Phi cơ của hãng Qantas chở chúng tôi từ
Bangkok (Thái Lan) và đáp xuống Sydney đúng vào ngày 26/1/1982. Đó là ngày Quốc
Khánh Úc.
Mới ra khỏi phi trường và qua hải quan, tôi
đã thấy choáng với cái nóng. Phải nói là nóng hừng hực. Hoá ra, Úc đang vào mùa
hè. Những người đứng đón thân nhân ở phi trường ai cũng mặc đồ mát mẻ, nam thì
quần short áo thun, nữ cũng vậy. Trông phi trường và quang cảnh chung quanh chẳng
có gì là ‘hoa lệ’ cả, thậm chí có phần kém sang trọng hơn phi trường Bangkok.
Thôi thì: Chào mừng bạn đến Sydney!
Đứng xếp hàng một hồi thì được nhân viên di trú ‘lùa’ lên một cái xe bus (lúc đó là rất lớn với tôi). Nhóm chúng tôi chẳng biết mình đi đâu, nhưng chỉ biết là từ này mình hưởng tự do sau những ngày tháng cực khổ và đắng cay ở Thái Lan. Xe chạy bon bon trên đường, chẳng thấy thành phố hay nhà cao tầng đâu cả, mà chỉ toàn là nhà cửa bằng gạch đỏ. Nhà nào cũng có vẻ rộng rãi, tươm tất, và hầu như tất cả đều có sân cỏ phía trước. Tôi còn nhớ xe chạy dọc theo một con lộ rất đẹp, hai bên là cây cối um tùm, xanh tươi, sạch sẽ. Sau này tôi mới biết đó là con lộ Henry Lawson Drive (tên của một nhà thơ nổi tiếng người Úc). Một lần nữa, không hề thầy Sydney tráng lệ gì cả. Thật ra, nhìn có vẻ đồng quê hơn, nhưng là đồng quê quá đẹp.
Sau độ 30 phút thì đến một khu nhà rất rộng tên là Cabramatta Hostel. Lúc đó, tôi còn chưa biết hostel là gì, vì hồi nào đến đó tôi chỉ nghe đến hotel, chứ có biết hostel là gì đâu. Cabramatta Hostel nằm trên một cái đồi thuộc vùng Cabramatta, nơi mà sau này trở thành “thủ đô” của người Việt ở Sydney. Từ Hostel đi bộ ra khu phố Cabramatta chừng 15 phút. Cabramatta nằm ở vùng Tây Nam Sydney, là nơi mà dân địa phương gọi là ngoại ô lao động, ý nói người nghèo. Thời đó (tức ~40 năm trước) Cabramatta là một nơi bán nông thôn. Đường xá rất ít xe qua lại, các dãy phố tương đối cũ kỹ im lìm, người đi phố chẳng bao nhiêu. Năm 1982, Cabramatta chỉ có 1 quán ăn Việt Nam và 1 tiệm thực phẩm Á châu duy nhất nằm trên đường John. Chúng tôi là khách hàng trung thành của tiệm thực phẩm này, còn quán phở kia thì … chưa đủ tiền để phung phí.
Visa đi Úc được cấp trong trại
tị nạn cuối năm 1981 (hết hạn 11/4/1982), nhưng với thời gian lưu trú vô hạn định
(indefinite).
