Tiếng máy cưa tay chạy xăng gầm rú lên từng hồi gây náo động một góc vườn nhà ông Chánh Án thành phố. Tiếng thân cây vặn mình nghe răng rắc, tiếng cành lá cọ quẹt vào nhau tạo thành một âm thanh rào rào dữ dội như cơn bão, theo sau là một tiếng động mạnh, nguyện thân cây to lớn đổ ầm xuống, bụi đất tung lên mù mịt. Người đàn ông to lớn, nước da đen sạm, ngồi trong chiếc ghế da đắt tiền ở phòng làm việc, ngước đôi mắt dữ tợn ngó ra khu vườn trước mặt. Ông ta bực mình vì bị làm phiền bởi tiếng động mạnh, trán thoáng nhăn lên.
Ông Chánh Án Hồng Quân là
một nhân vật quan trọng trong thành phố này. Trên báo chí, cơ quan truyền thông
của cả nước, đặc biệt các đài truyền hình khi nói đến ông, họ đều kính cẩn gọi
ông là Ngài Chánh Án, một quan tòa chuyên xử những vụ án lớn tầm cỡ quốc gia.
Ông lạnh lùng, sắc sảo và luôn được mọi người ca ngợi là biểu tượng của công
lý, là người suy nghĩ theo lý trí và pháp luật, chuyên xử những vụ trọng án
tham nhũng trong chính quyền. Ông thường nói ông không sợ luật vì chính ông là
luật, là người đóng con dấu và cũng là người tuyên án, muốn ai chết là người đó
phải chết. Ông lại nghiêm nghị, ít nói, có phần kín đáo, không thích gioa du,
tham dự tiệc tùng, và chỉ tiếp xúc rất chừng mực với một vài giới chức khác
trong chính quyền.
Thạch Lương tắt máy cưa, ra
hiệu cho hai thằng đệ tử nghỉ tay, chuẩn bị ăn trưa. Đưa tay áo lau vội những
giọt mồ hôi đang nhỏ ròng ròng trên mặt, nó nhìn về phía căn biệt thự cổ kính
xây theo kiểu Pháp nằm im lìm giữa vườn cây um tùm đầy bóng mát. Tiến về phía
cửa ra vào, nó gõ của dồn dập. Một người đàn bà dáng vẻ nhà quê, khá đứng tuổi
ra mở cửa, tia nhìn nhìn soi mói, hỏi cộc lốc.
- Muốn
gì?
- Thưa
bà, con cần phải tắt cầu dao của hệ thống đèn ngoài vườn trước khi hạ cây. Lỡ
có chuyện gì thì không gây ra hỏa hoạn.
Một thoáng ngần ngừ trên
khuôn mặt già nua khắc khổ.
- Lẹ
lẹ lên nghen. Năm phút thôi. Ông chủ không thích đâu.
Nói xong, bà mở cửa cho nó
lách vô và vội vã đi trở lại gian phòng bếp, đồng thời tay chỉ về hướng cuối
căn phòng phía bên kia. Thạch Lương bước theo sau bà, vừa đi vừa cám ơn luôn
miệng. Đợi bà vừa khuất sau cánh cửa, nó vội tạt ngang qua căn phòng khách rộng
lớn của căn nhà, mắt ngó dáo dác tìm kiếm một cái gì đó.
Đang ngồi chăm chú trước
màn hình máy tính, ông Chánh Án nghe tiếng gõ cửa, nhìn qua cái màn hình thật
lớn của hệ thống an ninh trên tường, thấy Thạch Lương đang xớ rớ trong phòng
khách, dáng vẻ khả nghi, ông vội rời khỏi cái ghế da, đứng dậy bước nhanh.
Thạch Lương đưa cặp mắt
quan sát thật nhanh vẫn như đang tìm kiếm cái gì đó. Một giọng nói lớn giận dữ
đằng sau lưng khiến nó giật bắn người lên, tim đập mạnh như muốn vỡ tung trong
lồng ngực.
Thằng
kia, mày đang làm cái gì ở đây?
Quay lại, nó thấy một người
đàn ông to lớn, dáng cục mịch, nước da đen sạm, hai cánh tay vạm vỡ chắp sau
lưng, đang trừng trừng nhìn nó với cặp mắt hằn lên những gân máu.
- Dạ
thưa ông, con đang kiếm bảng cầu dao điện. Con có xin phép bà, bà, bà … già hồi
nảy rồi.
- Cầu dao nào ở đây? Đi ra ngay. Qua phía bên kia, gần nhà bếp.
