Đại Quan họ Đỗ, quê cha đất tổ ở Huyện
Nho Quan, Tỉnh Ninh Bình, một vùng núi non hùng vĩ, sơn thủy hữu tình nhưng
nghèo. Ninh Bình là vùng đất hẹp, người đông cho nên đất đai quý hơn vàng. Tổ
tiên bao đời sống bằng nghề nông, đổ mồ hôi nước mắt trên vài mẫu ruộng, sống
chết với ruộng đồng nhưng cuộc đời vẫn không khá. Đấy là nói về hàng trung
nông, còn bần nông thì đời sống còn cơ cực gấp bội; Đã thế lại còn sai dịch,
sưu thuế, đóng góp với làng nước nữa. Chỉ có tầng lớp quan lại là giàu sang,
phú quý. Các quan bóc lột, bẻ đầu bẻ cổ dân ghê quá. Tới cụ cố tổ đời thứ tư,
nhân có Cụ Tả Ao là bậc thánh tổ địa lý, có thể cải số Trời cho nên mới nảy ra
ý định thỉnh cụ về nhà để nhờ cụ để mồ để mả cho, may đâu con cháu sau này sẽ
khấm khá hơn.
Ba tháng trời sống cung phụng “cơm gà, cá gỡ”, Cụ Tả Ao sáng xách gậy trúc
đi thăm thú khắp vùng để “tầm long, tróc mạch”, chiều tối mới về. Một
ngày kia cụ ngồi giữa phòng khách, nghiêm trang hỏi gia chủ:
- Thế ông bà muốn cái gì?”
Ông bà cố tổ chắp tay, khép nép đứng
bên cạnh, trong thâm tâm thì muốn nói xin cụ để mồ để mả cho con cháu sau này
làm quan, nhưng nói ra thì sỗ sàng quá cho nên bẽn lẽn thưa:
- Xin cụ để sao cho con cháu sau
này có thể bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ.
Dường như hiểu thâm ý chủ nhà và cũng là để đền
ơn, Cụ Tả Ao nói:
- Tôi đã tìm được một mảnh đất tốt,
con cháu sau này sẽ bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ, tuy nhiên...
Tới đây cụ dừng lại rồi nói tiếp, “Phúc phần đều
do Trời định, kết phát hay không còn tùy thuộc vào âm phần phước trạch nữa.”
Nghe nói thế ông bà cố tổ mừng quá,
run run nói:
- Cảm ơn cụ. Thật phúc đức quá. Cụ
dạy thế nào thì chúng con theo vậy.
Sau khi chọn được ngày giờ tốt,
ngôi mộ của cụ cố tổ đời thứ năm, tức là thân phụ của ông tổ đời thứ tư được bốc
lên rồi cải táng trên một gò đất cao, hai bên có hai hàng cây chạy dài xuống mà
Cụ Tả Ao nói rằng đó là Tả Phù, Hữu Bật khiến nghề nghiệp của cháu con sau này
rất bền vững cho dù thời thế có đổi thay thế nào đi nữa.
Cải táng xong và tin tưởng vào tài
năng xoay chuyển quyền Tạo Hóa của Cụ Tả Ao, trong lòng đầy phấn chấn, ông bà cố
tổ cho bán bớt đi hai sào ruộng để cho cậu con trai theo học một cụ Cử nổi tiếng
hay chữ ở Nam Định với hy vọng con mình đỗ đạt ra làm quan. Thế nhưng sau sáu
năm dùi mài kinh sử, hai lần thi Hương không đậu, ông con phẫn chí trở về quê
ngậm ngùi nối nghiệp cha ông khi cụ cố tổ qua đời.
Cụ cố tổ đời thứ ba mà Đại Quan gọi
là cụ, lớn lên trong một giai đọan mà đất nước đầy biến động...từ việc Vua Gia
Long dẹp yên nhà Tây Sơn rồi tới Quân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất cho
nên bút nghiên, thi cử là điều không tưởng. Khi ông tổ đời thứ hai mà Đại Quan
gọi là ông nội ra đời thì Thực Dân Pháp đã áp đặt được một nền cai trị vững
vàng trên đất nước An Nam. Muốn ra làm quan lúc bấy giờ phải học Trường Hậu Bổ
hoặc Trường Thông Ngôn. Nhiều nhân vật tốt nghiệp Trường Thông Ngôn đã trở
thành Phụ Chính Đại Thần hoặc Thượng Thư cũng chỉ nhờ khả năng thông dịch tiếng
Pháp cho quan lại Thực Dân. Cụ cũng muốn cho con lên Hà Nội theo học trường
này, vì một khi tốt nghiệp, dù học thức chỉ là một anh thông dịch viên tầm thường
nhưng chuyện làm quan Tổng Đốc là chuyện dễ dàng khi được quan Tây cất nhắc.