Cabramatta Hostel là nơi tạm trú của nhiều người tị nạn và di dân Á châu và Âu châu. Ngoài người Việt, Khmer, Lào ra, còn có người Nga, Ba Lan, Tiệp, Hungary, Hồng Kông, Trung Quốc, v.v. Nhưng có lẽ đông nhất vẫn là người Việt. Họ ở đây để làm thủ tục định cư, học tiếng Anh và làm quen với văn hoá Úc. Bất đồng văn hóa xảy ra ngay từ những ngày đầu tiên ở hostel này. Nói chính xác hơn là văn hóa ẩm thực. Ở đây, người ta có nhà bếp rất lớn và đầu bếp hẳn hoi. Nhìn cái nhà bếp rộng y như một căn nhà 3 phòng! Nhà bếp phục vụ 3 bữa ăn: điểm tâm, trưa, chiều. Sáng nào cũng có những món thuần Tây, như bánh mì nướng, trứng chiên, bacon, khoai tây, cà nướng, v.v. Những món mà tôi hay thấy trên phim thời còn ở Việt Nam, và nghĩ rằng chắc sang và ngon lắm. Nhưng thử rồi mới thấy hỡi ơi! Hồi nào đến giờ chỉ quen mì, hủ tíu, phở, chứ đâu quen mấy món này. Tuy nhiên, phải cả năm sau tôi mới làm quen với các món ăn sáng như thế này, và khi đã quen thì lại thấy … ghiền
Ngày đầu tiên, sau khi làm thủ tục định cư,
tôi được cấp cho 30 đôla Úc. Đó không phải là tiền của chánh phủ, mà tiền của Hội
từ thiện St Vincent de Paul. Ngoài ra, tôi còn cho một cái phiếu để lãnh quần
áo. Tôi đến Úc với 0 cent trong túi và đúng 2 bộ đồ, nên được ai đó cho quần áo
mới thì quý hoá rồi. Xin nói thêm rằng cuộc đời tôi ở Úc, một cách tình cờ, gắn
liền với cái tên “St Vincent.” Ngay từ đầu được hưởng lợi từ hội từ thiện St
Vincent de Paul, đến khi sau này thì sự nghiệp của tôi gắn liền với Bệnh viện
St Vincent’s hơn 30 năm trời!
Những ngày đầu tôi cũng ghi danh học tiếng
Anh, nhưng cũng là thời điểm nếm mùi tự do. Lớp học có rất nhiều di dân từ khắp
nơi, nhưng đông nhứt vẫn là Việt Nam. Khi cô giáo đề nghị mỗi học viên nói sơ
qua về lí lịch cá nhân và đến Úc trong hoàn cảnh nào, thì đa số học viên đều e
dè. Những người tị nạn từ Đông Âu cũng có những nỗi lo giống như người Việt
Nam. Dù ở Úc, họ vẫn bị ám ảnh bởi công an và mật vụ. Họ có vẻ không tin ai cả.
Cô giáo cùng từng là một người tị nạn từ Đông Âu nên rất am hiểu tâm lý của người
mới nhập cư từ các nước công an trị. Bà tuyên bố rằng Úc là nước tôn trọng tự
do ngôn luận, người dân có quyền phát biểu chánh kiến. Bà khuyên rằng ở đây có
luật pháp đàng hoàng, chẳng sợ ai cả, và ở đây không có ‘công an’, chỉ có police
(cảnh sát) thôi. Để minh hoạ, bà lấy vài tờ báo ra và chỉ những cái tít chỉ
trích chánh phủ hàng ngày, rồi tươi cười chỉ vào hình ông đương kim thủ tướng
và nói đại khái rằng ‘Mai mốt tôi không bầu cho thằng cha này.’ Tôi kinh
ngạc: Trời ơi, sao bà dám oang oang chỉ trích ông thủ tướng như vậy!
Cách dạy tiếng Anh ở đây chủ yếu là để học
viên có đủ kiến thức và chữ nghĩa để đi xin việc, chứ không để học lên cao. Cô
giáo là một người rất tuyệt vời về kỹ năng sư phạm và hết sức vui tính. Cách dạy
chủ yếu là đàm thọai, hơn là viết. Mục tiêu là giúp học viên sớm hội nhập và có
thể đi xin việc. Bà giáo có vẻ thích tôi, một phần có lẽ là học nghiêm túc, một
phần là hỏi hoài. Nhớ có lần bà ra đề là viết một lá thư cám ơn cô giáo mà mình
nghĩ trong tâm tưởng; tôi viết lá thư và chữ cuối là “As always, with
affection” vì tôi học từ một cách viết trên tạp chí Reader’s Digest trong
trại tị nạn. Bà giáo đọc lá thư, rồi đến giờ giải lao kêu tôi ra ngoài nói
riêng rằng không nên viết như vậy, vì cái chữ đó chỉ dành cho … tình nhân! Thế
là học bài học về cách viết thư.
