Chuyện cười ra nước
mắt do một chiến hữu tại Úc viết cách nay 6 năm.
Bắc Kỳ 1954 đụng Bắc
Kỳ 1975 trên xứ người.
Năm 1984 sau 3 năm cày bừa vất vả nơi xứ người, tôi mua chiếc xe hơi mới
đi cho sướng, coi cái bàn tọa nó êm tới cỡ nào. Bạn bè cứ khuyên tôi hãy lấy
tiền đó trả bớt tiền nợ mua nhà mà mình vay của ngân hàng. Nó sẽ giảm tiền lời
mình phải trả hàng tháng cho họ nhiều lắm. Tôi để ngoài tai, hưởng thụ trước
đã!
Tôi đăng báo bán cái xe cũ vẫn còn rất tốt đã theo tôi cày cuốc
bấy lâu nay. Người khách đầu tiên điện thoại cho tôi đến nhà coi xe là anh Bắc
kỳ 75. Trông anh có vẻ đẹp trai, ăn nói lễ độ. Điều làm tôi ngạc nhiên là làm
sao anh có mặt trên xứ sở Úc châu này? Tôi không dám hỏi, chỉ lẳng lặng quan
sát anh.
Anh đi một vòng coi xe rồi nói: anh ơi! Em mới qua được dăm (vài)
tháng, cần xe đi làm, em không biết coi máy, em nghĩ anh là người Bắc năm tư
(54) nên em tin anh. Em không giả (trả) giá, nếu anh "đảm bảo"
máy tốt em sẽ chồng tiền mặt lấy xe ngay.
Tôi nói đùa cố ý chọc anh chút cho bõ ghét: nhà cụ cứ nhắm mắt vào mà
mua, nhà em cưỡi nó mấy năm nay rồi, tốt lắm. Cơ khí đảm bảo, chất lượng cao,
không khi nào bị đột xuất nằm đường. Mua về, nhà cụ không phải tốn tiền bảo
quản thêm, cứ việc xử lý vô tư...ư ...ư... Hơn nữa nhà cụ làm sao kiếm ra cái
xe hoành tráng mà giá cực kỳ rẻ như xe này của nhà em được cơ chứ???
Anh hiền từ nhìn tôi cười thoải mái, đồng ý mua ngay. Tôi mời anh vào
nhà làm giấy tờ sang tên. Anh năn nỉ tôi đi với anh ra nha lộ vận vì anh không
biết tiếng Anh. Tánh tôi hay thương người (cha mẹ "dzợ" tôi đông lắm
chứ không chỉ có 2) nên tôi đồng ý.
Công việc xong xuôi, anh mời tôi đi ăn phở. Thấy anh ăn mặc đúng là
người mới tới Úc, tôi không nỡ "ăn" tiền của anh bèn mời anh về nhà
tôi uống cà phê.
Anh cho tôi biết cái xe của tôi là cái thứ 10 anh đi coi vì thấy
giá rẻ. Anh mới nhìn xe của tôi là anh "kết" rồi. Đẹp, sạch sẽ từ
trong ra ngoài. Cái điều làm anh mua ngay là lối nói chuyện của tôi, có vẻ
không tha thiết để bán cho bằng được như những người kia. Điều đó làm anh tin
tưởng xe còn tốt.
Nghe anh nói tôi mới biết anh cũng thuộc loại dân buôn bán thứ thiệt
khiến tôi càng tò mò đời tư anh nhiều hơn. Qua cách nói chuyện của anh, tôi
biết anh muốn làm thân với tôi. Tự nhiên anh khai ra cuộc sống của gia đình anh
trước.
Anh là dân Hòn gai tỉnh Quảng Ninh ngoài Bắc. Năm 1974 tới tuổi đi
lính, anh phải gia nhập bộ đội. Đầu năm sau đơn vị anh được điều động vào Nam
"giải phóng" cuộc sống "lầm than đói rách" của nhân dân
đang bị "Mỹ Ngụy" kềm kẹp 20 năm nay!!! Câu này đứa bé con 6 tuổi ở
làng anh vào lớp 1, đã phải học thuộc lòng....
