Chị Thiên Kim sinh trưởng vào
thập niên năm mươi của thế kỷ trước, trong một gia đình khá giả có cửa hiệu
buôn bán ở phố Ngã Giữa-đường Phạn Bội Châu, Huế (Từ năm 1976 đổi tên thành đường
Phan Đăng Lưu). Hồi học trường Đồng Khánh chị đã nức tiếng hoa khôi, nên mỗi lần
tan lớp, có nhiều “cái đuôi” theo về tận ngõ, hoặc trồng cây si trước cổng đợi
tan trường. Thế nhưng chị con nhà gia giáo nền nếp, chăm lo học hành. Ngoài giờ
học chị còn phụ mẹ làm các công việc nội trợ, đan lát thêu thùa rất khéo tay.
Lúc nào cũng ăn nói nhẹ nhàng, duyên dáng. Tính tình đằm thắm chỉn chu nên rất
được thầy cô và bạn bè thương mến. Chị có người anh trai tên là Trọng Bình. Anh
Gia Phước là bạn của Trọng Bình, thường tới học cùng với anh Trọng Bình và được
gia đình rất quý và coi như con cái trong nhà. Anh Gia Phước cũng rất quí Thiên
Kim, cưng như em gái của mình. Ba anh em rất hợp nhau. Hai anh ngoài giờ học
thì phụ việc trong nhà và bày vẽ thêm cho Thiên Kim học. Sau khi tốt nghiệp tú
tài, chị Thiên Kim tiếp tục vào sư phạm. Anh trai chị và anh Gia Phước cũng
đang bước vào năm cuối của trường sư phạm, chuẩn bị ra trường. Hồi đó sau khi tốt
nghiệp, dựa vào số điểm sẽ được chọn nhiệm sở từ cao đến thấp. Theo nguyện vọng
của mình, Anh Gia Phước chọn dạy trường trung tâm nội đô cho gần nhà. Còn anh
Trọng Bình lại muốn bay nhảy tới nơi có khí hậu biển ở Mỹ Khê Đà Nẵng và cũng để
gần nơi công tác của vị hôn thê của anh ấy.
Thế rồi anh Gia Phước với
công việc giảng dạy gần nhà, cũng đã yên bề gia thất nhưng lòng anh vẫn canh
cánh lo cho đứa em đời là chị Thiên Kim mà anh rất cưng quý. Trong nhóm bạn của
anh có một người ở trong thành nội. Đó là anh Trần Đình Tùng. Anh Tùng đang học
trường võ bị Quốc gia Đà Lạt. Tướng tá coi cũng đặng, rắn rỏi con nhà lính. Có
lần anh Gia Phước nói như đùa:
-Mi thích Thiên Kim đúng không? Mi với nhỏ thiên Kim được đó, mi
cưới hắn đi cho tụi tau yên tâm, không thôi tao với Trọng Bình ai cũng có gia
đình riêng mà nó chưa yên bề gia thất mặc dù cũng có mấy người đang theo đuổi
nhưng Trọng Bình chưa ưa ý.
Tưởng nói chơi vậy té ra
Đình Tùng thích thật. Anh Tùng thầm yêu chị Thiên Kim lâu rồi nhưng đời lính xa
nhà nên không dám tỏ, phần vì nể sợ anh trai Trọng Bình, sợ ảnh không đồng ý.
Nay nghe anh Gia Phước mở lời anh Đình Tùng mừng như mở cờ trong bụng.Thế rồi
trong những ngày nghỉ phép, anh Đình Tùng tới lân la làm quen nàng tiểu thư
xinh đẹp và được sự hỗ trợ của hai người anh, chị Thiên Kim cũng xiêu lòng:
- Em lấy Đình Tùng được đó, nó con nhà đàng hoàng lại chững chạc,
vẻ đẹp con nhà lính.
Mà lính là thần tượng “người
hùng”- một thời của các nữ sinh. Chị Thiên Kim dần dà cũng có cảm
tình với anh Đình Tùng.