Khi đó thì tha hồ bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ. Thế nhưng muốn được tuyển vào học phải
có sự tín cẩn và giới thiệu của các quan Thực Dân hoặc quan lại An Nam thân Tây
cho nên cụ đành bỏ cuộc.
Ông nội của Đại Quan sinh được hai
người con trai. Người con đầu lòng chính là thân phụ của Đại Quan, ở lại làng
quê để nối nghiệp tổ tiên. Theo đuổi giấc mơ con cháu làm nghề “bẻ đầu bẻ cổ
thiên hạ” cho nên ông đã cho người con thứ- tức chú của Đại Quan lên Hà Nội
để theo đuổi việc bút nghiên vì ông này lúc bé rất thông minh. Thế nhưng dù cố
gắng hết mình, ông chú cũng chỉ đậu nổi bằng Thành Chung rồi làm thư ký cho một
hãng buôn mà thôi. Nghe bố kể lại chuyện để mồ để mả năm xưa, khi Đại Quan chào
đời, ông thân sinh ra Đại Quan vừa tức, vừa cay cú cho nên nhất quyết đặt cho đứa
con trai một cái tên để thể hiện giấc mơ của giòng họ. Mới đầu ông định chọn
cái tên Đỗ Quan Lớn nhưng sợ làng xóm chê cười - nghèo mà ham, cho nên đổi
thành Đỗ Đại Quan. Đại Quan cũng là Quan Lớn, nhưng nho nhã và kín đáo hơn. Như
vậy cái tên Đại Quan là cả một giấc mơ mà giòng họ đã ấp ủ bao đời nay.
Khi Đỗ Đại Quan được ba tuổi thì Đệ
Nhị Thế Chiến nổ ra, rồi Nhật chiếm Đông Dương, rồi Nhật đầu hàng, rồi Việt
Minh cướp chính quyền, quân Lư Hán tràn vào, rồi Pháp trở lại. Việt Nam giống
như một thân thể bầm nát bị đủ thứ loại ngoại bang giày xéo. Trong bối cảnh đất
nước tràn đầy binh đao, khói lửa, đói kém, đủ thứ quan quyền đè đầu và bóc lột
người dân thì một thị trấn nhỏ như Nho Quan, trẻ con được ê a hai chữ i, tờ đã
là khá lắm rồi.
Vào năm 1953 chiến tranh giữa Pháp
và Việt Minh trở nên khốc liệt. Nho Quan là vùng trái độn. Nếu Pháp bình định
được Nho Quan thì Liên Khu Tư của Việt Minh lâm nguy. Ngược lại nếu mất Nho
Quan thì Pháp không sao giữ được Ninh Bình. Khi Ninh Bình không giữ được thì
Nam Định sẽ rơi vào tay Việt Minh và cả vùng đồng bằng Bắc Bộ sẽ mất. Chính vì
thế mà Pháp quyết đánh chiếm Nho Quan còn Việt Minh thì quyết tử thủ tại Nho
Quan. Do đó có thể nói Nho Quan là nơi hứng chịu nhiều bom đạn nhất trong cuộc
chiến tranh Pháp-Việt Minh. Người dân ở đây một cổ hai tròng. Thanh niên lớn
lên nếu không theo Việt Minh thì cũng bị Pháp bố ráp để bắt lính. Trong một gia
đình, có khi người anh đi bộ đội trong khi người em lại đi lính cho Pháp và
cũng là lúc Đại Quan mười bảy tuổi. Trước tình thế nguy ngập đó, ông cụ thân
sinh không còn cách nào khác là cho Đại Quan lên tá túc tại nhà người em ở Hà Nội.
Nhận nuôi Đại Quan, ông chú không
biết tính sao khi nhìn cháu mình đã lớn mà không nghề nghiệp, không chữ nghĩa
giữa tình thế khó khăn của Hà Nội trong thời chinh chiến. Hơn thế nữa cũng
không thể để Đại Quan lêu nghêu mãi. Một ngày kia ông nghiêm trang nói với Đại
Quan:
-Không phải chú thím không thương
cháu nhưng cháu đã lớn tuổi. Một là đi học, hai là đi làm. Đi học thì trễ quá.
Làm sao cháu có thể vào trung học trong khi chưa xong bậc tiểu học? Vả lại cháu
cũng không thể sống không nghề nghiệp như thế này và có thể bị Tây bắt lính bất
cứ lúc nào.
Ông chú dừng lại rồi sau giây phút
trầm ngâm, ông nói tiếp:
-Chú khuyên cháu là nên đi làm. Chú
có quen biết một ông chủ hiệu hớt tóc. Cháu có thể học nghề tại đó một thời
gian rồi sau này chú sẽ tính kế khác.
