…Đi sao nặng nề kiếp người nhỏ bé.
Xa xăm ngọn cờ quê nhà vắng gió.
Tôi không kẻ thù nên đau từ độ.
Tóc úa là nhờ những tháng âu lo…
(Bay đi thầm lặng- Trịnh Công Sơn)
Phi trường Minneapolis-Saint Paul international Airport (MSP)
thuộc bang Minnesota Hoa Kỳ, nơi đây nổi tiếng với việc tích hợp nghệ thuật
công cộng vào không gian sân bay; có nhiều tác phẩm nghệ thuật độc đáo, từ
tranh vẽ đến điêu khắc, được trưng bày ở nhiều khu vực của sân bay. Tôi rảo
bước ngắm từng góc cạnh của mỗi bức tranh với cách dậm màu, nét vẽ và bố cục
của từng bức sao cho mau hết thì giờ chờ đợi vào máy bay. Tôi và chồng sẽ đi
nghỉ hè hai tuần trên tàu du lịch Celebrity Millenium mà điểm đến chính là xứ
Phù Tang, xứ này nằm ở phía đông của thế giới, nơi mặt trời mọc.
Từ lúc bé tôi thường lấy vải màn quấn giả làm áo kimono của Nhật,
lấy khăn san của mẹ làm giải quấn chung quanh eo và thắt chiếc nơ thật to sau
lưng, tóc búi cao, rồi đi đôi guốc cao gót của mẹ, tay cầm chiếc quạt nhỏ phe
phẩy, thế là thành cô geisha Nhật chính hiệu. Sau khi lập gia đình, lo cho
các con học hành nên người, tôi cùng chồng thực hiện giấc mơ của mình là đi đến
đất nước ở phương Đông ấy!
Nhưng trước khi lên tàu phiêu du hai tuần, tôi muốn đến Tokyo
trước một tuần để thăm tất cả những nơi đã từng mê hoặc tôi, đã từng làm trái
tim tôi thổn thức mỗi lần nghĩ tới, tôi đã thuyết phục chồng đến Tokyo và tự
mình thực hiện tìm tòi đi thăm những chùa chiền, cung điện, bảo tàng bằng bus,
metro tại nơi này.
Bước chân tôi dừng lại khi chạm trán với một người đi ngược hướng
tôi đang ngắm những bức tranh trên tường ở phi trường MSP. Một người phụ nữ với
mùi nước hoa tỏa thơm ngát, mái tóc cắt cao rất model, khuôn mặt hơi lớn tuổi
nhưng còn giữ nét tươi tắn sang trọng, tôi nghĩ chắc hồi trẻ chị phải là một
người đẹp lắm. Chị nhìn chằm chặp vào tôi một lúc khá lâu, bỗng nhiên reo lên
vui mừng:
- Em Trúc Nghi phải không?... Chị là chị Xuân Thu, chị của Cẩm Tú
đây! Hồi xưa em thường hay đến nhà chơi với Cẩm Tú, ở lại nhà chị làm bánh, nấu
chè, nướng bắp với tụi chị đến chiều mới về đó em nhớ không?
Tôi yên lặng ngắm nhìn và cố nhớ lại thuở ngày xưa… cách đây trên
40 năm, từ ngày tôi bỏ nước ra đi…
Tôi nhớ lại vào những năm 1975, khi miền Nam bị mất đi nền hòa
bình dưới thời Cộng Hòa, những trường Tây bị giải thể, những giáo viên ngoại
quốc bị ép đi về nước, các trường cùng loại được ngành giáo dục XHCN tập họp
lại nhau, như Marie-Curie, Regina Pacis, Lê Quý Đôn, Bác Ái, Thiên Phước,
Couvent Des Oiseaux Dalat là những trường bị giải thể, các học sinh sẽ phải tụ
vào trường Regina Mundi tức là Couvent des Oiseaux trên đường Công Lý Saigon.
Nơi đây Cẩm Tú và tôi quen nhau.