Sau lễ tốt nghiệp của
chị không lâu thì anh Đình Tùng cũng mãn khóa học ra trường với cấp bậc thiếu
úy lục quân. Đám cưới được cử hành trọng thể trong sự chung vui của họ hàng hai
bên và anh em bè bạn. Cô dâu xinh tươi trong tà áo dài lụa hồng, áo choàng voan
và khăn vành rất đẹp bên chàng rễ thiếu úy lục quân bảnh bao. Hai người anh là
Trọng Bình và Gia Phước rất vui khi cô em gái đã có bờ vai để dựa. Mừng cho hạnh
phúc của anh chị. Hai người đã có cuộc sống rất vui vẻ hạnh phúc và rồi vài năm
sau đó lần lượt hai đứa con trai kháu khỉnh ra đời, một gia đình đáng mơ ước,
êm ấm, ríu rít tiếng trẻ thơ.
Thế sự đổi dời, sau 1975,
anh thuộc quân đội của bên thua cuộc nên anh bị đem đi học tập cải tạo.
Ngày anh nhận được giấy triệu
tập thông báo ra phường trình diện trong giấy có dặn chuẩn bị đồ dùng và thức
ăn cho khoảng 10 ngày đến 1 tháng. Chỉ học tập chính
sách rồi về.
Nhưng khi anh tới thì được
đọc tên lên xe chở ra các trại cải tạo ở miền núi phía Bắc chưa biết khi nào về.
Chị Thiên Kim ở nhà một nách hai đứa con nhỏ. May mà chị còn được nhận đi dạy
(diện giáo viên lưu dung). Chị đêm nằm lo lắng không yên, ngày đi làm và vò võ
đợi chờ tin tức của anh. Sau sáu tháng chị mới nhận được tin của anh. Lá thư vỏn
vẹn mấy dòng cho biết là anh khỏe, đang học tập cải tạo ở trại X 30 thuộc tỉnh
…Tin để em hay! Gửi lời thăm ba mẹ hai bên. Nhớ em và con nhiều!
Chị biết tin anh đỡ lo hơn,
mặc dù đoạn đường phía trước còn rất dài. Nhưng có địa chỉ để đi thăm nuôi cũng
là quý. Đồng lương thời bao cấp không đủ chi tiêu. Chị chạy vạy gửi con cho ngoại
rồi buôn bán chạy chợ thêm bất kể nắng mưa, khuya sớm mới mong có tiền nuôi
con, trang trải cuộc sống.
Từ khi nhận được tin anh,
chị bắt đầu chuẩn bị cho cuộc thăm nuôi. Đầu tiên là lên phường xã xin giấy đi
đường, mua vé tàu và chuẩn bị mua sắm vật dụng, thức ăn khô, làm các món kho
rim khô để anh dùng nhiều ngày, làm một số loại bánh rồi sấy khô, mua thêm áo
quần, thuốc men để anh dùng . Xếp vào cả thảy 3 giỏ xách, mỗi giỏ khoảng chục
kg rồi tất tả gửi con cho ngoại để đi thăm nuôi chồng. Lên tàu chợ thời bao cấp,
nói sao cho hết nỗi cực nhọc, người và hàng hóa, có cả lợn gà vịt chen chúc,
người ngợm vật vờ, bơ phờ như ma đói. Có khi tàu chết máy vài ba ngày trong
hành trình là chuyện thường. Lên tàu còn nỗi khổ nữa là bị thuế vụ săm soi tưởng
là đi buôn, thời này ai đi buôn mà thấy thuế vụ là khiếp đảm như thấy cọp. May
mà lên tàu chị gặp được mấy chị vợ cùng cảnh ngộ cũng đi thăm nuôi chồng. Họ
giúp đỡ nhau, canh cho nhau để chợp mắt lấy sức, hồi này hở là bị mất cắp. (có
người đã từng bị trộm giật hết mấy giỏ đồ bới cho chồng, khóc như mưa)
