Ông
Chín Khởi đặt tách trà hột keo vừa mới uống vài ngụm xuống bàn, khoác vào người
chiếc áo sơ mi dày đã sờn rách vài chỗ được bà Chín vá lại rất khéo. Thân hình
lão ngư rắn rỏi, sạm đen với tiếng cười nói rổn rảng của dân miền biển làm ông
có vẻ trẻ hơn nhiều so với tuổi ngoài 60. Ông kiểm lại lần nữa những vật dụng bất
ly thân trong mỗi chuyến ra khơi đựng trong cái thùng thiếc có nắp đậy và có cột
dây đeo. Cái thùng này vốn trước kia là thùng đựng dầu của hãng con sò đã theo
ông từ hồi mới bắt đầu đi biển, nó có thể trở thành cái phao cứu sinh khi cần
thiết.
Trong
rất ít đồ đạc mang theo khi đi biển, cái mà ngư dân đóng đáy quan tâm bậc nhất,
đó là con dao xếp bén ngót có dây để mang vào cổ. Giữa biển cả mênh mông, những
miệng đáy vô tri giăng thành hàng không hề phân biệt được cá tôm hay ngư phủ, nếu
lỡ sút tay trợt chân rơi xuống dưới rượng đáy, chỉ cần nước biển xiết dòng chứ
chưa nói tới phong ba bão tố thì đã bị cuốn hút vào miệng đáy không có đường
ra. Lúc đó trong bụng lưới dưới lòng đại dương sâu thẳm chỉ còn con dao đeo trước
ngực là có thể cứu sống ngư dân bằng cách rạch lưới bơi ra, nếu không thì chỉ
còn ngàn thu vĩnh biệt!
Lâu
lâu vào cuối mỗi con nước khi tàu thuyền cập bến khoảng giữa đêm hay rạng sáng,
lẫn trong tiếng rộn rạo, lao xao của người về kẻ đón, thi thoảng vẫn nghe tiếng
khóc đàn bà bật lên nghe thắt ngực, đứng tim. Rồi một thi thể bợt bạt, cong
queo nằm trên tay lưới khiêng ngang xóm đáy, vậy là con nước tới vắng một người
bươn bả ra khơi để đem về cho vợ con chén cơm manh áo. Nhiều người ở vùng biển
này cho rằng không có lời thề nào nghiêm trọng, linh thiêng hơn lời thề “chun
đáy”, kế đó là “sập đáy”!
Ông
Chín cẩn thận quấn dây chung quanh con dao xếp, ông sẽ đeo nó trước khi bước
lên chòi đáy, chuẩn bị găm hoặc thu lưới, di chuyển trên những sợi dây chão lúc
căng lúc chùng theo hàng cột đáy trụ giữa đầu sóng ngọn gió, nơi giao thoa giữa
sông và biển. Nơi đó con người thật vô cùng nhỏ bé, lại bám víu vào một thứ
cũng nhỏ bé mong manh không kém trước đại dương, đó là những rượng đáy hàng
khơi xa thẳm với cái chòi canh treo trên cột đáy cheo leo.
Ông
Chín uống cạn tách trà đã nguội, đi chân không rời khỏi nhà, ghe đáy đang đợi
ông ngoài cảng cá để bắt đầu chuyến ra khơi cách bờ gần 20 hải lý.
Hai
vợ chồng ông chín Khởi có cả thảy 5 người con, đứa đầu là thằng Hai Soài, đứa kế
là thằng Ba Rạp, kế nữa là thằng Tư Láng, hai đứa con gái là Năm Lanh và Sáu
Quanh. Cả gia đình sống trong một cái nhà lá ở tận Cống số 0, nơi giáp ranh với
rừng đước bạt ngàn của xã Kiểng Đôi.
Sau
khi lập gia đình, thằng con trai lớn đã cùng vợ đi bỏ mối tôm cá khô từ Kiểng
Đôi lên Chợ Lớn rồi lập nghiệp luôn trên đó. Thằng Ba cũng vậy, bỏ nghề biển về
quê vợ miền nước ngọt trồng vườn cây ăn trái, lâu lâu chúng nó đưa mấy đứa cháu
nội về thăm, vợ chồng ông Chín cũng mừng khi thấy các con đều làm ăn khấm khá
mà quên mất đã giận chúng nó bỏ nghề hạ bạc vì sợ hậu quả “nhất phá sơn lâm, nhị
đâm hà bá”.