Đến lượt tôi mừng rỡ la lên:
- Oh phải rồi… Chị Xuân Thu, chị của Cẩm Tú đây sao? Chị thay đổi
đến nỗi em không nhận ra nữa…Nếu chị không nhận ra em thì em sẽ không bao giờ
biết đây là chị! Chị giống như một mệnh phụ đài các, rất “mode” đó nhe!
- Đã hơn 40 năm em ở nước ngoài, từ 1985 đến nay rồi còn gì! Em và
Cẩm Tú bắt đầu chơi với nhau sau 1975 khi các trường ở miền Nam bị giải thể,
các em mới vào học chung Couvent… Cẩm Tú từ Bác Ái, còn em từ Marie Curie em
nhớ không?
- Vâng ạ! Thời gian nhanh quá, thế mà đã nửa thế kỷ rồi!… Chị bây
giờ làm gì? ở đâu?
- Chị trở về lại Tokyo, chị mới từ Mỹ thăm gia đình Cẩm Tú.
- Chị ở Tokyo sao?
- Phải!... tại sao?
- Em sẽ đến Tokyo một tuần để đi ngắm cảnh đó! Em mê Tokyo vì
những thắng cảnh và cả xứ Phù Tang ấy qua sách vở đã đọc qua… Bây giờ phải yêu
luôn con người họ vì có chị Xuân Thu đây!
- Em tôi nói ngọt ghê nơi nhe! … Em nói đúng, chị ở Nhật từ cuối
1985, sau ngày em đi không bao lâu thì chị vượt biên trót lọt, lần thứ 13 đó
em!... chị rất mang ơn xứ này, cả dân tình nữa. Từ từ chị sẽ kể em nghe về cuộc
đời thăng trầm của chị.
*****
Tôi nhớ chị vượt biên mãi như đi chợ vào những năm 1980 vẫn không
thoát, bị bắt nhốt hoài, gia đình phải chạy tiền chị mới ra khỏi tù được, ba mẹ
chị mỗi lần gặp tôi đều than thở là nghèo vì chị. Còn Cẩm Tú thì may mắn hơn,
đi có một lần vào 1981 là thoát đến Malaysia, rồi được định cư ở Mỹ. Sau đó,
mỗi đứa chúng tôi bận xây dựng cuộc sống ban đầu ở nơi mới đến, nên không liên
lạc với nhau một thời gian khá dài, đến khi có thì giờ để nghĩ tới nhau thì
không biết nơi đâu mà tìm!
Giọng chị đều đều kể cho tôi nghe:
- Lần vượt biên thứ 13, chiếc thuyền bé nhỏ mong manh chỉ có 25
người, khi ra ngoài khơi gió mạnh mới biết là mình quá liều lĩnh, mỗi cơn sóng
đến là cả thuyền chong chanh, nâng lên thụp xuống theo từng nhịp sóng, nhất là
buổi tối đen đặc, nước cũng màu đen tuyền, chỉ có ánh trăng và những ngôi sao
trên trời làm đèn rọi đường cho mình đi thôi. Lúc ấy nửa mong được tàu vớt, mà
nửa thì sợ tàu ấy là hải tặc thì chỉ có chết mà thôi. Đến ngày thứ năm thì cả
tàu không còn đồ ăn nữa, lạnh và đói nên mọi người mới quyết định là cứ gặp tàu
là vẫy xin cứu, chứ nếu liều tự mình đi thì không biết có đến nơi được hay
không, hay nửa đường sẽ bị sóng đánh cho chìm. Cả tàu ai cũng lâm râm khấn vái,
người khấn Phật Bà kẻ cầu cứu Đức Chúa, đức Mẹ Maria.
Chiếc tàu chở hàng đầu tiên mà tụi này gặp ở tít đàng xa với lá cờ
Nhật Bản, ai nấy đều vui mừng khôn xiết, kẻ bị bệnh ói mửa, sốt nóng, tưởng sẽ
chết cũng tỉnh dậy nữa, bởi vậy mới nói sự hy vọng cho người ta niềm tin vào sự
sống. Tàu Nhật đã cứu bằng cách cung cấp lương thực, nước uống và thuốc men
khẩn cấp, rồi cho tụi chị tỵ nạn ở nước họ, một số có thân nhân ở các nước khác
thì họ liên hệ với các tổ chức cứu trợ quốc tế như Cao Ùy liên hợp quốc về
người tỵ nạn (UNHCR) để đưa họ đến nơi mong muốn.