Đi bầm dập trên tàu mấy
ngày đêm rồi cũng đến. Mấy chị em dắt díu nhau xuống một ga hẻo lánh thuộc xã
miền núi biên giới phía Bắc xa xăm. Trời tối hẳn, mấy chị em gồng
gánh hàng đi tìm nhà trọ nghỉ chân qua đêm trong cái rét cắt da cắt thịt của
mùa đông biên giới. Sáng hôm sau dậy nấu tạm món mì lót dạ rồi chị em lại lỉnh
kỉnh gồng gánh hàng thăm nuôi quày quả trên vai và cuốc bộ đường rừng. Chị gánh
không quen, hai vai đỏ tấy, người mệt lả nhưng phải ráng! Hết ngày đường bộ hi
vọng gặp anh như tia sáng cuối đường hầm giúp chị quên đi bao nỗi nhọc nhằn. Đi
đoạn lại ngồi nghỉ một chút lấy sức, men theo những con đường rừng ngoằn ngoèo,
lúc lại phải bì bõm lội suối, rất sợ rắn rết, vắt và cả thú dữ. Cũng nghe nói
có người đi thăm nuôi từng bị thú dữ dọc đường ăn thịt, ai cũng rờn rợn, nổi da
gà nhưng không còn lựa chọn nào hơn. Tối trời ở đâu thì trải áo mưa ra ngủ lấy
sức ở đó, lại làm mồi cho muỗi rừng hút máu no nê. Thêm một ngày đường nữa mới
tới trạm đón tiếp thân nhân. Mấy chị em được cán bộ cho nghỉ ở một căn nhà lá
ven rừng bên bờ suối, bên kia cách ngăn là trại cải tạo. Nhìn từ xa thấy từng
nhóm người tù đi làm: tốp thì cày bừa, trồng trọt để cải thiện bữa ăn.
Đến sáng hôm sau, mấy chị lần
lượt được gọi tên qua gặp người thân. Chị được gọi tên, thật
hồi hộp, tay xách nách mang đồ nặng nhưng chị thấy giờ đây không nặng nữa, anh
Đình Tùng kia rồi, nhưng chị nhìn không ra, ảnh khác quá! Có chăng chỉ còn ánh
mắt thân quen với ánh nhìn đầy yêu thương pha lẫn nỗi mừng tủi… Anh ốm quá, râu
tóc mọc lởm chởm, có lẽ anh không hợp khí hậu nơi đây. Anh ngồi đối diện với chị
trong một cái bàn gỗ, ở đầu bàn có sự canh gác của hai người cán bộ. Hai anh chị
được nói chuyện với nhau (được phép trong 1 h), thăm hỏi dăm ba câu, anh hỏi
thăm các con, hai gia đình nội ngoại rồi dặn dò em ráng nuôi con đợi ngày anh về.
Chị nhìn anh nước mắt lưng tròng nghẹn ngào không nói được gì nhiều. Cán bộ
thông báo đã hết thời gian gặp. Anh nhận quà thăm nuôi rồi lầm lũi bước vô trại,
chị nhìn theo anh một quảng, đợi anh đi khuất rồi chị mới trở lại con đường mòn
để về lại ga tàu, mua vé trở lại Huế. Ở nhà các con cũng đang đợi chị.
Một thời gian anh lại bị
chuyển đi trại khác, chị lại lần hồi sắm sửa đi thăm nuôi, cứ thế lúc thì chị
đi một mình, khi thì đem theo hai con để cho các con được nhìn thấy cha, cho
anh thăm, an ủi anh, cải tạo cho tốt (theo lời cán bộ) để sớm đoàn tụ với gia
đình, trở về cùng chị làm lụng nuôi con.
Sau mấy năm đằng đẵng, thế
rồi thời gian cải tạo cũng đã hết anh được trở về! Chị nói sao hết nỗi vui mừng,
từ đây anh chị bắt đầu làm lại cuộc sống.