Là một câu trai quê mới lớn, ngơ
ngác giữa lòng đô thị, lại mang thân phận ăn nhờ ở đậu, Đại Quan không còn lựa
chọn nào khác hơn là nghe lời ông chú. Vả lại học nghề hớt tóc cũng có cái lạ,
ít ra là bớt khổ cực hơn những ngày cày sâu cuốc bẫm ở làng quê.
Sau hai tuần lễ học cầm tông-đơ, dao, kéo
tương đối đã thành thạo, ông chú bỏ tiền mua cho Đại Quan một chiếc xe đạp, một
bộ đồ hớt tóc, một chiếc ghế xếp để Đại Quan vừa thực tập mà cũng vừa hành nghề
hớt tóc dạo cho trẻ em ở các ngõ hẻm hoặc ở vùng ngọai ô. Dĩ nhiên trẻ em là “địa
bàn” lý tưởng để các ông thợ cúp mới ra nghề thực tập. Trẻ em, nhất là bọn trẻ
con nhà nghèo thì đầu tóc quá lắm chí hớt trọc hoặc húi court (1) chứ
đâu có kiểu cọ như mấy công tử Hà Nội cho nên mấy ông thợ tập sự tha hồ tung
hoành. Chắc chắn đã có khá nhiều chú nhóc là nạn nhân của ông thợ Đại Quan này,
nhưng đó là chuyện nhỏ, nhằm nhò gì. Rủi chú nhóc nào bị cạo béng đi một mảng
tóc thì chỉ biết nếu máo chứ ăn vạ ai bây giờ?
Sau ít tháng, thấy nghề nghiệp của
Đại Quan tương đối thành thạo, ông chú năn nỉ một chủ nhà ở Phố Hàng Thiếc để
cho phép Đại Quan đặt một chiếc ghế hớt tóc ở ngòai bờ tường, bên dưới một tàng
cây hoa đại. Thế là anh chàng Đại Quan nhà ta đã có một “cơ ngơi” để hớt tóc
cho thanh niên, người lớn, ông già chứ không còn là trẻ em như mấy tháng trước
nữa. Kể từ giờ phút này Đại Quan rủng rỉnh đồng ra đồng vào, không còn phải xin
tiền chú thím như trước.
Trong lúc lo âu, vội vã tìm cách ổn
định đời sống cho Đại Quan, ông chú không để ý chi cả, thế nhưng một hôm tình cờ
ghé ngang chỗ “hành nghề” của cháu mình, nhìn Đại Quan nắn đầu, bẻ cổ khách
hàng trong khi hớt tóc, cạo râu, nhớ tới việc để mả năm xưa ông giật mình, mồ
hôi ông vã ra. Tối hôm đó, sau bữa cơm, ông thận trọng kể lại từng chi tiết về
cuộc cải táng mộ cụ tổ bốn đời cho Đại Quan nghe. Kể xong ông nói với giọng lo
lắng:
-Theo lời truyền tụng, được Cụ Tả
Ao để mả cho, chậm lắm là hai đời sẽ kết phát. Cũng có khi “phát dã như lôi”
tức là kết phát ngay đời thứ nhất. Thế nhưng chú không hiểu sao tới đời thứ ba
vẫn chưa kết phát…và tới đời thứ tư tức đời cháu thì…cháu lại làm cái nghề …bẻ
hầu bẻ cổ thiên hạ như thế này! Hay dòng họ ta phúc bạc? Hoặc cũng có thể ông
bà cố tổ làm Cụ Tả Ao phật ý điều gì cho nên cụ mới chơi sỏ, hoặc Cụ Tả Ao chọn
lầm đất chăng? Thật tình chú không hiểu nổi.
Nghe ông chú kể lại như thế, là một
thanh niên sinh ra ở thập niên 1940, Đại Quan cũng tỏ vẻ buồn nhưng không tin
tưởng lắm vào việc để mồ để mả như các thế hệ trước cho nên chàng ta nói cứng:
-Việc để mồ để mả có khi chỉ là
truyền thuyết, tuy nhiên cháu chỉ làm cái nghề này một thời gian rồi chuyển qua
nghề khác - vừa để cải số vừa để cho vong linh các cụ khỏi tủi thân vì có thằng
chắt bốn đời phải làm nghề hớt tóc.
Nghe Đại Quan nói thế ông chú dù
trong lòng vẫn còn rầu rĩ, nhưng cũng yên tâm phần nào.