Lẽ ra chị định sang Mỹ với Cẩm Tú, nhưng lúc ấy có một công ty
Nhật đến nơi tụi chị ở tạm, ra thông báo tuyển công nhân cho nhiều ngành tay
chân khác nhau, nếu muốn thì ký tên vào một tờ đơn, họ làm thủ tục cho mình
định cư luôn lúc đó. Chị nghĩ nếu qua Mỹ phải đi tìm việc làm sẽ rất lâu, mà ở
nhà ba mẹ đã cạn tiền, họ đang chờ nguồn tài chánh từ chị để sống, nên chị đã
quyết định ở lại Tokyo từ đó.
Lúc đầu chính phủ cấp cho mình một căn hộ nhỏ, họ tạo điều kiện
cho mình đi học tiếng bản xứ chừng 5 tiếng một ngày, kế đó liên lạc với nhóm
người trong khu mình ở, họ sẽ chỉ cho mình những công việc chân tay như lặt
rau, bóc vỏ tôm, hoặc làm việc trong các kho hàng như sắp xếp, kiểm tra, đóng
gói, bốc dỡ hàng hóa, quản lý v…v…không cần học vấn cao, chỉ cần tỉ mỉ, kiên
nhẫn và tập trung cao thôi.
Được một tháng làm việc, một hôm chị chủ nhóm tuyển chọn một người
có kinh nghiệm may, giúp người thợ chính chuyên nghiệp may đồng phục cho công
nhân, chị được chỉ định đến giúp ngay hôm sau, ai ngờ chị thợ may chính ấy lại
bị bệnh bất ngờ không đến làm được, thế là chị là người thợ bất đắc dĩ ngồi vào
chiếc ghế ấy, mà em biết đó ở Việt Nam chị đã từng may đồ mặc ở nhà rồi, nên
chị biết cách ráp những phần rời đã được may vào với nhau; người manager thấy
chị làm bộ đồng phục đầu tiên đạt quá, nên giữ chị lại làm luôn từ đó.
Đúng là hoàn cảnh tạo anh hùng em ạ, chị không bao giờ nghĩ mình
sẽ làm nghề may, nhưng vào hoàn cảnh đó nếu không may thì không biết phải làm
nghề gì để nuôi thân và gởi tiền về cho gia đình còn kẹt lại bên nhà để sống.
Nhờ tính chăm chỉ và sự luyện tập nên từ từ chị ra riêng sau một năm rưỡi làm
cho họ. Chị mở tiệm may đồ, may luôn cả kimono.
Khách đến ai cũng nói tiếng Nhật với chị cả, họ tưởng chị là người
Nhật chính cống, chị đã cố gắng may theo yêu cầu của mỗi vị khách, từ hàng chợ
rất đơn giản cho đến những cái rất kỳ công để họ mặc khi tiếp khách.
Em hỏi chị đang làm gì? chị muốn nói là chị đang có một tiệm may
kimono với hai công nhân người bản xứ giúp chị, họ sẽ may tại chỗ khi có khách
đặt… Nhà chị ở ngay trung tâm Tokyo, gần chợ búa, khu vui chơi giải trí… Kỳ này
em nhớ ghé chị chơi cho biết nhà nhé.
Đúng là trái đất thật nhỏ bé, tôi vui mừng gặp lại chị Xuân Thu
sau 40 năm, tôi mong được nghe lại giọng nói líu lo của Cẩm Tú sau khi đi thăm
nước Nhật về; hai đứa sẽ có nhiều điều kể cho nhau nghe lắm đây.
*
Cửa tiệm may của chị Xuân Thu nằm ngay trung tâm Tokyo, con đường
Shibuya sầm uất với rất nhiều tiệm ăn uống, mỹ phẩm, quán bar… Tiệm áo Kimono
của chị dưới tên Arigato (cám ơn) có một không hai trên cả khu vực ấy. Chị nhận
may đủ loại âu phục nam nữ, trẻ em và cho mướn áo Kimono mặc trong nửa ngày với
giá không mắc lắm nên khách ra vào tấp nập đặc biệt là các du khách ngoại quốc.