-
Đó, ba thấy không, nhà mình theo nghề biển mấy chục năm nay mà cứ phải ở trong
cái nhà lá này, tụi con thì dốt nát, ba má thì cơ cực cả đời...
Đó
là lời cay tiếng đắng của thằng Soài khi vợ chồng nó quyết định rời xứ Kiểng
Đôi. Không phải là ông Chín không biết điều đó, nhiều đêm nằm trằn trọc trong
chòi đáy ở xa tít ngoài khơi, chung quanh chỉ có tiếng sóng vỗ và tiếng kẽo kẹt
của giàn dây chão giữa biển cả mênh mông, ông đã không nén được tiếng thở dài
não nuột. Phải, ba đời nhà ông đều theo nghề đáy sông Cầu, biết bao nhiêu gian
nan nguy hiểm, đem sinh mạng phó thác cho thủy thần mà chưa ai dựng nổi một miệng
đáy để nuôi vợ con. Nhưng nếu buông cái nghề này ra thì biết làm gì bây giờ,
hơn nữa ông đã gắn bó với nó gần hết đời người, những khi nằm bờ vì mãn con nước
hay vì biển động ông nhớ biển nhớ chòi đến thẫn thờ.
Thôi
thì phận ai nấy giữ, cũng mong cho con cái đổi đời miễn đừng đứa nào quên quê
hương xứ sở, quên biển cội sông nguồn. Nói cho cùng, chúng nó rời quê hương đi
xứ khác mưu sinh thì cũng giống như con rạch Cần Lộc đổ ra sông Soài Rạp rồi
băng mình ra biển Đông vậy thôi! Dòng chảy đó vơi đầy theo từng con nước đã đem
về nguồn lợi dồi dào cho người dân xứ biển, tạo công ăn việc làm cho biết bao
người trong cái xã Kiểng Đôi này.
Năm
con Lanh 18 tuổi,ông bà Chín gả nó cho con trai của một nhà có tới mười mấy miệng
đáy bên Bình Đại. Họ sang thêm hàng đáy gần bên chủ ông Chín, rồi vài xị đế với
con cá nhám tươi rói làm bữa tả-pín-lù trên cái chòi canh lộng gió là coi như
duyên phận của hai đứa nhỏ đã được định đoạt!
Từ
đó nhà chỉ còn hai vợ chồng ông và thằng Láng với con Quanh. Ông thì vẫn bán
mình cho biển, bà thì đầu tắt mặt tối làm mướn khắp nơi, hai đứa nhỏ vẫn còn
đang tuổi ăn tuổi lớn.
***
Con
nước này thật kỳ lạ, bà Chín lầu bầu với thằng Láng lúc ngồi đập vỏ sắn ngâm lưới
cho chủ đáy, mấy lần bà đã sơ ý tự đập vào tay mình đau điếng. Con nước gì mà đổ
đục toàn sứa với cá nóc, lâu lâu lộn vô vài con ốc, con đẻng, mấy trái bần sâu,
còn tệ hơn những con nước mùa gió chướng khiến chủ đáy rầu thúi ruột, làm bà
Chín cũng buồn lây. Biển thất, tiền công chẳng bao nhiêu, vậy là chuyến này ông
Chín không thực hiện được lời hứa lợp lại cái nhà cho vợ con trước mùa mưa.
Đêm
về hai cánh tay mỏi nhừ, bà Chín nhờ con Quanh xoa dầu nãy giờ vẫn không thấy bớt.