Thấm thoắt thời gian qua đi rất
nhanh. Chiến sự chẳng những không lắng yên mà mỗi lúc mỗi trở nên ác liệt. Rồi
đùng một cái Điện Biên Phủ thất thủ, Hội Nghị Genève ra đời và đất nước chia
đôi. Phân nửa người dân Hà Nội bỏ nhà bỏ cửa lên máy bay hoặc xuống Hải Phòng
đáp tàu xuôi Nam. Trong tình thế hoang mang tột cùng như thế, ông chú không còn
chọn lựa nào khác khi hãng buôn cũng di chuyển vào Nam. Khi gia đình chuẩn bi
bán đổ bán tháo đồ đạc, giường tủ, ông chú hỏi Đại Quan là có muốn theo gia
đình vào Nam hay trở về quê. Là một thanh niên mới lớn sẵn máu phiêu lưu mạo hiểm,
ngòai ra cũng muốn thay đổi mệnh số, sau khi gửi thư về cho bố mẹ mà không thấy
bố mẹ phản đối gì, Đại Quan quyết định vào Nam với ông chú. Để bày tỏ quyết tâm
cải số, trước ngày lên máy bay, Đại Quan đem cả thùng đồ nghề hớt tóc ném xuống
Hồ Tây, thề độc là sẽ không bao giờ cầm lại cái dụng cụ để “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” nữa.
Theo gia đình chú di cư vào Nam, tá
túc ở Khu Bàn Cờ, Đại Quan choáng ngợp bởi Sài Gòn - Hòn Ngọc Của Viễn Đông.
Trong lúc rảnh rỗi, chưa công ăn việc làm, Đại Quan lang thang ở các khu Chợ Vườn
Chuối, Phan Đình Phùng, Trần Quý Cáp, Lê Văn Duyệt để tìm hiểu cuộc sống mới và
do méo mó nghề nghiệp, chàng la cà tới mấy ông thợ hớt tóc để làm quen. Đại
Quan thấy Miền Nam sao dễ thương chi lạ. Của cải thì phong phú, đời sống thì dễ
dãi, tác phong thì bình dị. Khách hớt tóc không trả gía, kỳ kèo như ngòai Bắc
mà còn cho tiền pour bois.(2) Buổi trưa các ông thợ cũng như các ông đạp
xích-lô, tác phong như Tây, gác chân lên đọc báo nghỉ ngơi chẳng thèm làm. Một ông thợ hớt tóc, dù tá túc ở dưới hàng
hiên, một ngày kiếm năm mươi đồng dễ như chơi.
Với hy vọng tràn trề là xã hội mới,
hòan cảnh mới sẽ đưa tới cuộc đời mới, từ đó giã từ cái nghề oan nghiệt “bẻ
đầu bẻ cổ thiên hạ”. Thế nhưng mang thân phận của một kẻ di cư xa lạ, tìm
kiếm một việc làm thích hợp không phải chuyện dễ dàng. Đạp xích-lô hay lái taxi
thì đường xá phải thuộc làu. Phu khuân vác bến tàu thì đòi hỏi sức khỏe và vô
cùng cực nhọc. Xin làm thư ký thì không đủ khả năng. Buôn bán thì phải có vốn
và dù có vốn rồi nhưng biết buôn bán gì đây? Còn đi học thì lớn tuổi quá. Dù đã
cố gắng hết mình và cả với sự trợ giúp của ông chú, Đại Quan cũng sao tìm ra được
một nghề để mưu sinh. Thấm thoắt thế mà ba tháng đã qua. Số tiền dành dụm nhỏ
nhoi nhờ làm nghề hớt tóc ở Hà Nội cũng đã cạn. Nhiều đêm trằn trọc, nghĩ tới
việc kiếm tiền thỏai mái của mấy ông thợ hớt tóc, nghĩ tới lời thề độc năm xưa
khi quẳng thùng tông-đơ, dao, kéo xuống Hồ Tây, mồ hôi trong người Đại Quan rịn
ra. Tự ái, lo âu và bực tức giằng co dữ dội trong tâm trí khiến Đại Quan muốn
phát bệnh cho đến một ngày nọ, có thể Đại Quan cũng đã muốn buông xuôi theo
dòng định mệnh, cho nên rầu rĩ nói với ông chú:
-Thưa chú, thực tình cháu không muốn
làm lại cái nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” nữa …nhưng có lẽ cũng chẳng còn
con đường nào khác. Chú có nghĩ rằng mồ mả đã kết phát như thế thì cũng chẳng
thể cải số được chăng?
Tới mức này thì chính ông chú cũng
bực bội với Cụ Tả Ao, với chuyện để mồ để mả năm xưa của tổ tiên. Nhưng trước
thực tế khó khăn của người cháu, chính ông cũng vô kế khả thi cho nên ông đành
lên tiếng an ủi Đại Quan:
-Thôi thì cháu cứ tạm quay lại với
nó một thời gian rồi chú cháu mình tính sau.
Bằng sự giúp đỡ của người chú, Đại
Quan một lần nữa lại đi mua sắm tông-đơ, dao cạo râu, kéo, gương, lược rồi mướn
một cái chái của một căn nhà lụp xụp ở Đường Trần Quý Cáp để hành nghề. Thế rồi
do chăm chỉ, cần mẫn, khéo tay, công việc làm ăn của Đại Quan mỗi lúc mỗi trở
nên khấm khá và chỉ hai năm sau đã mướn được ngay căn nhà bên cạnh để mở một tiệm
hớt tóc đàng hòang với cái tên rất Tây: Coiffure Đại Quan với sự phụ tá của hai
người thợ. Rồi công việc mỗi ngày mỗi thịnh vượng, Đại Quan mua lại được chính
căn nhà đó và năm sau thì cưới vợ, một cô gái Nam đang làm thợ dệt cho Hãng
Vinatexco.