Bên cạnh tiệm may của chị, có một quán phở và những món ăn thuần túy Việt Nam
như bún bò huế cuối tuần, bún thịt nướng…, một tiệm nail, một tiệm mỹ phẩm,
tiệm cắt tóc nam nữ… Tất cả những tiệm này được mở san sát nhau cho thấy một
cộng đồng Việt đang tiếp tục phát triển từ 50 năm tại đây. Chị hào hứng nói với
tôi:
- Gặp người đồng hương mừng lắm em, nhất là những người mới qua
sau này, cho mình biết tin quê hương mình bây giờ ra sao. Đã lâu chị đã không
về thăm đất nước từ ngày vượt biên, nhưng cha mẹ chị vẫn ở đó, vì lớn tuổi và
ngại đến một đất nước mới nên không chịu bỏ nơi chôn nhau cắt rốn.
- Người Việt mình tập trung khu này thôi hả chị?
- Tokyo là nhiều nhất rồi đó, họ cũng sống rải rác ở khắp nước
Nhật, ở Osaka, Nagoya v...v… Em biết dân Việt mình ở Nhật vào khoảng 500 ngàn
người, đông nhất, sau Mỹ mà thôi. Đi đến đâu với sự chăm chỉ, kiên nhẫn, dân
mình đều vượt lên hàng đầu và thành công. Nói không phải khoe chứ Cẩm Tú ở Mỹ
cũng đóng góp công sức rất nhiều vào cộng đồng người Việt bên ấy, gìn giữ
truyền thống văn hóa Việt Nam, cô nàng cũng giữ một chức không nhỏ trong cộng
đồng bên ấy… Đúng là không làm hổ thẹn người Việt mình dưới cái nhìn của người
bản xứ.
- Dạ chị! 50 năm nhìn lại bạn bè, người quen, gia đình, ai nấy
cũng có một tương lai thật tốt, thế hệ thứ hai thứ ba đang sinh sôi nẩy nở,
chúng sẽ được đào tạo ngay từ lúc bé, được hưởng nền giáo dục tốt, mở mang tri
thức về nhân cách sống của nước sở tại, ví dụ như nước Nhật dậy con trẻ ngay từ
khi mới lọt lòng tinh thần dân tộc cao độ, nước Mỹ dậy cho bọn trẻ phải tự lập,
vươn lên từ lúc mới vào nhà trẻ; các cô giáo uốn nắn, răn đe đứa trẻ khi phát
hiện những hành vi xấu như ăn cắp, ăn hiếp kẻ yếu thế, không nhân nhượng cho
chúng từ lúc biêt ý thức, nên những đứa trẻ lớn lên chỉ mang trong đầu sự giúp
đỡ, chia sẻ lẫn nhau và sự lương thiện. Tuy nhiên trong một xã hội thành phần
xấu, bất hảo cũng có, nhưng đó chỉ là thiểu số… Chị đã lập gia đình chưa? Sao
em không thấy mấy cháu nhỏ?
- Các anh chàng Nhật rất thích những cô gái Việt, nhưng vào thời
đó, chị đã có ý trung nhân từ quê nhà nên từ chối các chàng trai Nhật
Bản.
- Ảnh có ở đây không cho em gặp để chào?
- … Anh đã đi vượt biên sau chị một năm, chuyến tàu ấy không bao
giờ cập bến, cũng không nghe ai nói về chuyến đi ấy cả! Chị đã đi hỏi thăm rất
nhiều nhưng đều không có câu trả lời… Chị vẫn chờ đợi mãi, cho đến ngày hôm
nay, chị vẫn phòng không chiếc bóng…
- Oh em xin lỗi chị đã nhắc lại chuyện buồn… Rồi chị ở vậy luôn
sao?