Áng chừng hai anh em nó đã ngủ say, bà nhẹ nhàng mở cửa bước ra vặn sáng ngọn
đèn bão treo trước cửa. Nhìn ngọn đèn bà liên tưởng đến ngọn đèn hắt hiu ngoài
biển trên chòi canh của ông Chín mà thấy chạnh lòng. Đợt này về bà sẽ khuyên
ông nghỉ đi chòi, già rồi mà phải thức khuya dậy sớm để canh con nước, rồi giặt
lưới, phơi lưới..., đêm hôm sóng to gió lớn ngoài biển biết bao nguy hiểm chực
chờ. Ở trên bờ thiếu gì việc làm vừa sức ông, còn có thằng Láng đỡ đần lo gì
thiếu đói (bà nghĩ vậy nhưng chắc gì ông đã chịu nghe)!
Bà
Chín cứ đi tới đi lui ngoài hàng ba, gió giờ này rồi mà vẫn còn cố mang cho hết
hơi nóng của một ngày biển thổi ập vào người như rang tép, như sấy mực, bà thấy
bứt rứt gì đâu!
Vô
nhà nằm lăn qua lăn lại vẫn không thể nào chợp mắt, đâu chừng quá nửa đêm bà
Chín hốt hoảng ngồi dậy lao ra cửa khi nghe tiếng gọi thất thanh của vợ thằng
Siêm trong xóm:
-
Bác Chín ơi! Bác Chín!
Tiếp
đó là tiếng lao xao, rầm rì của nhóm người theo sau một cái võng lưới, trên đó
bà nhận ra ngay ông Chín bởi cái ống quần nhuộm sắn quen thuộc. Bà điếng hồn
lao tới, hai người khiêng võng vẻ mặt buồn bã lẳng lặng đưa ông Chín vào trong
nhà, đặt ông nằm trên cái giường tre, sửa lại cái mền chỉ đắp trên người ông từ
cổ xuống kín hai bàn chân, trên mặt ông ai đó đã phủ lên một tấm giấy điều đỏ
thẫm.
Tiếng
kêu khóc của hai anh em thằng Láng bật lên thảm thiết, bà Chín như một người
đang mộng du vẫn không tin chồng mình đã chết. Bàn tay run rẩy của bà giở tấm
giấy điều như giở bỏ một tấm màn đen tối mong thấy lại hình ảnh an lành của người
bạn đời trở về nhà sau chuyến ra khơi, nhưng trước mắt bà chỉ là một gương mặt
im lìm, xa lạ. Bà nghe tiếng của người chủ đáy như vọng về từ đáy biển:
-
Đây là một việc rất đau lòng, hàng đáy bị sập, biển thất nên có mình anh Chín
canh đáy, ảnh bị rơi xuống cùng với đám lưới đang phơi, không thoát ra được. Tụi
tui xin thành tâm chia buồn với gia đình.
Bà
Chín, người đàn bà suốt đời ngóng về phía biển khơi để chờ chồng, đã ngã vật ra
nền đất bất tỉnh. Không một tiếng khóc, không một lời nói, không một giọt nước
mắt nào lăn ra từ khoé mắt nhăn nheo của bà.
Chủ
đáy cũng là người tình nghĩa, mặc dù đang hứng chịu những tổn thất do sự cố sập
hàng đáy nhưng ngoài chi phí cho đám tang họ cũng trả đủ tiền công của con nước
này, cho thêm một khoản tiền kha khá để mấy mẹ con bà Chín xoay xở trong lúc
khó khăn.
Tiền
vào nhà khó như gió vào nhà trống, chưa đầy nửa tháng tất cả tiền đã bốc thành
hơi bởi những khoản nợ lặt vặt cả năm nay ngoài chợ hay ở mấy tiệm hàng xén. Nỗi
đau chưa lắng xuống, bà Chín tiếp tục làm thuê khắp nơi, đi lượm (phân loại
cá), xẻ cá, lột tôm, đạp mắm, đập tôm khô, vá lưới..., việc gì cũng làm kể cả
công việc ngoài ruộng muối dưới cái nắng thiêu đốt thịt da.
Thằng
Tư Láng đã 17, cái tuổi bẻ gãy sừng trâu của nó bây giờ là chỗ dựa cho mẹ và đứa
em gái. Sau cái chết thương tâm của chồng, bà Chín cương quyết không cho thằng
Láng đi biển mà xin cho nó vô làm công ở lò mắm Quê Hương, lương hơi thấp nhưng
gần nhà lại không phải quá cực khổ nguy nan như nghề bạn đáy.