Nhưng tôi chỉ học được một thời gian ngắn thì
bỏ lớp học. Ngày nào cũng “How are you”, “I am fine, thank you”, “How long
have youbeen here”, “I am looking for a job”, v.v. Lớp học có những học
viên với trình độ rất khác nhau, nên cách dạy cũng rất chậm. Tôi nghĩ trong bụng
với cách học này thì mình tự học còn hay hơn. Nên, chỉ vài tuần sau thì nghỉ học.
Ngày tôi quyết định nghỉ học, tôi báo cho cô giáo biết. Cô giáo, lúc đó đã gần
50 tuổi, nói rằng vài năm nữa sẽ có lễ kỷ niệm 200 năm ngày thành lập nước Úc,
và bà nói sẽ hẹn tôi ở cầu Harbour Bridge. Tuy nhiên, hẹn cho vui thôi, chứ đến
ngày lễ thì làm sao tìm lại cô giáo đầu tiên. Nhưng hình ảnh về một cô giáo người
Úc nhanh nhẹn, hoạt bát, vui tánh, và nhất là rất thương người tị nạn không hề
phai nhòa trong ký ức tôi.
Việc làm đầu tiên: phụ bếp
Sau vài tuần ở trong hostel, tôi bắt đầu tìm
việc làm. Mỗi ngày tôi dò đọc mục Employment trong báo để tìm việc. Có
lúc đi theo nhóm, có lúc đi một mình. Dạo đó, hễ có việc gì là lao vào làm, chứ
không có lựa chọn. Người khá tiếng Anh thì xin đi làm lựa thư trong bưu điện,
người kém tiếng Anh thì xin việc làm ở mấy hãng xưởng (thời đó Úc còn nhiều
hãng lắm). Nhưng không may cho tôi, mỗi lần đi phỏng vấn là mỗi lần bị thất bại,
vì tôi nói là chưa có kinh nghiệm làm hãng xưởng bao giờ. Ở xứ này, không có
kinh nghiệm thì người ta không muốn nhận mình vào làm, có lẽ vì ngại mất thì giờ
và tiền bạc để huấn luyện.
Một hôm, tôi may mắn tìm được một công việc
phụ bếp trong nhà bếp (kitchen hand) của Bệnh viện St Vincent’s. Ngày đầu tiên
nhận việc là một ngày đầy ấp kỷ niệm vui buồn. Công việc tôi được giao phó là rửa
nồi niêu, chén bát, và đặc biệt là xắt củ hành Tây. Chao ôi, lần đầu tiên trong
đời tôi thấy cái gì cũng lớn và cũng nhiều. Số lượng nồi và chén bát nhiều đến
nổi không đếm hết. Nói là “rửa chén”, nhưng thật ra là tất cả đều làm bằng máy.
Cái máy rửa chén dài khoảng 6 mét, máy có ba đường băng để chén và nồi niêu
xoong chảo trên đó, và có một bộ phận tự động chuyển những chén và nồi niêu
xoong chảo sang một khu nước nóng để rửa. Đến đầu bên kia, có người chất đồ sạch
xuống. Do đó, trên thực tế, suốt ngày tôi chỉ sắp xếp nồi chén chứ chẳng đụng
tay rửa gì cả.
Ngoài việc đó, tôi phải lột củ hành tây và xắt
rau cải cho phụ bếp. Khi hết việc thì phải tìm việc khác làm, như lau chùi nhà
bếp cho sạch, nhìn cái gì thấy không vừa mắt là phải sửa. Nói chung là không có
nghỉ. Không đợi người ta bảo phải làm gì, mà phải chủ động đi tìm việc để làm. Không
có chuyện đứng xớ rớ. Mỗi ngày có 3 lần nghỉ giải lao: lần thứ nhứt là khoảng
10 giờ sáng, được nghỉ 15 phút để uống cà phê; lần thứ hai là 1 giờ trưa, được
30 phút để ăn trưa; và lần sau cùng là 3 giờ chiều, 15 phút uống cà phê. Mỗi lần
nghỉ là phải bấm card để quản lý xem mình có nghỉ quá giờ hay không; nếu nghỉ
quá giờ, cho dù 5 phút quá giờ, thì sẽ bị trừ lương. Con người ở đây như là cái
máy. Tuy nhiên, tôi thấy rất vui, vì trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế mà có việc
làm là may mắn lắm rồi. Vả lại còn có tiền gởi về Việt Nam để giúp nhà.