- Chị nghĩ sẽ ở vậy luôn, vì chị chẳng thể yêu ai được nữa, chị lo
lắng cho chuyến đi của người yêu, chị vẫn mong chờ cứ ngỡ như anh ấy rời đi mới
hôm qua… Chị không thể hưởng hạnh phúc khi nghĩ đến ảnh vì mình mà bỏ quê
hương, hy sinh tính mạng, chị cảm thấy tội lỗi lắm…
Chị xúc động, hai hàng nước mắt chảy dài xuống má. Tôi ôm chị vào
lòng:
- Hãy sống cho cuộc sống hiện tại của chị, chuyện gì qua hãy để nó
qua đi, anh ấy có thể đang sống ở một nơi nào đó rất bình an, hơn nơi đây đó
chị.
- Nhưng chị vẫn nghĩ về ảnh, ảnh vì chị mới đóng ghe, rủ bạn bè đi
chung. Có ai ngờ cuộc đời lại ngắn ngủi như vậy! Nếu ảnh ở lại quê nhà thì chắc
bây giờ đã lập gia đình có con cháu đầy đàn rồi. Chị sẽ không ân hận, chị sẽ
yên tâm sống cuộc đời riêng của chị, không cứ gì mình phải lấy nhau mới được,
em hiểu không?
- Mỗi người có một số phận, không thể biết trước được đâu! Với lại
không phải chỉ riêng mình chị gặp nghịch cảnh như thế đâu, sau 1975 rất nhiều
người miền Nam bị lạc cha mẹ, vợ chồng, anh em, có kẻ bị chết trên biển khi
chưa tìm được sự tự do nữa…
Một cậu bé da đen chạy ào vào làm ngưng cuộc nói chuyện của chúng
tôi:
- Mẹ ơi, con…
Thấy tôi, cậu bé mở to cặp mắt nhìn, cúi đầu chào bằng tiếng Việt
rất sõi:
- Con chào cô.
Chị Xuân Thu ôm cậu bé vào lòng, giải thích với tôi:
- Đây là Michael, cậu bé này chị gặp lang thang trong các chợ, tối
ngủ trong các công viên, dưới gầm cầu thấy thương lắm, chị cứ tưởng là thành
phần bất hảo của xã hội Nhật, nhưng một ngày chị đi công chuyện về đêm, trời
mưa trơn trợt, không mang theo dù… nếu không nhờ cậu bé này đỡ khi chị xuýt té,
cho chị mượn cây dù thì chị đã bị đo ván, gãy vài cái xương sườn rồi. Chị nghĩ
đây chính là nhân duyên nên đã nhận cậu bé này là con nuôi. Nó giúp chị đủ thứ
việc trong ngoài như giao hàng cho khách, nhận điện thoại, mở hàng…Bên cạnh đó
chị rất vui khi có cháu ở bên cạnh, hai mẹ con có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo!
- Vậy cuộc sống chị cũng tạm ổn rồi.
Nhật Bản giống như ở Việt Nam, căn nhà của chị có hai tầng, chị mở
cửa tiệm bán hàng bên dưới, bên trên ở, nên rất tiện cho việc nghỉ ngơi, ăn
uống, không cần phải đi xa.
Qua hôm sau, chị để cửa hàng cho nhân viên trông, dành một ngày
dắt tôi đi thăm thắng cảnh, chùa chiền ở Nhật, nếm những món sushi hải sản đặc
biệt thật ngon. Đi đến đâu, tôi cũng thấy người dân thật lịch sự, cung kính
chào hỏi luôn miệng, khi thối tiền thì đưa trả lại bằng hai tay trên một chiếc
đĩa nhỏ chứ không trực tiếp đưa tiền vào lòng bàn tay mình như ở những xứ khác.
Khi đi ngang qua những người công nhân làm cầu cống, họ cũng gập đầu chào khách
du lịch, tỏ vẻ kính trọng, tôi vừa ngạc nhiên lẫn cảm động thấy thái độ họ quá
cung kính.
Người dân Việt trên đất nước Nhật học những điều tốt tương tự như
người Nhật, họ lễ độ hơn, biết nói những lời “xin lỗi, cám ơn” thay vì chỉ biết
kiếm lợi nhuận. Khi tôi vào mua cái cắm điện cho phù hợp với dòng điện bên
Nhật, người chủ bán hàng là một người Việt Nam, anh ta cho tôi biết là cái họ
bán không dùng được cho iphone của tôi, và chỉ cho tôi cửa tiệm trên khu phố
khác có bán cái tôi cần, họ còn lên mạng tìm kiếm dùm địa chỉ và chỉ đường cho
tôi tới đó.