TThạch Lương riu ríu bước trở lại phía nhà bếp, tim nó đập loạn nhịp, hơi thở dồn dập, mặt xanh lè. Ông Chánh Án vừa quay đi, nó vội vàng quay trở lại phòng khách, cử chỉ lẹ như chớp, nó rút cái phone trong túi ra, tiến đến phía sau cái màn ảnh TV to lớn, nó chụp thật nhanh phần bên dưới cái “router”. Xong việc nó nhẹ nhàng bước thật nhanh về phía nhà cầu, vừa đi vừa nhấn nút “gởi”, trước khi ông Chánh Án trở lại phòng làm việc.
******************
Đại lý xe hơi Bình Minh,
một garage xe hơi sang trọng trong thành phố. Ông Minh đang cùng người thợ
“troubleshooting”-thử nghiệm hệ thống điện của chiếc Lexus, chợt một tiếng
“ding” báo động từ cái phone trong túi quần của ông, cái đồng hồ tay Apple của ông
báo có tin nhắn của Thạch Lương. Đây là cái tin nhắn mà ông chờ đợi từ sáng đến
giờ. Chỉ nhìn thoáng qua tấm hình thằng bạn gởi, ông tươi ngay nét mặt, vội trả
lời tin nhắn bằng ngón tay cái chỉ lên trời, rồi tiếp tục làm việc.
Ông quen Thạch Lương trong
một dịp tình cờ khi một người bạn thân giới thiệu cho ông một người thợ sửa
điện giỏi giang và lương thiện. Qua thời gian, ông biết cha của TL là một cựu
Thiếu Tá Biệt Động Quân VNCH bị bắn chết một cách mờ ám trong trại tù “cải
tạo”. Hai người trở nên thân thiết vì Minh cũng có cha bị tù gần 10 năm trong
trại tập trung. Mỗi lần đại lý xe cần sửa chữa, Minh lại nhờ TL đến làm. Hai
người coi nhau như anh em kết nghĩa.
***********************
Trước khi ngồi xuống cái
ghế da êm ái mà ông đích thân mua qua mạng, được gởi về tận nhà, ông Chánh Án
còn cẩn thận nhìn qua cái màn hình hệ thống an ninh một lần nữa để chắc rằng
thằng nhóc không còn lảng vảng nơi đó.
Ông có thói quen luôn nhìn
trước ngó sau từ những ngày khi còn là thằng bé giao liên trong chiến khu. Cuộc
đời lăn lóc, khổ sở, đói ăn, không cha mẹ, không anh em, không tình thương đã
dạy ông phải cẩn thận, phải cảnh giác, không tin bất kỳ ai; khi cần tàn nhẫn
thì phải thật tàn nhẫn, phải đạp lên đầu người khác, kể cả bạn bè và đồng chí
mình để vươn lên.
Dĩ vãng như khúc phim quay
chậm, trở về trong trí nhớ của ông giờ đây đã bị phủ mờ một lớp bụi thời gian:
Thật ra ông Chánh Án Trần
Hồng Quân tên thật là Trần Văn Lượm, cái tên má nuôi đã đặt cho ông. Ngày đó,
trong cảnh bom đạn loạn lạc, tiếng súng, tiếng đạn pháo ầm ầm khắp nơi, nhà
cháy, người chết la liệt. Một thằng bé 7, 8 tuổi, trên người chỉ còn cái quần
xà lỏn, mặt mày lấm lem tro bụi, nước mũi lòng thòng, kinh hãi, vừa chạy vừa
gào khóc thảm thiết. Sau khi lực lượng hai bên giao tranh đã rút lui, vài ngôi
nhà cháy rụi, người ta thấy thằng bé lang thang, đói khát, nằm khóc ngất bên lề
con đường đất đỏ, bên đống tro tàn nghi ngút khói, giữa ngôi làng đổ nát. Cha
mẹ nó đã chết vì bom đạn trong ngôi nhà.
Giữa hoang tàn đổ nát, một toán người võ trang, khăn rằn quấn cổ, ăn mặc toàn màu đen, từ trong rừng túa ra, họ đến quan sát, ghi chép, phỏng vấn và chụp hình những người dân làng giờ đây vẫn còn đang ngơ ngác, nét sợ hãi vẫn còn in đậm trong những cặp mắt lạc thần.
Chị Tư Xinh, một phóng viên chiến trường đang lăng xăng với cái máy chụp hình, thấy thằng bé quá tội nghiệp, thương tình, đem nó theo vào chiến khu. Chị hỏi nó tên gì, nó cũng không nhớ. Chị nhận nó là con nuôi và đặt tên nó Lượm, nhưng ai cũng kêu nó là Cu Đen vì nước da nó đen như củ Súng. Thằng Cu Đen lớn lên giữa khu rừng già rậm rạp cùng người má nuôi và những đồng chí của bà.