Còn
Sáu Quanh cũng đã 14 tuổi, thỉnh thoảng cũng đòi đi làm với má nhưng bà Chín bắt
ở nhà lo cơm nước. Thêm cái nó còn nhỏ nhưng biết nấu món canh mẳn rất ngon, đó
là món canh chỉ có người vùng biển này nấu mới đúng hương vị mộc mạc nhưng đậm
đà mà dù họ có đi đâu cũng không thể nào quên. Chính ông Chín Khởi đã dạy cho
nó nấu, cái mùi vị đặc biệt của món canh xuất phát từ sự tươi ngon của con cá mới
đánh bắt trên biển, từ những trái cà chua, cọng hành, trái ớt, những nhánh quế
hay ngò gai đã trở thành rau khô do từ đất liền mang ra chòi canh để gần cả một
con nước, thêm ít nước mắm và tiêu xay..., tất cả những nguyên liệu đơn sơ đó
được cho vào nồi theo một thứ tự nhất định đã tạo nên hương vị ngàn khơi của
món canh ngư phủ.
Vậy
là con Quanh chỉ ở nhà để nấu cơm cho má và anh, những bữa cơm đơn sơ không chiếm
nhiều thời gian của nó. Buồn buồn, nó hay đi dọc bìa rừng xanh ngắt cặp theo
tuyến đê biển như đôi giao long hiền lành đang nằm lắng nghe tiếng sóng. Đó là
khu rừng phòng hộ che chắn suốt chiều dài của xã Kiểng Đôi cho tới đầu chợ Vàm.
Quanh
thường vào rừng nhặt những trái bần rụng, có khi leo lên cây như khỉ để hái mấy
trái bần ương hoặc hơi non một chút nhưng nó thích ăn hơn. Bần non xanh đậm, vừa
chua vừa chát nhưng chấm muối ớt thì ngon tuyệt, ăn kèm với mắm cá cơm nữa thì
bao nhiêu cơm cũng hết. Bần chín thì dầm ra nấu canh chua với cá, tôm, cua hay
mực cũng được, chưa kể má nó còn chế biến một loại mứt nhừ từ những trái bần
chín rục, có thể cho thêm ít nước và nước đá vào quậy lên uống là ghiền luôn.
Tóm lại nó thấy vui vì có những trái bần, thật nhiều trái bần trong túi áo,
trong cái rổ cảo nhỏ xinh của nó, nhiều khi ăn không hết chẳng biết để làm gì.
Chưa
kể con Quanh còn mê mẩn những nụ bần vừa hé nở lộ ra những tua nhị màu đỏ san
hô còn cuốn chặt bên đài hoa xanh lục, nó đâu biết rằng vẻ đẹp tinh khôi đó là
cội nguồn tồn sinh của những trái bần mà có lúc nó nâng niu như một gia tài.
Con Quanh cứ tha thẩn cả
buổi trong rừng đước, leo trèo trên những cây bần, cây mắm, tay chân mặt mũi
lấm lem bùn đất, nó cười khúc khích khi thấy mấy con cá thòi lòi đang cắn nhau
trong vũng sình giật mình phóng tuốt vô gốc đước rồi trố mắt ra nhìn nó. Cả mấy
con còng màu sắc sặc sỡ kia nữa cũng là đồ chơi của nó, chúng quá dễ thương và
sạch sẽ một cách kỳ lạ giữa sình lầy. Chúng cõng những cái mai tuyệt đẹp trên
lưng, nhiều nhất là màu xanh da trời và màu cam, còn lại là màu đen, trắng, cả
màu nâu cũng có. Bước chân con Quanh làm chúng vội tuột ngay xuống hang, chỉ
cần bẻ một nhánh đước nhỏ chặn cách cửa hang chừng một gang tay là chúng lại bò
ra chỉ việc chụp là dính. Tuy nhiên nó chưa bao giờ làm đau hay làm chết một
con còng nào, kể cả những con mang chiếc càng to tướng mà người ta hay bắt rồi
bẻ càng đem luộc bán ngoài chợ thành một món đặc sản gọi là càng còng, thân
còng thì làm mắm, cũng thành đặc sản là mắm còng! Còn nó khi bắt được mấy con
còng, nó chỉ cho bò trên tay một chút thôi rồi thả chúng về hang, có khi cũng
bị còng kẹp nhưng không đau mấy.