Sau 50 năm, đi khắp nơi trên thế giới, tôi nhận xét: dân Việt sống
nơi nào, hợp với hoàn cảnh nơi đó, học được những điều hay, tốt; tôi cảm thấy
hình như người Việt phát triển theo hướng tích cực khi xa xứ hơn là ở chính
trên quê hương mình! Ông cha ta có câu ca dao tục ngữ “gần mực thì đen, gần đèn
thì sáng” quả là đúng quá!
*
Chúng tôi vào thăm một ngôi chùa ở ngoại ô Tokyo, nơi đây trồng
tất cả những cây xanh mà xứ sở Nhật có, một khu vườn to rộng lớn; đàng sau ngôi
chùa có một rừng tre cao vút xanh rì thật đẹp, người làm phận sự tưới cây, săn
sóc cho ngôi chùa thật khang trang sạch sẽ là một gia đình Nhật Bản, người phụ
nữ có nụ cười trong sáng, khiêm tốn. Cô ta nói với tôi:
- Những người lãnh đạo ở địa phương này đã giành ra một số tiền để
gia đình chúng tôi ở lại phía sau chùa, chăm sóc hương khói, quét tước, mặc dù
số tiền ấy không đủ trang trải sinh hoạt của gia đình, nhưng tôi cũng không đòi
hỏi hơn vì lẽ ra mình phải có phận sự đóng góp công sức với quốc gia mình đang
sống, chứ lẽ nào đòi thêm lương nữa!
Nghe cô tâm sự mà tôi thấy thật thán phục cho người bản xứ, họ là
những người thật lương thiện! Tôi vội vàng lấy tiền ra, nhét vào tay cô ta nói:
- Chúng tôi muốn đóng góp chút lòng thành để cô có thể chi tiêu dễ
dàng hơn trong việc sửa sang hay tu bổ một góc vườn nào đó… Xin cô hãy nhận
cho, món tiền này không nhiều nhưng là tấm lòng của chúng tôi…
- Oh không đâu, không thể nào, tôi không nhận đâu, tôi đã có tiền
trợ cấp hàng tháng của địa phương rồi, chồng tôi cũng mới xin được việc làm cho
nhà sách gần đây, chúng tôi sẽ có thêm thu nhập, tôi cám ơn ông bà nhiều lắm,
tôi không thể nhận như thế được đâu!
Cô ta nhất định từ chối món tiền của chúng tôi muốn đóng góp để
giúp đỡ cho hoàn cảnh của cô.
Ngôi chùa rộng nguy nga, vợ chồng tôi và chị Xuân Thu đi vòng
quanh ngắm những hòn non bộ với những chú cá Koi vàng mập óng ả bơi lội thật tự
do; đầu con rạch nước xối xả đổ xuống từ nguồn nước trên núi, bên cạnh trồng
những đóa sen mọc thẳng đứng vươn cao, thật thanh khiết. Tất cả những cảnh nghệ
thuật này chắc chắn đều do bàn tay của hai vợ chồng người Nhật đã sáng tạo nên
cho khách du lịch thập phương đến viếng.
Bỗng tiếng xe mô tô vọng lại từ cuối vườn, một người đàn ông bước
xuống dắt theo một cháu bé gái chạc 12 tuổi; chúng tôi cùng lúc quay đầu
lại, cô gái Nhật cười vui khi thấy anh ta và cháu bé xuất hiện, tôi nghĩ chắc
là chồng con của cô ta.
Trong lúc ấy, chị Xuân Thu với đôi mắt mở thật lớn, khuôn miệng
tròn há hốc ngạc nhiên đến không thốt ra lời nào. Người đàn ông cũng quay lại
nhìn chị Xuân Thu, mọi thứ như đột ngột dừng lại, không một tiếng động, cả sáu
người chúng tôi đứng chết trân tại chỗ, thời gian như đóng băng.