Từ đó, tuổi thơ của nó là khu rừng Sác sình lầy, chung quanh là những con rạch nhỏ đan chéo nhau chằng chịt, hai bên bờ toàn những cây Bần, Đước, Mắm, Chà Là và những bụi Ô Rô hay những bụi Ráng mà chính nó cũng không biết đây là chỗ nào. Nó hay rượt theo những con cua, con còng, hoặc đợi nước lên đi bắt ốc đeo bám trên những thân cây sống vùng nước lợ. Người lớn dạy nó cách đặt bẫy bắt cá Thòi Lòi, cách phân biệt đâu là hang cua Biển và hang rắn Nước.
Với đôi tay thành thuộc, nhanh nhẹn, nó moi móc bùn sình và bắt được những con cua biển to bằng hai bàn tay; trước những hang rắn, nó dùng bàn chân nhấn xuống bùn, gần miệng hang, con rắn nước vừa chui đầu ra để thở, nhanh như cắt, nó tóm lấy cổ con rắn, dùng cái liềm mang theo, cắt ngang cổ con rắn xấu số, rồi bỏ khúc mình vào ngay cái giỏ lác đeo bên cạnh sườn. Ngày nào trở về, nó đều mang rất nhiều “chiến lợi phẩm” cho bà bếp cải thiện bữa ăn cho mọi người.
Nó lớn lên mạnh mẽ giữa hoang dại, thiên nhiên sông nước và giữa những người đồng chí của má nuôi nó. Nó chỉ biết đọc, biết viết sơ sơ nhờ má nó dạy kèm, nhưng đặc biệt, nó bơi lội rất giỏi, lặn hụp như con Rái Cá. Thỉnh thoảng có những đêm, má nó và các đồng chí đi công tác bằng những chiếc xuồng 3 lá nhỏ, họ chỉ trở về khi trời mờ mờ sáng. Nó chẳng buồn tìm hiểu coi họ đi đâu và làm những gì.
Khi nó 12 tuổi, một đêm đang say ngủ, nó mơ hồ nghe tiếng thì thầm và tiếng cười giỡn nho nhỏ, và cả tiếng hơi thở gấp gáp của má nuôi và một người đàn ông ở căn hầm kế bên ăn thông qua chỗ nó nằm. Bỗng nó bị đánh thức dậy bởi tiếng thét kinh hoàng đau đớn của má nó, tiếng động của một cuộc vật lộn ngắn ngủi và tiếng thân người nặng nề đổ xuống. Nhiều bước chân vội vã, rầm rập rời đi và tiếng dầm bơi khua nước hoảng loạn từ từ xa dần.
Nó vùng dậy chạy sang coi chuyện gì xảy ra. Trước mắt nó, trong bóng tối mờ mờ, nó vẫn nhận ra má nó đang rên rỉ đau đớn trên cái sạp giường làm bằng cây Chà Là và người đàn ông nằm quằn quại ôm vết thương dưới nền đất. Mùi máu xông lên tanh tưởi làm nó muốn nôn, choáng váng té ngồi xuống đất. Người đàn ông dãy dụa thêm mấy cái, thân hình trần truồng của ông run lên bần bật, hai chân cứng đờ ra và nằm im bất động.
Trời đất như tối sầm lại, nó ngã vật xuống như mê đi, bên tai nó vẫn nghe nhiều tiếng lao xao và tiếng chân người khiêng cáng hai cái xác ra khỏi căn chòi. Đó là lần cuối cùng nó được nhìn thấy má nuôi nó. Sau này, nghe mấy đồng nghiệp của má nó rỉ tai nhau, tính mạng cô Tư Xinh vẫn có thể cứu được dù đang bị mất máu nhiều, dù lên cơn sốt nặng, nhưng hình như có lệnh ngầm của thủ trưởng, họ không cầm máu và cứ để cô chìm dần vào cơn hôn mê, không bao giờ thức dậy nữa.
Mấy ngày sau khi chôn cất má nó xong, thằng cu Đen không ăn uống gì cả, nằm mê man trên giường. Mấy cô trong tổ tuyên truyền của má nó thay nhau chăm sóc thằng bé. Trong mơ màng, nó vẫn nghe mấy gì nói chuyện thì thầm với nhau là thủ trưởng yêu cô Tư Xinh, và bằng mọi cách như đe dọa và kỷ luật đảng, ông ta ngăn cấm tình yêu của cô và chú quay phim. Ông còn lập tòa án nhân dân, truy tố hai người tội hủ hóa. Dầu vậy, hai người vẫn lén lút hò hẹn và chuyện gì phải xảy ra, đã xảy ra.