Kỷ niệm đáng nhớ nhứt là ngày đầu tiên khi
tôi thấy quá nhiều hành tây (trong hai bao bố rất lớn, loại bao mà thời dưới
quê tôi thấy họ dùng làm bao gạo trong mấy nhà máy xay lúa), tôi hơi nao núng
và hỏi anh chàng giám thị (tức sếp tôi):
– Tôi phải lột hết hai bao này à?
Anh chàng giám thị người Tân Tây Lan tên là
Gerry nhún vai nói:
– Dĩ nhiên, đó là công việc của anh mà!
Tôi cảm thấy mình ngây ngô làm sao! Dĩ nhiên,
người ta mướn mình vào làm việc đó, chứ còn việc nào khác! Chỉ lột được hai ba
củ hành, là nước mắt tôi dàn dụa. Gerry lại thấy tôi ‘khóc’ tưởng tôi nhớ nhà,
bèn đến hỏi: ‘Anh có sao không?’ Tôi trả lời ‘Không’ và dần dần làm xong công việc
một cách tốt đẹp. Nhưng chỉ hai ngày sau, sau vài lần thử nghiệm, tôi đã tìm được
‘quy luật’ lột củ hành mà không rơi nước mắt. Mặc dù đó là một công việc khá nặng
nhọc, nhưng tôi vẫn làm việc một cách vui vẻ, và qua đó tôi học được tính tập
trung trong khi làm việc cho dù là việc lớn hay nhỏ.
Làm ở nhà bếp Bệnh viện St Vincent mà tôi vẫn
thấy mình còn dư thì giờ. Thời đó, bên nhà cũng cần tiền (vì cả nhà lâm vào cảnh
gần như khốn đốn) dù ba má tôi chưa một lần hỏi tôi gởi tiền. Chúng tôi tự động
gởi hàng hoá và tiền về cho gia đình và cả bà con khác cần tiền để trang trải
khi mắc bệnh. Tôi nghĩ tôi có thể làm nhiều tiền hơn nữa, và thế là tìm chỗ làm
ban đêm. Cơ hội đến với tôi khi Khách sạn Regent mới được khai trương ở
Circular Quay (ngay [cầu] Harbour Bridge). Đây là khách sạn 5 sao, thời đó được
xem là sang trọng nhứt nhì ở Sydney.
Khách sạn Regent cần tuyển rất nhiều nhân
viên nhà bếp. Lương mà khách sạn trả thì … khỏi chê. Gần gấp 2 lần lương của bệnh
viện. Thế là tôi đệ đơn xin đi làm ở khách sạn. Tôi được phỏng vấn, và cách họ
phỏng vấn cũng rất độc đáo. Họ hỏi đôi ba câu về cá nhân, rồi dẫn xuống nhà bếp,
và xem mình làm ra sao. Họ muốn xem tôi có kinh nghiệm như thế nào trong nhà bếp,
cách tôi cầm dụng cụ nhà bếp ra sao, cách tôi giữ an toàn vệ sinh thực phẩm,
v.v. Đương nhiên, vì tôi có “kinh nghiệm đầy mình” ở bệnh viện St Vincent’s,
nên được nhận ngay.
Khi vào nhà bếp tôi gặp vài người quen từ trại
tị nạn bên Thái Lan. Trong đó có thằng em tên Trạng, nó đi cùng ghe với tôi
sang Thái Lan, được nhận làm trong khâu rửa chén. Hai anh em gặp lại ở đây, nó
kinh ngạc nhìn tôi trong đồng phục phụ bếp và hỏi: Anh họcnghề này hồi nào vậy?
Tôi mỉm cười bí hiểm nói: Từ 3 tháng trước chớtừ hồi nào, màmày làm gì ở đây?
Nó nói: em làm bên kia kìa, và chỉ tay vềcái máy rửa chén thiệt lớn. Hai
anh em ‘chiến đấu’ ở đây một thời gian, thì tôi quay về St Vincent’s vì chịu
không nổi hai công việc, và lại làm việc ca đêm mà còn đi học.