Trong bộ đội các chính trị viên lên lớp luôn nói rằng dân miền Nam không
có cái bát ăn cơm, phải ăn bằng gáo dừa. Dép không có mà đi. Con cái sanh ra
không được đi học. Lớn lên thành ăn trộm, ăn cắp, đĩ điếm. Lính "Mỹ
Ngụy" đi tới đâu là hiếp dâm đàn bà con gái tới đó. Còn "thằng
Diệm" "nó" lê máy chém khắp miền Nam...v...v...
Anh thầm nghĩ, cuộc sống ngoài Bắc này đã cực khổ lâu nay, chỉ mong cho
quân đội miền Nam ra giải phóng miền Bắc. Bây giờ trong đó họ còn khổ hơn mình
nữa thì còn trông mong gì... Năm trước B52 oanh tạc miền Bắc, mọi người đang
mong cho Đảng đầu hàng để đổi đời. Đùng một cái Mỹ ngưng ngang, tức muốn chết.
Chỉ cần oanh tạc thêm vài ngày nữa thôi là Đảng hả họng rồi!
Anh vượt đường Trường sơn với tâm trạng chán chường. Từ giã cha mẹ
trong nước mắt vắn dài, khóc thương cho sự chia ly, cằm chắc cái chết trước
mắt. Quê anh bao nhiêu thanh niên "hồ hởi phấn khởi" theo lời Bác vào
Nam, giờ này cũng chưa thấy ai có tin tức gì!
Lội suối băng rừng ngày đêm anh sợ sệt, hồi hộp, chim teo hết, chứ không
"hân hoan" như cái loa phóng thanh treo trước nhà anh, ngày đêm ra rả
một luận điệu giống nhau. Sau này anh mới biết, vì cuộc chiến gần tàn, Mỹ đã
rút nên trên đường vào Nam anh không được hân hạnh thưởng thức mùi bom của B52.
Sáng 30/4/75 đơn vị anh được lệnh sửa soạn cấp tốc tiến vào Saigon thì
đơn vị mở "đài" cho mọi người nghe "cái tên" Tổng thống
miền Nam Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng. Anh mừng đến chảy nước mắt, ôm bạn
bè nhảy múa ăn mừng. Anh thầm cám ơn tổ tiên đã cho anh còn sống sót.
Chỉ cần một tháng sau anh đã thực sự "mở mắt". Những lời
Bác, Đảng nói với anh khi xưa đều ngược lại. Thành phố Saigon bây giờ dù còn
đang bầy hầy, ngổn ngang sau ngày dân đua nhau tìm đường chạy ra nước ngoài,
trông vẫn còn sự sang trọng, "phồn vinh thật" chứ không giả tạo. Họ
vội vã ra đi với hai bàn tay trắng giống như năm 54, bỏ lại tất cả nhà cửa, tài
sản. Dân Saigon ăn nói hiền hòa, dễ thương. Tầm hiểu biết của họ vượt ngoài sự
tưởng tượng của anh bấy lâu nay.
Anh không hiểu nổi tại sao bộ đội của anh làm ngơ cho cái đám nhố nhăng
mặt mày bậm trợn, đeo băng đỏ vào cánh tay quậy tung đường phố. Lần đầu tiên
trong đời anh mới thấy cái TV, tủ lạnh, nhất là cái đồng hồ đeo tay có cửa sổ
lại không người lái (đồng hồ tự động có ngày). Cái gì cũng lạ với anh kể cả
cách ăn mặc của dân miền Nam, trông hấp dẫn đẹp mắt vô cùng. Anh bắt đầu hoang
mang, chán nản, hết còn tin tưởng những lời được Đảng nhồi nhét trong đầu anh,
từ ngày anh có trí khôn. Chỉ toàn lừa dối, láo khoét!
Trong những lần học tập chính trị, giảng viên có lên lớp nói với anh:
"Nói láo là một việc xấu, nhưng nói láo cho Bác và Đảng thì không
sao..."