Một lần nữa, thằng cu Đen lại bơ vơ, mất đi tình thương duy nhất của má nó, người mà nó yêu kính nhất đời; dù vậy nó vẫn sống dựa vào tình thương của các cô, các gì trong chiến khu. Nó hay ngồi thu mình lại một góc, chỉ im lặng nhìn người, nhìn cuộc sống trong khu bưng biền cứ thế trôi đi, và nó cảm thấy an toàn với cái thế giới nhỏ bé riêng tư của mình; thỉnh thoảng, những cảm xúc giằng xé, cái ác, cái thiện, sự nổi loạn trong trí óc non nớt của nó, đôi khi rất mâu thuẫn nhưng nó không biết phải giải nghĩa làm sao.
Trong lòng nó bắt đầu nhen nhúm sự căm ghét đối với ông Năm Thiền, người thủ trưởng trong bưng biền. Cặp mắt nó lóe lên tia nhìn hận thù mỗi khi nhìn thấy ông và cặp mắt đó dõi theo từng bước chân cho đến khi ông ta đi khuất đằng xa. Nó chợt nảy ra ý muốn trả thù cho má nó, nhưng không biết làm sao vì ông ta lúc nào cũng có 2 tên cận vệ đi kế bên, ngay cả khi ngủ, ông ta cũng có một tên cận vệ thân tín ngủ bên ngoài.
Cứ thế năm này qua năm khác, nay nó đã là một thiếu niên to lớn, mạnh mẽ, nước da đen sạm nắng, hằng ngày, nó vẫn đi kiếm tôm cá về cải thiện cho mọi người; chiều về nó được huấn luyện thêm về võ thuật và học tập chính trị; đêm đến nó lại rút về cái thế giới riêng tư của nó, tránh giao tiếp với mọi người, ngoại trừ phải đi học tập đường lối và chính sách của đoàn, đội, nhưng nó vẫn nuôi dưỡng sự hận thù ngút trời với tên thủ trưởng đã giết má nó.
Tổ chức giao cho nó công việc giao liên, đưa tài liệu được dấu trong những cái giỏ đựng cua hay dưới sàn ghe được rộng cá bên trên, đủ mọi cách ngụy trang để tránh cặp mắt các trạm kiểm soát đường sông. Nhờ nhanh nhẹn, tháo vác và sức khỏe bền bỉ, cộng thêm vẻ ngờ nghệch cố hữu, nó đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
******
Mấy ngày nay, trong chiến khu, tự nhiên không khí sôi động thấy rõ, mặt mày ai nấy đều có vẻ vui mừng, phấn khởi hẳn lên. Mọi người đi lại nhộn nhịp và bàn tán xôn xao. Vài người đã chuẩn bị gói ghém tài sản riêng của mình vào những cái ba lô con cóc, họ nai nịt gọn gàng, vũ khí sẵn sàng như chuẩn bị cho một cuộc dọn nhà hay một cuộc đại trường chinh. Thằng cu Đen vẫn tỉnh bơ như chẳng có chuyện gì xảy ra. Nếu ai để ý thật kỹ, mới thấy nó hay lảng vảng gần căn chòi ông thủ trưởng.
Chiều hôm đó, một buổi họp bất thường diễn ra dưới sự chủ tọa của ông Năm Thiền. Tất cả mọi người đều bắt buộc phải có mặt. Khuôn mặt ông Thủ Trưởng không dấu được niềm vui bất ngờ, đưa nắm tay lên trời, bằng một giọng hùng hồn, ông cao giọng nói oang oang:
-
NNgày
lịch sử đã đến, ngày mai tôi và các đồng chí sẽ xuất kích ngay tại nơi đây và
tiến thẳng về thủ đô cướp lấy chính quyền. Ngày xưa, Quang Trung, Nguyễn Huệ
mừng Xuân trước khi về Thăng Long; đêm nay, tất cả chúng ta ăn mừng chiến thắng
để ngày mai chúng ta sẽ cắm lá cờ đỏ thắm của chúng ta trên nóc dinh của bọn
“ngụy quyền” tay sai bán nước. Đêm nay chúng ta liên hoan mừng đại thắng mùa
Xuân.