Có
bữa con Quanh lang thang trong rừng đước kiếm bông ô rô để chưng bàn thờ ông
Chín. Ở vùng nước mặn quanh năm cỏ cây khô đéng, cháy vàng, hoa trái phải đem từ
nơi khác đến nên đắt kinh khủng. Vì vậy trên bàn thờ ông Chín thường ngày chỉ
có bông ô rô, sang hơn một chút là bông giấy xin của mấy nhà ngoài chợ.
Mải
ngó quanh ngó quất nó đã vượt quá giới hạn mà bà Chín đã căn dặn, đó là không
được đến gần khu vực biên phòng.
Cái
đồn biên phòng lúc đó chỉ cách nó chừng non chục thước, nó đang nghểnh cổ dòm
coi có ai không thì thấy vắng ngắt, chắc mấy anh lính đi tuần hết rồi! Bất ngờ
một con chó to gần bằng nó chồm lên sủa liên hồi muốn thủng cả lỗ tai. Nó hoảng
hồn ụp cái rổ bần vào ngực co giò chạy thục mạng, cũng may là con chó bị cột
vào cây đước sát đồn chứ nếu không thì…
Từ
đó con Quanh không còn dám bén mảng tới gần đồn biên phòng, mặc dù... hầu như
ngày nào nó cũng vô rừng tìm hái mấy trái bần, chơi với bầy cá thòi lòi và đám
còng cưng của nó.
******
Hôm
nay thằng Láng được nghỉ sớm, thường ngày nó vẫn về sau khi bà Chín đã đi nằm. Nhà
cửa trống không, con Quanh chắc lại đi hái bần nữa rồi, tội nghiệp con nhỏ
không có ai chơi cùng, cả con mèo con chó cũng không. Cái xóm đáy thưa rỉnh vài
mái nhà, ai cũng đầu tắt mặt tối ngoài thớt cá hoặc đi làm mướn cả ngày, không
có ai cùng trang lứa với em nó cả.
Tư
Láng xuống bếp giở nắp nồi cơm, chỉ còn chút cơm cháy dưới đáy nồi, chảo tép
rang bữa trưa ăn chưa hết còn bắc trên bếp. Giờ này sao con Quanh cũng chưa về
lo cơm nước, một lát má về tới thế nào cũng bị la cho coi, Láng vừa thắc mắc vừa
đi lấy gạo nấu cơm.
Cơm
vừa sôi thì bà Chín về tới, hôm nay đến kỳ vựa cá trả tiền công còn cho một mớ
khô cá lưỡi húa và tôm đuôi mang về. Bà định bụng sẽ biểu con Quanh làm món khô
nướng chấm nước mắm bần, thằng anh nó chắc là khoái phải biết! Còn mớ đuôi tôm
khô này cùng với một ít nếp cũ trong bếp, sáng mai bà sẽ làm món xôi mặn để mấy
mẹ con ăn lót lòng.
Nhưng
hai má con bà Chín chờ hoài, chờ mãi, vừa đói vừa lo, không biết con Quanh đi
đâu tới giờ vẫn chưa thấy về. Lác đác xa xa vài nhà trong xóm đã đỏ đèn, thằng
Láng ra ngồi bệt xuống ngạch cửa hai tay bó gối ngóng chừng về phía cánh rừng
đã xuống màu xanh đen.
Bà
Chín đang nằm nghỉ mệt trên tấm vạt giường kê sát đất, nghe tiếng chó sủa văng
vẳng từ hướng đồn biên phòng bà bỗng ngồi bật dậy kêu lên:
-
Thôi chết rồi Láng ơi! Nãy về ngang chợ má nghe nói có thằng ngáo đá bị nhốt
ngoài đồn biên phòng mới trốn thoát hồi xế trưa. Con Quanh... trong rừng đước...