Anh thèm muốn, mơ ước có được những đồ đạc tiện nghi vật chất ở
Saigon này mà trong túi lại không có tiền. Anh bắt đầu rình mò ăn cắp bất cứ
cái gì trong trại lính của anh đem bán. Các cơ quan của "Mỹ ngụy" mà
đơn vị anh vào tiếp quản đầy dãy đồ đạc, cái gì cũng lạ mắt, anh chưa từng thấy
bao giờ. Để kín anh rình, để hở anh rinh. Ngày anh có tiền mua được cái
"đài con" anh sung sướng ôm ấp nó suốt ngày.
Mấy năm sau anh tìm đủ mọi cách để xin "phục viên" làm dân
thường, kiếm đường đi buôn lậu. Anh vào Nam mua radio đồng hồ, quạt máy đem ra
Bắc bán, mua 1 bán 10, tiền vào đầy túi.
Thời gian đi buôn, anh thấy phong trào vượt biên trong Nam rầm rộ quá
nên anh cũng tính đường bỏ Bác Đảng để ôm chân "đế quốc" Mỹ cho nó ấm
thân. Anh không biết xã hội Tây phương nó sướng cỡ nào nhưng anh thấy cái
"gương" đời sống tại Saigon, anh biết chắc nó hơn xa "Xã Hội Chủ
Nghĩa".
Năm 1980 anh ra sức móc nối với bạn bè tổ chức ra đi bằng "thuyền
buồm". Anh đem theo vợ với 2 con. Ghe căng buồm ra khơi, chạy dọc theo bờ
biển từ quê anh qua Hong kong. Hễ hết nước, lương thực, anh lại ghé vào đất
Trung cộng mua. Lênh đênh hơn 3 tháng mới tới nơi. Tại trại tị nạn anh lại biết
thêm một điều: người dân miền Bắc từ bỏ cái "thiên đường XHCN" như
anh rất nhiều. Anh ở trại tỵ nạn gần 3 năm thì được phái đoàn Úc chấp nhận cho
đi định cư.
Tới Sydney anh ở tại khu Marrickville gần trung tâm thành phố. Đa
số dân tỵ nạn gốc Bắc 75 quây quần sống trong khu này. Họ sống khép kín, không
giao tiếp rộng. Vấn đề an sinh xã hội của Úc thời đó lỏng lẻo nên họ toàn lãnh
tiền phụ cấp thất nghiệp, đi làm lậu. Có người còn khai 2, 3 tên khác nhau lãnh
tiền, chính phủ chẳng hay biết vì Úc không có giấy tờ dán hình.
Tôi hỏi anh nghĩ thế nào về ông Hồ. Anh cười: em luôn cám ơn Bác.
Không có Bác làm sao em được sống sung sướng ở "nước ngoài" như vầy
chứ! Em đang theo chân Bác cũng tìm đường "kíu nước" đây.....!
Từ đó về sau anh kết thân với tôi. Thỉnh thoảng anh đem bánh cuốn
làm bằng nồi hơi với chả mực cho tôi. Ăn rất ngon. Bố mẹ anh chỉ cho anh nghề
này. Bây giờ anh làm, bán "chui" cho bạn bè quen biết nên cũng dư
tiền đi chợ.
Gia đình anh có 1 vợ 2 con, chính phủ cho tiền trợ cấp còn nhiều hơn anh
đi làm. Anh cứ tà tà ăn tiền chính phủ, hai vợ chồng lãnh quần áo về nhà may
lậu, lấy tiền mặt, không khai thuế. Tôi phải công nhận những người sống ngoài
Bắc họ chịu cày thật. Có lẽ cái khẩu hiệu "cày ngày không đủ tranh thủ cày
đêm" nó đeo dính trước ngực họ rồi...
Vợ chồng anh làm nhiều, ăn tiêu rất cần kiệm, không đi chơi đâu.