Trên đời này người ta thường hay đổ
thừa cho định mệnh hay mệnh số khi một biến cố xảy đến cho đời mình. Thế nhưng
thật ra tất cả đều do quyết định của chính con người. Không một chuyện gì trên
đời này mà không có quyết định của con người. Và cả anh chàng Đại Quan nhà ta
cũng thế. Theo dòng thời gian, mặc dù đã là chủ một tiệm hớt tóc, đời sống dễ
chịu nhưng trong thâm tâm Đại Quan lúc nào cũng mặc cảm với cái nghề đang nuôi
sống mình và luôn thắc mắc về bí mật của cuộc để mồ để mả năm xưa. Trong vài
năm đầu, Miền Nam tương đối thanh bình nhưng sau đó chiến tranh lan rộng và mỗi
lúc mỗi trở nên khốc liệt. Vào năm 1968 khỏang 500,000 quân Mỹ đã phải đổ vào để
cứu nguy sự xụp đổ của Miền Nam. Sài Gòn thì truất phế, lật đổ, đảo chính, chỉnh
lý, biểu dương lực lượng, giới nghiêm liên miên khiến người dân sống trong
không khí ngột ngạt. Thanh niên sinh viên lớn lên không nhìn thấy tương lai -
ngọai trừ tương lai động viên và nhập ngũ và không còn thứ giải trí nào khác
hơn là chui đầu vào các rạp cinê hoặc các phòng trà nghe nhạc tình, nhạc ủy mị,
nhạc Trịnh Công Sơn do đó phòng trà, các quán cà phê mọc lên khắp nơi. Nhìn thấy
thời cơ tốt, vả lại cũng là dịp để thay đổi số mệnh, ngòai ra làm chủ một quán
cà-phê nhạc trông có vẻ “nghệ sĩ” và “oai” hơn là tiệm hớt tóc cho nên Đại Quan
dẹp tiệm, mở quán Café Quan. Giống như lần ở Hà Nội, chàng đem tông-đơ, dao kéo
ném xuống sông Sài Gòn rồi tới Lăng Ông ở Bà Chiểu thề độc là sẽ không bao giờ
cầm lại mớ dụng cụ “oan nghiệt” này nữa.
Trong khi hiu hiu ngồi nghe nhạc,
ung dung với lợi tức vừa đủ của quán cà-phê,
Đại Quan có lúc mơ về tương lai. Chàng thấy trên cái cuộc đời kỳ lạ này,
chẳng phải văn hay chữ tốt, bằng cấp đầy mình mới có thể làm quan. Nhỏ không học
lớn lên cũng làm quan. Một ông chuyên dạy lái ô-tô cũng trở thành nghị viên Đô
Thành, một bà bán hàng ở Chợ Bến Thành cũng trở thành dân biểu Quốc Hội. Rồi một
ông nghĩa quân ở Gia Định cũng trở thành nghị viên Hội Đồng Tỉnh, vậy thì có gì
lạ khi một ông chủ quán cà-phê trở thành một nghị viên, rồi dân biểu ? Những vị
này không là quan thì là cái gì nữa? Để thực hiện giấc mơ làm quan, chàng bắt đầu
tham gia vào các sinh họat của Phường, Khóm, các đám giỗ, tiệc cưới, các hội ái
hữu, đăng báo phân ưu, mừng đám cưới trên các báo…để thiên hạ biết tên tuổi
mình. Giấc mơ đó cứ lớn dần, sáng dần cho đến khi…đột nhiên Miền Nam xụp đổ và
“Cách Mạng” tràn vào.
Hình như Sài Gòn cái gì cũng xa lạ
và lạc lõng với đoàn quân dép râu, nón cối, mũ tai bèo và xe đạp thồ tràn ngập
đường phố. Có lẽ đòan quân đó lạc hậu với thành phố này tới nửa thế kỷ. Vì đây
là cuộc “Cách Mạng” triệt để cho nên từng núi sách vở, báo chí, băng nhạc
được đem ra đốt. Phòng trà, ca nhạc, vũ trường là sản phẩm văn hóa độc hại, đồi
trụy cần phải cho đi học tập cải tạo. Chính vì thế mà Đại Quan hốt hoảng đóng cửa
ngay quán nhạc, phá bỏ lớp kính màu, chạy vội lên Chợ Cũ mua ngay tông-đơ, dao,
kéo để mở lại tiệm hớt tóc…nhưng không dám lấy tên cũ Coiffure Đại Quan vì cái
tên này nghe Tây quá. Mà giống Tây thì có vẻ “phản động” cho nên dựng một cái bảng
mới: Hớt Tóc Quan.