Bỗng hai dòng lệ nóng hổi chảy từ hai khóe mắt chị Xuân Thu nhỏ
giọt xuống bàn tay mà chị đã không cầm được, chị đứng yên nhìn người đàn ông
với tất cả trái tim và tâm hồn mà không dám mở lời, cho đến khi cô gái Nhật cất
tiếng hỏi:
- Bà…bà có sao không?
Rồi quay sang chồng mình, cô ta nhẹ nhàng hỏi:
- Anh … có chuyện gì vậy?
Người đàn ông lúc ấy như choàng tỉnh từ cõi mộng, mời mọi người
vào trong nhà ở cuối vườn, lấy trà xanh nóng cho chúng tôi thưởng thức, từ từ
ngồi xuống, ông nhìn thật xa xăm, kể cho chúng tôi nghe cuộc hành trình đầy
gian nan của chiếc thuyền khi rời khỏi quê hương thân yêu vào mùa thu 1982 để
đi tìm người yêu của ông là chị Xuân Thu:
- Phải, tôi là người gốc Việt!... Tìm mãi mới được một người tài
công là bạn thân của tôi, chúng tôi lúc ấy còn trẻ, chỉ là những chàng thanh
niên đầy hoài bão, tình yêu, muốn làm gì là làm mà không nghĩ sâu; chiếc thuyền
mong manh khi ra khỏi hải phận quốc tế chưa được bao xa đã bị sóng quật tan
nát, những mảnh ván yếu ớt bị tung vỡ hết, trên thuyền cả thảy 30 người, sóng
đã đem họ xuống lòng đại dương một cách nhẹ nhàng như con cá lớn nuốt một con
ốc nhỏ.
Còn một mình tôi chiến đấu với sóng với cái bụng rỗng, sóng lên
cao tôi trườn lên, xuống thấp tôi lại trùi theo, may mắn là tôi vẫn ôm khư khư
mảnh ván thuyền mà không dám rời ra. Cứ thế tôi và mảnh gỗ cứ trôi nổi giữa
lòng đại dương, lúc ban ngày trời thật nóng, đêm thì thật lạnh, tôi tưởng mình
đã chết, tôi ngủ trên mảnh gỗ không biết ngày giờ nữa, mà lạ là không bị rơi ra
khỏi mảnh gỗ đó, tôi nghĩ mình sẽ chết trong nay mai vì không còn sức nữa…
Cho đến một ngày, may mắn đã đến với tôi, chiếc tàu giàn khoan của
Nhật Bản ra làm việc trên con đường tôi đang bị đắm, họ đã thấy tôi lúc ấy như
một cái xác vật vờ, đã vớt tôi lên bờ, mà cả người tôi vẫn cứ co quắp ôm chặt
mảnh gỗ đến không tháo ra được, phải gọi mấy người vào xoa bóp các cơ gân cho
giãn ra, mới lấy được mảnh gỗ ra khỏi người tôi.
Tôi như người đã chết, phần sống chỉ còn 10-15%, nhờ những người
bác sĩ tận tình cứu giúp, túc trực ngày đêm bên tôi, đút cho tôi từng thìa
cháo, chích thuốc cho tôi hồi tỉnh. Sau hai tuần tôi đã khá hơn, nhưng trí nhớ
tôi đã không có lại được ngay lúc đó. Người săn sóc tôi thật chu đáo với tất cả
tâm tình chính là con gái của người làm việc trên giàn khoan đó… Chính là vợ
tôi, người con gái Nhật này đây, cô ta dậy tôi tiếng Nhật, gọi tôi là Kaito, có
nghĩa là biển, là người chiến đấu, nàng đã giúp tôi hồi phục trí nhớ từ từ.
Tôi mang ơn cha nàng đã cho tôi sự sống, mang ơn vợ tôi, và nước
Nhật đã rất nhân đạo cứu giúp tôi và… rất nhiều thuyền nhân Việt đã đến sau đó.