Việc làm thứ hai: làm phụ tá labo
Khoảng hơn một năm rưỡi sau làm trong nhà bếp,
tôi bắt đầu chán và nghĩ về tương lai. Tôi nhớ đến lời khuyên của bà giám đốc
nhà bếp Georgina Ramsey và để ý tìm cơ hội mới tốt hơn. Tôi không thể làm ở đây
5 năm, chứ chưa nói đến 10 năm. Sau đó, tôi may mắn xin vào làm phụ tá trong
labo sinh hóa của Bệnh viện Royal North Shore ở phía Bắc Sydney. Nhiệm vụ của
tôi rất đơn giản: thu thập mô và mẫu máu từ các phòng ban khác nhau, sau đó sắp
xếp chúng ở những nơi thích hợp. Tôi rất hứng thú học hỏi và được dạy cách xử
lý mẫu máu cũng như cách trích plasma từ máu toàn phần. Một hôm, tôi thấy bác
sĩ trưởng phòng labo (Tiến sĩ Ackerman) đang ‘vật lộn’ với một phép tính cho
bài nghiên cứu của mình. Tôi đang lau chùi trong phòng thí nghiệm, nhưng lén
nhìn qua vai ông ấy và nhận ra rằng ông ấy đang tính độ lệch chuẩn (standard
deviation)! Tuy nhiên, phương pháp ông ấy sử dụng, thường được dạy trong sách
giáo khoa, rất mất thì giờ và rườm rà, dành cho người không giỏi toán. Tôi ngõ
lời muốn giúp ông ấy. Thế nhưng ông nhìn tôi và nói ‘Đây là một việc phức tạp,
anh bạn trẻ ơi! Tốt hơn là anh hãy tập trung vào công việc của mình đi.’ Rõ
ràng, ông ấy nghĩ rằng tôi không thể làm được công việc trí óc đó. Tôi nghĩ
mình không đến độ ‘dốt’ như thế và cũng mang chút tự ái, nên tôi tuyên bố rằng:
nếu tôi không thể tính độ lệch chuẩn cho ông ấy trong 2 phút, ông có thể sa thải
tôi. Ông ấy ngước nhìn tôi lần nữa và nói: ‘OK, làm đi!’ Tất nhiên, đó
là một bài tập đơn giản: tất cả những gì tôi làm là sử dụng những gì ông ấy đã
làm và thêm một số biến đổi đơn giản, tôi có thể hoàn thành nó trong vòng một
phút bằng tay (lúc đó không có máy tính cá nhân như ngày nay). Ông ấy nhìn tôi
với sự kinh ngạc và hỏi ‘Anh học cái này từ đâu vậy?’ Tôi nói ‘Ở Việt
Nam’. Ông ấy sau đó nói: ‘Những người thông minh như anh nên quay lại đại
học để tiến thân’.
Và, đó là điều tôi đã làm: đi học. Tôi đã trải
qua 3 đại học lớn tại Sydney: Macquarie, Sydney và New South Wales (UNSW
Sydney). Tôi đạt được 2 bằng tiến sĩ về y khoa và khoa học từ UNSW Sydney. Tôi
là người Úc gốc Việt đầu tiên và là người thứ 35 của Khoa Y UNSW Sydney được
trao bằng tiến sĩ khoa học (DSc). Năm 2008, tôi trở thành người Úc gốc Việt đầu
tiên được bổ nhiệm làm Giáo sư thực thụ của Khoa Y, UNSW Sydney. Tôi cũng là
người Úc gốc Việt đầu tiên nhận giải thưởng Hội đồng Nghiên cứu Y tế và Y khoa
Quốc gia (NHMRC) về Học giả Nghiên cứu Cao cấp và sau này là Học giả Lãnh đạo
(còn được biết đến là Học giả Úc – Australia Fellow).
Tuan V. Nguyen AM
Nguồn: https://nguyenvantuan.info/2025/05/01/hoi-uc-50-nam-nhung-ngay-dau-o-uc/
No comments:
Post a Comment