Sáng tinh mơ hai vợ chồng ngồi vào bàn máy may. Trưa ăn tạm tô mì gói rồi làm
tiếp tới tối. Bữa cơm chiều ăn qua loa, tiếp tục làm tới hơn nửa đêm mới nghỉ.
Coi như mỗi ngày anh chỉ ngủ chừng 4 tiếng thôi. Thế mà anh cũng có thì giờ
"hì hục đục đẽo" ra thêm cái "hĩm" nữa, tất cả nhà anh có 3
"con cua", con cua lớn nữa là 4. Anh rất muốn vợ anh sinh cho anh
thằng Cu nối dõi tông đường. Dụ ngọt mãi chị mới có bầu, anh mừng "hết
lớn", hy vọng kỳ này có con Chim. Ai ngờ chị lại phọt ra cái Bướm. Anh
chán quá, bèn cho chị nghỉ khỏe 3 tháng là anh hò hét chị tiếp tục ngồi bàn máy
may trở lại. Anh thuộc dân "bộ đội" ít học, trước mỗi câu nói anh
phải xổ nho Đ.M, anh mới ăn cơm ngon. Vợ anh nghe riết, quen tai đâm ghiền...
Hơn 3 năm sau anh mua nhà trả tiền mặt làm tôi ngạc nhiên, phục
anh sát đất. Coi như mỗi năm anh kiếm hơn 100 ngàn, trong khi công nhân cu li
một năm có 20 ngàn thôi! Anh mời tôi ăn tân gia. Tôi tưởng anh mời bạn bè đông,
cốt để khoe khoang vì 10 thằng Bắc kỳ hết 9 thằng nổ, nên tôi ăn mặc chỉnh tề
(sợ dân nổ họ chê mình nghèo). Tới nơi tôi mới biết chỉ có vợ chồng tôi thôi.
Thì ra anh là 1 thằng Bắc kỳ còn lại không giống ai. Tôi càng mến anh hơn. Anh
có trở ngại gì về giấy tờ hay đi đâu thông dịch dùm cho anh, tôi đều sốt sắng
giúp đỡ.
Nửa năm sau anh tới nhờ tôi điền vào cái form của nhà thương đồng
ý cho vợ anh mổ. Anh cho biết vợ anh có cục bướu to bằng nắm tay trong ngực.
Bác sĩ nói đây là cuộc đại giải phẩu. Xẻ hết 1 bên hông, nâng nguyên cả cánh
tay với mảng hông lên rồi mới lóc cục bướu đó ra. Trời còn thương chị. Chỉ 6
tháng sau, chị khỏe lại, hùng hục cày tiếp...
Cày cuốc thêm 1 năm nữa thì tới phiên anh bệnh. Anh cứ hay ho khan
về đêm. Bác sĩ cho đi chụp hình phổi mới lòi ra anh bị ho lao. Tôi đi theo anh
vô nhà thương. Khi làm giấy tờ nhập viện bác sĩ thắc mắc không biết tại sao anh
bị bệnh này. Họ không nghĩ anh bị lây nhiễm. Họ cũng không nghĩ anh cày cuốc
trong hãng nhiều quá sanh bệnh vì từ khi tới Úc tới giờ hơn 5 năm, anh toàn
lãnh tiền thất nghiệp thôi. Họ hỏi anh có lo nghĩ gì không, có buồn bã điều gì
khiến anh khó ngủ không?
Anh phịa rằng anh nhớ cha nhớ mẹ, lo cho con cái ăn học, nên không ăn
ngủ được. Bác sĩ nghe tôi thông dịch với phần phụ họa thêm tay chân mà họ cứ
lắc đầu, vỗ về an ủi anh. Tôi cứ phải nín cười khi nhìn anh đóng kịch. Mặt anh
buồn vời vợi, hai mắt xa xăm chỉ muốn khóc... cái đầu cứ lắc qua lắc lại , mồm
chỉ phát ra câu độc nhất:
Vé ri bét... zu nâu...!!! (very bad , you know)
Họ cấp cho anh 6 tháng thuốc đem về nhà uống và hẹn ngày anh chụp
hình tái khám. Mỗi ngày bác sĩ cho uống cả 15 viên thuốc đủ loại. Anh cứ uống 1
ngày nghỉ 1 ngày. Đem một nửa số thuốc được cấp, đóng thùng gởi về cho bố mẹ
anh ở Hòn gai. Vậy là anh chỉ uống có một nửa dose thôi, trong khi anh vẫn thức
đêm thức hôm cày cấy... tưng bừng !