Tôi nghĩ chị Xuân Thu và anh Kaito sẽ ôm lấy nhau khóc cho cuộc
tương phùng đầy bất ngờ sau 40 năm. Nhưng không!… Anh vẫn ngồi yên kể như kể
một chuyện tình của kẻ thứ ba, lâu lâu anh quay lại nhìn cô gái Nhật Hina đầy
biết ơn và san sẻ câu chuyện của anh với nàng.
Sau đó anh quay lại nhìn chị Xuân Thu với cặp mắt tiếc nuối:
- Tất cả mọi sự đã qua, 40 năm đã thay đổi tất cả… Anh mong em
thật hạnh phúc!
Không ngờ cả hai anh chị đều tỵ nạn trên nước Nhật, người sống đầu
Nam, kẻ sống đầu Bắc nên không bao giờ gặp được nhau. Tôi được chứng kiến một
cảnh gặp gỡ cảm động sau hơn 40 năm của chị Xuân Thu và người yêu, tôi cảm nhận
được sự yêu thương, mừng vui của chị Xuân Thu hiện ra trong ánh mắt khi nhìn
thấy anh Kaito hạnh phúc và trân trọng chị Hina, tuy rằng từ đây chị Xuân Thu
sẽ mãi mãi không còn là người yêu của anh Kaito nữa nhưng chị sẽ vui và an tâm
khi thấy người yêu của mình có cuộc sống hạnh phúc, bình an bên người vợ tốt.
Tình yêu của chị đối với anh thật quảng đại quá!
Chị Xuân Thu chẳng nói gì thêm nữa, chị không cần phải kể lể chia
sẻ nỗi nhớ thương ray rứt của chị cho anh biết những ngày tháng qua chị sống ra
sao. Chị chấp nhận sự thật với sự an tâm rằng chị đã không gây ra tội lỗi làm
cho người yêu của mình bị chết oan trên biển cô đơn lặng lẽ vì chị. Tôi thấy
chị vui ra mặt, chị không còn ấm ức áy náy về anh Kaito nữa.
Chị bắt tay bằng cả hai bàn tay mình, có lẽ là lần cuối, nói với
hai vợ chồng:
- Cám ơn Hina rất nhiều đã cứu lấy anh Kaito. Cám ơn anh Kaito đã
hành động rất đúng. Cầu chúc cho cả hai thật nhiều hạnh phúc, yêu thương mãi,
gia đình thật nhiều bình an.
Vợ chồng tôi theo chân chị ra xe, trời đầy hơi sương lạnh của một
chiều thu đầu tháng mười, từng chiếc lá vàng rơi nhẹ xào xạc trên lối đi.
Chuyến đi Nhật của tôi thật ý nghĩa và có duyên lành, gặp lại chị Xuân Thu sau
40 năm, chứng kiến cảnh hội ngộ đầy bất ngờ của anh chị ấy mà tưởng chừng sẽ
không bao giờ tồn tại ở trần gian này nữa.
Tôi nắm lấy bàn tay chị, nụ cười tỏa nắng ấm của chị như xóa đi
tất cả mọi ưu phiền bấy lâu.
Cho dù xa nhau, nhưng không mất nhau
Cho dù gần nhau, nhưng không có được nhau
Em về với em, tôi về với tôi
Một dòng sông đi qua, có nhớ cuộc
tình xa.
(Mỗi độ trăng về- Trúc Hồ)
Kể lại một câu chuyện thật trong chuyến đi đến Nhật Bản vào cuối
tháng 9 vừa qua.
Sỏi Ngọc
22 tháng 10, 2024
Câu chuyện nào của Ngọc Huyền cũng có những tình tiết bất ngờ thật diệu kỳ và thú vị.
ReplyDeleteTruyện thật hay. Cám ơn Ngọc Huyền, người em gái xứ lạnh tình nồng.
TK
Cám ơn chị iu mến TKim đã đăng bài em nhé, đây là chuyện thật trong chuyến đi Nhật rất hy hữu, mãi ở trong đầu óc em 0 sao quên được ạ. Đây phải gọi là duyên kỳ ngộ châu về hợp phố, chả bao giờ có thể xảy ra thêm 1 lần nào nữa trong đời người ạ! Thương mến em SỎi
Delete