Thời gian đầu anh chưa có
quyền công dân, sức khỏe cũng còn yếu nên anh ở nhà chăm con, còn chị đi dạy và
chạy chợ. Chị lại ngược xuôi buôn bán tảo tần để lo cho gia đình. Dẫu vất vả
nhưng có anh bên cạnh chị cũng ấm lòng. Một năm sau thì sức khỏe của anh đã tốt
lên, anh lấy lại phong độ nhờ một tay chị biết chăm lo, vén khéo gia đình. Các
con lúc này đã vào tuổi học, những tưởng hạnh phúc vẹn toàn từ đây, bù đắp cho
chị những tháng ngày đơn côi, vất vả nuôi con, chờ chồng và thăm nuôi. Nhưng sự
đời có những bất ngờ xảy đến ngoài sức tưởng tượng của chị và của những người
xung quanh. Anh bắt đầu có tình nhân. Rồi một ngày anh đành đoạn bỏ lại vợ và
con thơ để đi theo tình mới. Chị đau khổ tột cùng, tưởng chừng như trời đất sụp
đổ dưới chân mình. Không thể gắng gượng dậy được nữa, nhưng tiếng khóc của các
con kéo chị trở về để đối diện với thực tế. Dù cay đắng phủ phàng thế nào đi nữa
chị cũng ráng sống, các con cần mẹ. Thiên chức làm mẹ cho chị thêm sức mạnh, chị
đứng lên, lại lao vào công việc mưu sinh làm lụng nuôi con. Chị lấy công việc
quên đi nỗi đắng cay của người vợ đã hết lòng chăm lo chồng nhưng bị chồng ruồng
bỏ. Lúc này gia cảnh của chị thật bơ vơ, con còn nhỏ mà không có người đàn ông
trụ cột của gia đình, chị một gánh hai vai. Vừa làm mẹ vừa làm cha để dưỡng dục
các con. Lúc này chị mới hai mươi bảy tuổi. Dù vất vả là thế nhưng nhan sắc chị
vẫn mặn mà lắm nên không thiếu những người đàn ông xung quanh ve vãn. Nhưng
không, chị khước từ tất cả. Niềm vui của chị giờ đây là nhìn thấy sự khôn lớn mỗi
ngày của các con. Có lần người phụ nữ đơn độc ấy lại bị đứa em cùng cha khác mẹ
giành nhà không cho chị ở. Chị lại phải nhờ đến công lý phân xử. Lúc này anh Trọng
Bình ở xa, nên may mà còn có anh Gia Phước là người anh tin cậy. Anh Gia Phước
chở chị đi lo những thủ tục giấy tờ nhà, mong trắng đen được minh bạch. Anh Gia
Phước rất nhiệt tâm và lo lắng cho chị. Có lẽ anh nghĩ dù sao cũng có một phần
lỗi. Nỗi đa đoan mà em phải gánh, anh tự trách mình là ngày xưa nhìn lầm người,
tác hợp cho em một người chồng nông nổi, bội bạc. Anh ân hận lắm nên càng phải
giúp đỡ chị Thiên Kim trong khả năng của mình. Ít ra cũng là chỗ dựa về mặt
tinh thần trong lúc chới với như vậy.
Năm tháng trôi đi, các con
của chị nay đã trưởng thành, có công ăn việc làm và cũng đã nên gia thất. Bây
giờ con trai lớn của chị lập nghiệp ở Sài Gòn, còn con trai út lập nghiệp tại
Huế. Bây giờ chị đã lên chức bà nội với những đứa cháu kháu khỉnh. Chị đã hoàn
thành nhiệm vụ thiêng liêng của người mẹ hiền, vắng cha vẫn lo cho con cái ăn học
nên người.
Nay chị đã bước vào mùa thu
của người phụ nữ, dẫu đi qua những thăng trầm dâu bể nhưng nét duyên của người
con gái Huế xưa vẫn mặn mà đằm thắm! Thỉnh thoảng chị lại về cố hương và có dịp
cà phê hàn huyên cùng với anh chị em và những bạn bè tri kỷ.
Nghe
ai hát câu “gừng cay muối mặn”
Lỗi
hẹn rồi còn đâu nghĩa tào khang?
Chị mỉm cười xa xăm, những
đắng cay đã lùi vào dĩ vãng. Giờ còn chăng nỗi niềm thương câu “gừng
cay muối mặn” lỡ hẹn rồi, ai nỡ phụ tào khang.
Sài Gòn ngày 16/8/2022
HOÀNG THỊ
BÍCH HÀ
Chỉn chu là chữ của Việt cộng
ReplyDelete