Đối với “Cách Mạng” dù làm chủ một
tiệm hớt tóc, giai cấp tiểu tư sản nhưng nó có vẻ thuộc giai cấp công nhân và gần
gũi với “Cách Mạng” hơn. Nhìn thấy cả triệu viên chức chế độ cũ phải đi tù cải
tạo, Đại Quan hú hồn hú vía, thầm cám ơn cụ cố tổ đã để mồ để mả cho làm nghề hớt
tóc. Chứ nếu làm nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” thì giờ này đã đi tù “Mút Mùa
Lệ Thủy”.
Mặc dù không bị đi tù về tội làm chủ
một quán cà-phê nhưng chịu chung số phận với hằng triệu dân chúng Miền Nam: Ăn
độn, làm thủy lợi, vùng kinh tế mới, họp phường, họp khóm, họp tổ…và đói giã họng
ra mà kêu trời không thấu. Nhắm không thể sống nổi dưới chế độ này, năm 1979 lợi
dụng nhà nước cho phép đi bán chính thức, Đại Quan trà trộn vào đám thương gia
Chợ Lớn và chuyến vượt biên bình yên, tàu cặp bến Bi Đông, Mã Lai.
Khi đặt chân lên đảo tỵ nạn, thóat
khỏi Việt Nam đầy ác mộng, Đại Quan thầm cám ơn tổ tiên, Trời, Phật và nghĩ rằng
từ đây cho đến ngày nhắm mắt lìa đời sẽ không bao giờ phải làm lại cái nghề hớt
tóc và bao mộng đẹp khi định cư vào Mỹ hình thành.
Thế nhưng giữa mộng và thực luôn
luôn là một khỏang cách xa vời và có khi đối nghịch hẳn nhau. Vì chỉ là thường
dân buôn bán, không thuộc diện con lai, làm sở Mỹ, cựu quân nhân, công chức, tù
cải tạo cho nên Đại Quan và gia đình không đủ điều kiện đi Mỹ. Nói khác đi Đại
Quan thuộc thành phần “ở mục đảo”. Ba tháng qua đi rất nhanh, nhìn những
gia đình tới đảo sau mình đã có “danh sách rời trại” Đại Quan nóng cả ruột. Vì
thời giờ quá rảnh rỗi, chàng lang thang trên đảo để tìm hiểu cuộc sống của đồng
bào tỵ nạn. Người Việt mình quả là một sắc dân có sức sống mãnh liệt. Thôi thì
đủ thứ sinh họat phồn tạp diễn ra trên đảo. Người thì trồng bầu trồng bí, người
làm nghề thợ may, đồ thủ công, hàng lưu niệm, chụp hình, mở quán cà-phê nhạc Việt
nhạc Mỹ xập xình và dĩ nhiên có cả nghề hớt tóc. Chợ “chồm hổm”mỗi buổi sáng
trao đổi củi, cá, thuốc lá, mì gói, bầu bí v.v.. nhộn nhịp như một khu chợ nhỏ ở
một quận lỵ nào đó ở Việt Nam. Vàng lận theo người bán đi để sinh sống đã cạn.
Mỗi lần đi hớt tóc phải trả hai Mã Kim tức khoảng một đô-la Mỹ, Đại Quan thấy
“đau hơn họan”. Thế rồi sáu tháng qua đi rất nhanh, vợ lại mang thai, cuộc sống
tù túng trên đảo mỗi lúc mỗi trở nên khó khăn, tương lại định cư thì mù mịt.
Sau một đêm suy nghĩ mà đầu muốn bạc như Ngũ Tử Tư năm xưa, Đại Quan cắn răng quên lời thề độc, bán đi
chiếc nhẫn cưới của vợ để nhờ giám thị Mã Lai mua cho một bộ đồ hớt tóc. Hôm nhận
hộp đồ nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ”, nước mắt Đại Quan trào ra.
Thế nhưng có lẽ do “tổ đãi” hoặc do
mồ mả kết phát, giống như ở Sài Gòn, Đại Quan bắt đầu sống thoải mái, có tiền để
mua thêm đồ ăn, sắm quần áo mới, giầy dép mới, máy Cassett Radio để nghe nhạc
và mua được cả vàng do dân tỵ nạn mới đến đảo bán đi để sinh sống. Cuộc sống
trong khắc khỏai, lo âu vì chờ đợi nhưng thỏai mái về tài chánh so với dân tỵ nạn
khác cứ như thế kéo dài ba năm.