-
Trời ơi, sao nãy giờ má không nói! Bữa nào nó cũng vô trong đó...
Hai
mẹ con chỉ kịp quơ lấy cái đèn bão đang treo ngoài cửa, lập cập bật ống quẹt.
Chạy ngang mấy căn nhà còn tối om trong xóm bà Chín kêu to:
-
Quớ chú Ba Gà, chị Hai Nhan, thằng Siêm, thằng Gộc... làng xóm ơi! Làm ơn đi kiếm
con Quanh phụ dùm tui!
Cả
nhóm người lớp rọi đèn pin, lớp xách đèn bão, có người còn quấn giẻ rách vào
cây củi tẩm dầu lửa đốt sáng cả bìa rừng. Tiếng mọi người gọi con Quanh vang khắp
khu rừng, vô tới giữa rừng họ đụng tốp lính biên phòng đang dắt chó đi lùng sục.
-
Bà con đi kiếm ai? Quanh nào? Tụi tôi quần nát hết khu này từ hồi chiều rồi có
thấy ai đâu, cả con đường tắt ra thị trấn cũng vậy.
Bà
Chín thất thần tựa vào người thằng Láng khóc không ra nước mắt:
-
Quanh ơi! Con ơi...
Dù
nghe tốp lính biên phòng nói vậy nhưng mọi người vẫn tích cực đi tìm không chừa
một gốc đước, một vũng sình nào. Họ vừa tìm vừa gọi con Quanh lạc cả giọng, vừa
cố an ủi bà Chín. Một nhánh dây cóc kèn vướng vào chân thằng Láng làm cả hai mẹ
con ngã quỵ. Dưới ánh đèn mù mờ bà Chín nhìn thấy cái rổ nhỏ của con Quanh,
chung quanh lăn lóc mấy trái bần non và một nhánh bông ô rô dập nát. Bà thét
lên:
-
Quanh ơi! Con đâu rồi Quanh ơi?
Mọi
người hộc tốc rọi đèn tìm khắp chung quanh khu vực đó, chỉ thấy rễ đước đan xen
chập chùng dưới hàng ngàn thân cây thẳng tắp như câu trả lời lạnh lùng của số mệnh.
Mẹ
con bà Chín ở trong rừng đước cho tới sáng, bà nằm mẹp dưới đất không dậy nổi,
mắt mở hé lờ đờ, tóc tai dã dượi. Còn thằng Láng chỉ qua một đêm mà thiếu điều
nhìn nó không ra! Nó cứ đi vòng vòng chỗ con Quanh buông rơi rổ bần, cố tìm ra
chút tăm hơi của em nó, ra xa hơn một chút cũng không thấy gì. Nó lại không thể
bỏ mặc bà Chín để đi giáp khu rừng một lần nữa. Không nói ra nhưng nó nghĩ cả
lính biên phòng cũng không thấy có dấu vết sát thương, hy vọng con Quanh chỉ bị
khống chế, đưa đi đâu đó, thậm chí... Chỉ cần con bé vẫn an toàn tính mạng và
trở về nhà.
Từ
đó bà Chín cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, buông hết mọi việc cho thằng Láng. Bà tự trách
mình đã bỏ mặc đứa con gái út mà bà hết mực thương yêu ở nhà một mình và đã
không ngăn cấm nó vào rừng. Bởi bà cũng như nhiều người trong xóm Cống đã xem rừng
đước kế bên nhà như khu vườn của nhà mình, bắt cua, bắt cá, hái bần, mót củi...
bình yên bên rừng đã ngót một đời người, hơn nữa còn có đội biên phòng.
Nhiều
ngày liên tiếp bà Chín lang thang khắp khu rừng với hy vọng mong manh sẽ có một
dấu hiệu gì đó để tìm ra con gái. Có lần người ta gặp bà ngất xỉu ngoài bìa rừng
với mấy trái bần nhỏ nắm chặt trong tay.
Công an địa phương vẫn
đang tích cực truy tìm dấu vết kẻ ngáo đá và bé gái ở xóm Cống nhưng hình như
đã không còn hy vọng.
Nguyễn Thỵ
No comments:
Post a Comment