Dưới ánh lửa bập bùng đêm
liên hoan mừng chiến thắng, mọi người say sưa uống thả dàn, uống say túy lúy,
không còn biết trời trăng. Hai tên cận vệ của Năm Thiền mất cảnh giác, uống đến
say mèm; riêng ông Thủ Trưởng, bước đi không vững, cố lê đôi chân loạng choạng
của mình về đến căn chòi là ngã vật ra ngáy như sấm.
Sáng hôm sau khi trời còn chưa sáng rõ, một đám đông bu quanh căn chòi của đồng chí Thủ Trưởng bàn tán xôn xao quanh cái xác chết của ông ta với một con dao thọc huyết heo cắm lút cán vào ngực. Một mảnh giấy nguệch ngoạc ghi vài chữ bằng máu “Nợ máu phải trả bằng máu” để cạnh bên. Vì bận lo thu xếp hành trang cho cuộc đổi đời lịch sử, chẳng mấy ai để ý đến chuyện điều tra coi ai là thủ phạm. Nhưng các cô chú của nó trong tổ tuyên truyền đều nhìn nhau bằng cái nụ cười đầy ngụ ý.
Lúc đó, vừa tròn 17 tuổi,
nó theo chân “quân giải phóng” tiến vào thủ đô. Nó được giao chỉ huy đội thanh
niên tiền phong thành đoàn, mang băng đỏ và súng ngắn K-54 đi lùng bắt những
thành phần “phản động” còn sót lại của chế độ trước. Vài năm sau nó được gởi
qua nước Nga Xô-Viết học về ngành luật. Thời gian này là một bước ngoặt quan
trọng thay đổi cả cuộc đời và nhân sinh quan của nó về cuộc sống mới ở xứ
người. Nó được thấy nhiều điều mới lạ mà ở Việt Nam nó chưa từng được biết. Nó
được học và nhồi sọ một thứ chủ nghĩa ngoại lai, tôn thờ đảng trên hết, hơn cả
cha mẹ, ông bà, lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Một triết lý sống mới
bắt đầu tượng hình lên trong đầu của nó.
Sau 6 năm du học trở về, họ
thu xếp cho nó một chân luật sư tập sự tòa án ở một quận lớn nhất trong thành
phố. Nó phấn đấu hết mình và trở thành một đảng viên nòng cốt. Cuộc đời của nó
từ đó sang trang sách mới, từ một thằng bé bắt cua đen đúa, nay lột xác trở
thành một luật sư hàng đầu được ông Bí Thư thành ủy nâng đỡ lên làm Chánh Án
thành phố.
Ông Chánh Án là cánh tay
phải và là một trợ thủ đắc lực cho ngài Bí Thư kiêm Chủ Tịch thành phố trong
tất cả mọi vấn đề, từ đối ngoại với các nước anh em Xã Hội Chủ Nghĩa vì ông có
thể nói và đọc trôi chảy tiếng Nga; qua cả vấn đề đối nội trong việc thanh
trừng những đồng chí của mình không cùng phe phái bằng cách ghép tội danh tham
nhũng, hủ hóa, thậm chí là phản động. Hai người như cặp bài trùng, đi song đôi
và hỗ trợ nhau. Ông Chủ Tịch là người có mặt trong tất cả mọi cuộc họp báo; ông
Chánh Án, ngược lại, ít khi xuất hiện nơi công cộng, lúc nào cũng kín tiếng và
làm việc sau hậu trường.
Nhiều năm trôi qua, ông
Chánh Án giờ đây đã 50 tuổi, vẫn sống một mình, không vợ con, không người thân.
Hành vi rất bí ẩn, ông không thích kết giao nhiều và chỉ có vài người bạn trong
giới chức quyền thành phố. Ông nuôi một bà già nhà quê, ít học, không biết đọc
chữ nhưng tuyệt đối trung thành và cho ở trong nhà để quán xuyến mọi việc trong
nhà. Ban ngày, một anh đầu bếp đến nấu nướng đặc biệt cho ông, chiều đến phải
ra về, không được ở lại. Ngôi biệt thự ông được thành phố cấp cho là một tòa
nhà xây cất từ thời Pháp thuộc, ẩn mình trong một một khu vườn cây cổ thụ rợp
bóng mát, trên một mảnh đất rộng rãi, người ngoài muốn nhìn vào cũng không thấy
gì. Đây là giang sơn riêng biệt mà ông chỉ mời một vài vị tai mắt và quan chức
trong thành phố đến những dịp tối quan trọng mà thôi. Ông chậm rãi, ngả người
dựa vào lưng ghế, mỉm cười hài lòng với cuộc sống hiện nay của mình.
NGUYỄN VĂN TỚI 5/2025
Mời xem tiếp phần 2
No comments:
Post a Comment