Chính phủ Mỹ quả là một chính phủ
nhân đạo. Đối với những người “ở mục đảo”, tức không đủ điều kiện đi Mỹ,
cứ một hai năm họ cho mở lại hồ sơ để cứu vớt một số, đặc biệt là các gia đình
có con nhỏ. Dân tỵ nạn gọi hành vi nhân đạo này một cách nôm na bằng danh từ “hốt
rác”. Thế là vợ chồng Đại Quan cùng hai con nhỏ được phái đòan Mỹ “hốt rác”
và cho chuyển qua Trại Sungei Besi cũng thuộc Mã Lai rồi Trại Bataan, Phi Luật
Tân học Anh Văn sáu tháng để định cư.
Thật mâu thuẫn, giống như những lần
ở Hà Nội và Sài Gòn trước đây, dù nghề hớt tóc đã là cái phao giúp Đại Quan vượt
qua những giờ phút ngặt nghèo nhưng lúc nào Đại Quan cũng căm hận cái nghề oan
trái này. Hôm rời Đảo Bi Đông, Đại Quan ra cầu tàu, quăng bộ đồ hớt tóc xuống biển cùng với lời thề độc
giống như năm xưa.
Thấm thoắt thời gian sáu tháng ở Trại
Chuyển Tiếp Bataan - Phi Luật Tân qua nhanh. Ngày rời Phi định cư vào Mỹ là cả
nỗi hân hoan cho gia đình và tương lai rộng mở. Do không có thân nhân ở Mỹ, Đại
Quan được một hội thiện nguyện bảo lãnh. Thế rồi cũng do sự giúp đỡ của hội thiện
nguyện, gia đình Đại Quan xin được welfare, food stamps rồi xin
được housing tức trợ cấp nhà ở. Thời điểm bấy giờ là năm 1982, kinh tế Mỹ
phồn thịnh cho nên chính phủ cho các gia đình có con nhỏ ăn welfare “mút
chỉ” tới 18 tuổi mới thôi. Nếu tiếp tục sinh con đẻ cái thì lại ăn welfare
tiếp…tức là có thể ăn welfare mãn đời.
Không phải loại người làm biếng chủ
trương sống bám vào welfare, nhiều lần vợ chồng tính nạp đơn xin làm assembler
tức thợ lắp ráp điện tử, thế nhưng được một số vị khôn ngoan đến Mỹ trước,
khuyên: “Xứ Mỹ này rất kỳ lạ; Một là thật giàu, hai là thật nghèo. Vô sản thì
chính phủ lo hết. Trung trung đứng ở giữa, đi làm đóng thuế sặc máu, về già lại
không có MediCal. Trên đời này không có gì sướng bằng ăn welfare, ở nhà housing
và đi làm chui lãnh tiền mặt. Nhiều người có tiền, nhờ thân nhân, con cháu đứng
tên mua nhà cho thuê sống sung sướng lắm ông bà ơi!”
Trong những lúc rảnh rỗi chạy qua
hàng xóm láng giềng tán dóc, hoặc la cà vào các khu thương mại người Việt dò hỏi,
đâu đâu người ta cũng nói như vậy. Khi được biết Đại Quan đã có thời làm thợ hớt
tóc ở Việt Nam, một số bạo miệng khuyên, “Sao ông không mua bộ đồ hớt tóc về
nhà làm chui? Chẳng thuế má gì cả mà cũng chẳng ảnh hưởng tới welfare.
Tiền không đấy ông ơi!”
Nghe nói tới việc trở lại làm nghề
hớt tóc Đại Quan choáng váng cả mặt mày. Thế nhưng nếu đi làm thì welfar,
housing bị cúp, lúc đó lại phải đi thuê nhà mỗi tháng cả ngàn đô-la, về già
lại không có MediCal. Còn nếu cứ ở không như thế này thì thật uổng phí. Không
giống như Việt Nam, ở Mỹ “lao động là vinh quang” có làm là có ăn, thời
giờ là tiền bạc. Thế là tâm trí Đại Quan
một lần nữa lại giằng co dữ dội, dữ dội hơn cả những lần còn ở Việt Nam. Thế
nhưng cuối cùng tiền bạc đã thắng. Tiền bạc như một thần lực, nó thắng luôn cả
tự ái lẫn những lời thề độc năm xưa. Đại Quan một lần nữa lại đi mua sắm
tông-đơ, dao, kéo, gương, lược để trở lại nghề hớt tóc ngay tại nhà mình.
Giống như được “cô độ”, công việc của
Đại Quan lại trở nên phát đạt. Các ông bạn hàng xóm tới với Đại Quan vừa để ủng
hộ đồng hương vừa là dịp uống trà, tán dóc. Hơn thế nữa, theo phong tục không
biết có từ đời nào, hớt tóc ở Mỹ không có cạo mặt, không cạo râu, không lấy ráy
tai mà phải trả 10 đô-la. Tới Đại Quan chỉ phải trả 8 đô-la thôi, vừa kỹ lưỡng,
lại có đủ thứ và “báo chợ” đọc chơi. Mỗi buổi sáng Đại Quan rảo qua văn
phòng các bác sĩ, nha sĩ nhặt báo đem về cho bạn bè và khách hàng. Nhà của Đại
Quan giống như một “business” nho nhỏ và vui vui. Thế là Đại Quan một lần
nữa tiền bạc rủng rỉnh, mỗi tháng kiếm hai, ba trăm đô-la dễ như chơi và bắt đầu có dư để gửi về Việt Nam biếu gia
đình bố mẹ ở Ninh Bình và ông chú ở Sài Gòn.