Ngày anh đi tái khám, sau khi chụp lại hình phổi của anh , bác sĩ
vò đầu bứt tóc không hiểu tại sao bệnh anh không thuyên giảm bao nhiêu. Họ hỏi
anh tùm lum để tìm ra nguyên nhân. Thông dịch cho anh tôi cũng muốn khùng theo
họ luôn. Cuối cùng họ nghĩ thế nào mà không cho anh đem thuốc về nhà nữa. Mỗi
buổi sáng anh phải tới nhà thương uống thuốc trước mặt y tá. Bây giờ anh nhận
đồ ít đi, làm sơ sơ, chờ khỏi bệnh tính sau, chỉ sợ lòi ra anh may lậu thì chết
cả đám.
Trong lúc có thì giờ nghỉ khỏe, anh nghĩ cách giả bộ ly dị vợ anh. Vợ
anh giữ 2 con, anh giữ 1 đứa vì bộ xã hội cấp tiền cho dân "single
parent" nhiều lắm. Khi trước 2 vợ chồng "tò te" dưới một mái nhà
được lãnh hơn $500/1 tuần. Bây giờ tách ra kèn ai nấy thổi, mỗi người được lãnh
gần $450, nghĩa là thu nhập gần gấp đôi, chưa kể tiền may lậu. Vợ anh ở nhà
trước, anh dọn ra ở khúc sau.
Anh phải uống thuốc thêm gần 9 tháng nữa mới thực sự khỏi bệnh.
Anh bắt đầu xả hết ga may tiếp. Làm thêm 1 năm nữa, anh đi mua căn nhà thứ 2.
Căn kia khi ly dị, anh sang tên cho vợ anh.
Tôi hỏi anh có biết ăn thất nghiệp là anh ăn tiền của người đi làm đóng
thuế không? Anh nói tỉnh bơ: úi giời ơi, chúng em sống XHCN quen rồi. Cái khó
nó bó cái khôn, mỡ tới mõm mèo ngu gì không đớp chứ. Cái gì đớp được cứ việc
đớp, mình không đớp thì thằng khác cũng đớp thôi... Tôi hết ý kiến....
Bây giờ vợ anh ở 1 căn, anh ở 1 căn, vẫn tiếp tục may ngày may
đêm. Qua năm sau tự nhiên anh thấy cứ ngồi may lâu là đau thốn vùng bụng, ăn no
lại đau dữ dội hơn. Bác sĩ cho anh đi soi bụng mới lòi ra anh bị loét bao tử,
có thể bị ung thư. Anh phải vào nhà thương giải phẩu cắt phần loét đó đi, may
nhỏ lại. Anh không còn ăn nhiều được nữa, mỗi bữa chưa được 1 chén cơm. Anh
kiệt sức từ từ, chán quá anh bỏ nghề may luôn.
Vợ anh là người "hồ hởi" nhất, ngày ngày theo bạn bè
cùng quê của chị đi chơi đó đây. Chị cũng đua đòi học nhảy đầm. Chị kêu anh đi
học nhảy cho vui. Anh "Đ..ị..T" cho 1 hồi, nhất quyết không chịu lại
còn cấm chị đi nữa.
Chị bỏ ngoài tai vì chị đang say sưa hưởng thụ. Ly dị rồi chị đâu có
care. Hơn nữa trong đám nhảy đầm có một chàng "sĩ quan Ngụy" hay mời
chị nhảy, ăn nói có duyên làm lòng chị cũng thổn thức. Trong khi chồng chị mở
mồm là xổ nho ăn nói dùi đục mắm tôm còn chàng này nói năng từ tốn lịch sự nhẹ
nhàng như ru hồn người... Chị cảm thấy mình đẹp, hãnh diện, hạnh phúc vì có
người đàn ông tôn trọng chị, tâng bốc, khen ngợi chị đủ điều.
