng hoàng, đầu óc ngây ngô. Và không biết đến bao giờ tâm
trí mới được bình yên đây. Đọc qua lịch sử biết bao sự hưng vong của chế độ
Đinh, Lý, Trần,Lê….Biết bao nhiêu thi nhân đã tiếc thương một thời quá khứ êm ấm,
thanh bình…..
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương,
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Hay:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia…
(Bà Huyện Thanh Quan)
Hoặc:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ây hồn Thục Đế thác bao giờ
Năm canh, máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
Đêm đêm ròng rã kêu ai đó
Dục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ
(Nguyễn Khuyến)
Vận nước đã đổi thay, quê nhà chìm đắm
trong cảnh bất công. Giới thống trị thì vàng son rủng rỉnh, xe pháo dập dìu,
người dân còn lại phải vật lộn với cuộc sống đầy gian nan mới đủ cơm ngày hai bữa,
và còn phải lo thuốc thang khi đau yếu. Không hiểu tiền nhân có đau khổ như
chúng ta không? Nếu có thì chỉ có sự thay đổi thể chế xã hội và đau nỗi mất nước,
không đến nỗi phải lưu vong như chúng ta, trên 15.000 dặm đường chim bay, xa
hơn một nữa vòng trái đất. Muốn tìm một chút tình cảm thân thương nơi cha, nơi
mẹ, nơi anh em, nơi bạn bè hay người thân thật là khó vô vàn. Thật là:
Muốn cho tái ngộ chỉ nhờ mộng trung….
Chúng ta đã may mắn thoát khỏi ách bạo
tàn, dung thân ở xứ tự do. Tuy không dễ, nhưng chúng ta có đầy đủ quyền tự do của
một con người được pháp luật bảo vệ. Quê nhà còn biết bao người thân đang trầm
luân với cuộc sống đoạ đầy và bất công, chỉ hy vọng chút tin vui khi có con
cái, hay anh em gửi về chút ít quà hay tiền để mạch máu đang chảy không bị cạn….bởi
một lũ vô thần, tham lam, ích kỷ và tàn bạo…..
Với những dòng này, mong đóng góp chút
ít tư liệu về cuộc chiến, và những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những
anh hùng không tên tuổi đã nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ gìn miền Nam êm ấm
thanh bình gần 3 thập niên từ sau 1945-1975. Và để cho thế hệ sau phân tích sự
hy sinh gian khổ của cha ông. Và cũng mong quê hương dân tộc sớm khỏi ách bạo
tàn của một lũ người vô thần thống trị,và mãi mãi thanh bình trong chiều hướng
tự do dân chủ…..
Võ Đức Nhuận
(Đây
là những nhân vật có thiệt trong chặng đường chiến đấu cuối cùng, và những trại
tù man rợ nhứt đã đi qua)
Có cách nào để cho những thế hệ trẻ lớn lên ở hải ngoại (cũng như trong nước) đọc và biết được những sự thật về sự tàn ác, dã man của lũ quỷ đỏ không? Nếu không thì con cháu của chúng ta sẽ lại phải sống kiếp sống của địa ngục dưới gọng kìm của chúng nó sau này.
ReplyDelete