* * *
Với cuộc sống tương
đối ổn định, trông lên thì chẳng bằng ai nhưng trông xuống thì chẳng ai ung
dung bằng mình. Trong những lúc vắng lặng, Đại Quan suy nghĩ vẩn vơ. Xã hội Mỹ
trông bề ngòai phồn vinh như thế nhưng đầy rẫy bấp bênh và đổi thay như chong
chóng. Có những ông, nhà cửa đáng giá bạc triệu, đi xe Mercedes, tiền để ngân
hàng, chơi stock bỗng nhiên ra homeless (3) sau khi ly dị vợ. Còn
kỹ sư điện tử thất nghiệp, không sao tìm được việc phải đi bỏ pizza hoặc
làm bồi cho nhà hàng. Nhìn thằng con đầu lòng sinh ở Sài Gòn giờ đã lên đại học,
nghĩ tới việc để mồ để mả của tổ tiên, nhìn lại đời mình Đại Quan thấy có thể Cụ
Tả Ao năm xưa đã chọn lầm đất khiến con cháu thay vì ra làm quan lại đi làm nghề hớt tóc. Định mệnh
đó theo đuổi mãi dù đã chạy qua tới đất Mỹ. Liên tưởng tới ngày thằng con trai
mình ra trường đậu bằng kỹ sư, lấy vợ, rồi vợ chồng bất hòa ly dị, rồi trắng
tay biết đâu nó chẳng phải làm nghề hớt tóc như bố nó ngày hôm nay? Đại Quan rầu rĩ chia xẻ ý nghĩ này với vợ:
-Bà à, sao tôi lo quá. Tôi sợ rồi
đây việc để mồ để mả linh thiêng của Cụ Tả Ao sẽ lại ứng nghiệm. Biết đâu đến đời
thằng con mình nó cũng lại làm cái nghề “bẻ đầu bẻ cổ thiên hạ” như tôi?
Nghe nói thế, bà vợ thay vì lên tiếng
an ủi, bà “xì” một cái rồi nói:
-Trời đất ơi! Ông ở Mỹ mà cứ như
còn ở Việt Nam. Cụ Tả Ao là bậc thánh tổ địa lý. Cụ thương dòng họ mình và biết chắc rằng thằng chắt năm đời sẽ lưu lạc qua đất
Mỹ cho nên cụ mới để mả cho nó làm nghề hớt tóc. Nếu như cụ để mả cho anh làm
quan thì năm 1975 đã đi tù “mút mùa lệ thủy” rồi, qua đây làm nghề gì để
sinh sống? Bộ anh tưởng một tháng kiếm hai, ba trăm đô-la “tiền tươi”
(4) dễ lắm hả? Ở Mỹ này có tiền mua tiên cũng được. Thằng con mình nó giỏi tiếng
Anh, nếu nó có theo “nghiệp tổ” thì nó sẽ phát triển thành năm, ba tiệm.
Khi có tiền rồi thì nó làm gì mà chẳng được. Ông không thấy một ông Việt Nam
làm nghề thầu rác vừa được tổng thống bổ nhiệm làm Phụ Tá Giáo Dục Tòa Bạch Ốc
sao? Có tiền đóng góp cho mấy ông ứng cử viên tổng thống. Đắc cử rồi thì ông ấy
cho mình làm quan. Ở Mỹ có tiền mua tiên cũng được ông ơi!
Nghe bà vợ nói thế mặt Đại Quan xụ
xuống. Sau một hồi ngồi như kẻ mất hồn, chàng ta lẩm bẩm một mình:
-Ử, con mẹ trông nhà quê thế mà nói cũng có lý. Biết đâu thằng con trai mình sau này làm nghề hớt tóc phát đạt, góp tiền tranh cử cho các ứng cử viên thống đốc, tổng thống rồi sau đó được các ông ấy bổ nhiệm làm quan, tha hồ “bẻ đầu bẻ cổ” thiên hạ. Mình lẩm cẩm quá!
Đào Văn Bình
(Trích tuyển tập truyện ngắn Mê Cung, Ananda Viet Foundation xb năm 2019, Amazon phát hành)
(1) cắt tóc ngắn
(2) tiền típ, tiền trà nước
(3 ) lang thang không cửa không nhà
như gã ăn mày
(4) tiền mặt và không phải đóng thuế

No comments:
Post a Comment