Thực sự chị vẫn còn đẹp gái dù rằng chị đã qua 3 lần "rặn
đẻ"...
Chị thỉnh thoảng gặp tôi nhờ tôi khuyên anh đừng xổ nho nữa, chịu
khó theo chị đi nhảy đầm cho khỏe. Anh nhất định không nghe. Tôi hỏi mãi anh
mới nói: em có biết nghe nhạc đâu mà nhảy đầm với nhảy đìa, chỉ nhảy
"nái" thôi...
Anh không chịu nhảy thì chị đi nhảy mình ên. Tuy nhiên chị chỉ nhảy với
chàng "sĩ quan Ngụy về chiều" nhưng rất lịch sự, hào hoa. Còn anh
buồn quá, lai rai may lại kiếm tí tiền còm, sống cho qua nỗi buồn mất vợ.
Lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy. Giòng máu XHCN của chị không còn
nữa. Nó chuyển sang giòng máu tư bản từ khi chị quen chàng "Ngụy".
Lòng chị đã quên lời Đảng bắt phải hy sinh tình nhà, đặt tình yêu XHCN trên
hết.
Tâm hồn chị đang hạnh phúc hưởng thụ mật ngọt của tình yêu lứa đôi đầy
tính nhân bản của con người. Đêm đêm chị nằm trên giường một mình, nhung nhớ
hình bóng người thương mà tiếc cho cả cuộc đời chị, chỉ biết cày với cuốc...
Hai đứa con gái đầu của chị đã trưởng thành. Anh chị không ai để
mắt tới tụi nó. Anh chị thuộc dân "i...tờ " chưa hết tiểu học, trình
độ đâu mà kềm cặp chuyện học hành của chúng. Anh chị chỉ cầu Trời cho chúng học
hành tới nơi tới chốn mà thôi. Ông Trời lại phụ lòng anh chị, chúng hưởng thụ
nhiều hơn chị nữa, lại còn dám bỏ nhà theo trai, chơi chán mới mò về nhà.
Anh chị la rầy mãi cũng chán, không thèm nói nữa. Anh bắt đầu chỉa mũi
dùi qua la chị. Chị tức mình cắt đứt đường tơ lòng... thòng với anh, chính thức
xách Bướm XHCN của chị... theo tiếng gọi con tim... về nâng Chim
"Ngụy".
Chị tâm sự với tôi bây giờ chị mới thực sự biết yêu, biết thế nào là
hạnh phúc của tình yêu. Khi xưa chị căm thù thằng "Ngụy" bao nhiêu
thì bây giờ chị nâng niu, o bế con Chim "Ngụy... quá nửa chừng xuân"
của chị bấy nhiêu. Chàng đi làm nuôi chị. Cuộc sống đạm bạc mà tràn đầy niềm
yêu thương vợ chồng!
Mặc dù tôi thấy thương hại cho chồng chị nhưng lòng tôi cũng thấy
khoái vì tôi cũng là "Ngụy". Sau ngày mất nước tôi bị những thằng bộ
đội như chồng chị hành hạ nhục nhã trong trại cải tạo, đôi khi chỉ muốn chết
cho xong. Bây giờ chứng kiến "tình Nam duyên Bắc" làm sao tôi không
"đã" cho được...
Từ ngày "vợ anh cuốn chiếu theo trai" không lời giã từ,
anh đâm ra "hận đời đen như mõm chó", tối ngày thơ thẩn như người mất
hồn. Trong tay anh có 2 căn nhà, bán đi cũng hơn 1 triệu. Tất cả không còn ý
nghĩa gì với anh hết.
Anh chẳng còn tha thiết chuyện ăn uống nữa, thân thể càng ngày càng yếu
đi. Một năm sau anh kiệt lực, té xỉu khi đi shop. Xe ambulance chở anh vào nhà
thương mới phát hiện ra anh bị ung thư thời kỳ cuối.
Tôi vào thăm anh. Nhìn anh nằm trên giường, gương mặt hốc hác mà
tôi thấy tội nghiệp. Anh tâm sự với tôi rất nhiều. Anh nói vợ anh coi vậy mà
sáng suốt hơn anh, biết tìm cái hạnh phúc cuối của cuộc đời. Tuy hơi muộn màng
nhưng có chết chị cũng không hối tiếc như anh.
Cuộc đời anh cứ bị ám ảnh cái chân lý "lao động là vinh quang"
của Bác, cứ lo cày bừa túi bụi, tới khi tàn hơi mới chực nhớ ra rằng mình chưa
có hưởng thụ được gì hết. Anh nói: ở ngoài Bắc cứ "lao động" không
thôi thì chỉ đủ cơm cà dưa muối, muốn có "vinh quang" thì phải mánh
mung. Dân XHCN 10 người, máu "mánh mung" hết cả mười...
Anh nhờ tôi khuyên vợ anh vào nhà thương cho anh được gặp mặt lần cuối.
Con anh đã thông báo cho mẹ nó mà vẫn chưa thấy chị tới.
Tôi điện thoại cho chị lần thứ 3 mới nghe chị trả lời. Chị cho biết cái
tổ "Bướm Bắc Chim Nam" của chị mới đi oversea về. Hôm qua nghe con
chị nói anh bệnh là chàng "Ngụy" chở chị cấp tốc vào nhà thương thăm
anh ngay. Kể từ hôm nay chàng "Ngụy" sẽ chở chị tới, để chị một mình
chơi với anh trong những ngày cuối đời. Khi nào muốn về chị cứ điện thoại cho
chàng tới rước. Tuy nhiên chị ở chơi với anh tới tối, nhà thương không cho thăm
nuôi nữa, chị mới về.
Sở dĩ chàng để chị đi một mình vì chàng không chịu được ánh mắt
buồn tủi hối hận của người sắp đi vào cõi chết. Hơn nữa chàng cũng muốn gia
đình con cái chị tìm lại những giây phút đầm ấm cuối cùng!!!
Anh trăn trối nhờ chàng chăm sóc cho các con anh, cố đem lại tình thương
cho chúng. Anh nhìn chàng cười buồn: khi xưa chúng mình thấy nhau chắc có thằng
chết rồi. Trốn Bác qua đây hai đứa mình vẫn là địch thủ của nhau. Thắng trên
chiến trường chẳng có ích gì, thắng trên tình trường mới quan trọng. Nói xong
mắt anh rướm lệ.
Chàng "Ngụy" vỗ về anh: niềm đau mất nước đã qua đi theo ngày
tháng, tôi không hận thù anh gì cả. Tôi đến với vợ anh vì chị đã ly dị. Tôi mến
tâm hồn mộc mạc đơn sơ của chị. Tôi xin lỗi anh...
Chị kể cho tôi nghe trong tiếng nấc nghẹn ngào. Có lẽ cuộc đời chị đều
yêu thương cả hai người chăng???
Tôi chưa thấy mặt chàng "Ngụy" của chị ra sao. Chỉ nghe
chị nói như thế tôi đã cảm phục tư cách, tính tình của chàng rồi. Nhà thương
hỏi chị có muốn đưa anh về nhà chờ chết không? Chị hỏi ý kiến chàng
"Ngụy". Chàng đồng ý ngay, bèn đi làm thủ tục giấy tờ, đích thân
chàng chở anh về nhà. Chàng vẫn tế nhị vắng mặt để gia đình con cái chị quây
quần bên anh. Tôi thỉnh thoảng tới thăm anh, nói bá láp cho anh cười.
Hai tuần sau, anh xuôi tay nhắm mắt... Chấm dứt một kiếp người gương mẫu
XHCN, suốt đời chỉ nghĩ tới hai chữ: Mánh Mung
Khiết Nguyên
No comments:
Post a Comment