Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Trang Người Phương Nam
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ from 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Monday, December 23, 2024
Nhật Ký Giáng Sinh Trong Tù - Đinh Quân
(Viết nhưng không thể gửi cho con gái)
Sau 47 năm - đúng vào tuổi con gái bây giờ - đọc lại
những dòng nhật ký này tôi vẫn còn thấy xúc động và bạn đọc chắc ngạc nhiên tại
sao tôi có thể qua mắt bao cán bộ việt cộng trong nhiều lần chuyển trại. Tôi đã
phải khôn khéo ghi ngoài bìa vở tên mình và hàng chữ lớn ‘Học Tập Cải Tạo’
Trang trong mở đầu ‘Quyết tâm Học tập và Lao động tốt’
với những khẩu hiệu:
- Không gì quí hơn độc lập tự do.
- Lao động là vinh quang.
- Kế 10 năm trồng cây, kế 100 năm trồng người.
- Bàn tay ta làm nên tất cả, Có sức người sổi đá cũng
thành cơm.
- Không có gì là khó, Chỉ sợ lòng không bền,
Đào núi và lấp biển, Có chí vẫn làm nên.
Cán bộ VC có liếc qua thấy những hàng chữ trên, chỉ gật
đầu đắc chí khen tốt mà không nhìn thấy những dòng nhật ký tôi viết xen kẽ với
các bài học chính trị, vì thế tôi đã giữ được quyển nhật ký đến nay.
* Long Giao: 24/12/75.
Linh Trang con yêu,
‘Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.’
Đó là lời Thiên Sứ chúc mừng cho nhân loại trong đêm
Chúa Giáng Sinh.
Ngày nay lời đó vẫn còn văng vẳng bên tai mỗi người
chúng ta trong đêm trọng đại này.
Nhưng lời chúc mừng đó không đến với ba và các bạn nơi
đây, không được mừng lễ Giáng Sinh, không được hưởng quyền tự do tín ngưỡng, vì
chưa thành người công dân- Đó là lời của ban chỉ huy trại báo xuống. Vì thế
không được tụ tập mừng lễ ồn ào, ca hát, kinh sách, cầu nguyện… Thật là buồn tủi
không được dự một lễ Giáng Sinh vui tươi sốt sáng như trước đây để nguyện cầu
cho Quê hương thanh bình no ấm và gia đình yên vui khỏe mạnh.
Thế mà chính trị viên lại đề cao cách mạng đảng, khi bắt
được tù binh Mỹ ngoài Bắc, trong đêm Giáng Sinh vẫn cho ăn mừng lễ với cái đầu
ngỗng theo phong tục cổ truyền của họ. Ôi ngôn từ thật là tiền hậu bất nhất!
Còn bọn ba không phải là tù binh nên không có qui chế mà chỉ có nội qui-chấp
hành nội qui là phải giữ đúng qui luật trên đưa xuống, vì các anh là học viên
không phải tù binh- Lý luật xác đáng phải nhất trí thi hành nghiêm túc!...
Linh ạ, hôm nay lúc 4 giờ sáng ba nghe tiếng nhạc Noel
từ một xứ đạo gần trại vang lên những bản Thánh ca quen thuộc, khiến ba bừng tỉnh
nghĩ đến Chúa Hài Đồng sinh trong hang đá máng cỏ khó nghèo để đem bình an cho
nhân thế-Thật buồn nghĩ đến mẹ và con không có ba cùng đến giáo đường dự Thánh
Lễ trọng đại đêm nay. Tuy vậy cũng có mấy bạn tù Công giáo hát lên nhè nhẹ những
bài Thánh ca sưởi ấm tâm hồn với những nhạc khí thô sơ do mình chế tạo- cũng ăn
mừng lễ không có ngỗng thì có chuột thay thế. Ba không dám ăn thịt chuột dù
trong đời quân ngũ đã thấy nhiều binh sĩ thưởng thức món ăn đồng quê này.
Nguyện Chúa Hài Nhi chúc lành cho hai mẹ con và gia
đình cùng các bạn tù. Ba viết những dòng này lúc 7 giờ tối sau khi đã gánh nước
đổ đầy 3 chiếc phi để chuẩn bị làm bếp ngày mai.
* 25/12/75
Ba viết tiếp về ngày Giáng Sinh đang bỏ dở vì phải âm
thầm kín đáo ra vườn chầu Mình Thánh và Rước Lễ do Linh mục tuyên úy khởi xướng.
Ồ chắc con lại bỡ ngỡ phải không? Thời gian mới các cán cán bộ chưa kiểm soát gắt
gao, vì hình như đang chờ lệnh trên để chuyển tù đi nhiều nơi hay ra Bắc nên có
phần lỏng lẻo đôi chút. Vì thế ba và một số bạn Công giáo thay nhau từng nhóm 4
hay 5 người ra cầu nguyện dưới ngọn nến cháy hắt hiu dưới bóng cây rừng trên khắc
hình thập giá.
Ôi Chúa cao trọng ngự xuống nơi đây không có cả hang
đá máng cỏ chiên bò thở hơi sưởi ấm.
Ba sốt sáng rước Chúa vào tâm hồn thay cho máng cỏ thấy
ấm cúng và mach máu trào dâng một sức sống mới lạ thường. Cha Tuyên úy trao
Mình Thánh cho từng người và khuyên nhủ đôi lời. Ngài nói trong hoàn cảnh này
ta mới hiểu được tình thương bao la của Thiên Chúa hạ sinh làm người để cứu chuộc
tội lỗi ta và ban phát an bình cho nhân loại. Anh em hãy can đảm chịu đựng gian
khổ, giữ gìn sức khỏe và cầu xin sớm có ngày về xum họp cùng gia đình.
Sau lễ, các bạn và linh mục cùng dự tiệc mừng bằng nồi
cháo ruột cá do nhà bếp tặng còn bốc khói nghi ngút, uống ngụm cà-phê, phì phà
điếu thuốc lá, rít hơi thuốc lào. Sau những tháng xa gia đình và xã hội, mọi
người không dám ăn nhiều, uống nhiều, hút nhiều mà chuyền cho nhau thưởng thức
hương vị ngọt bùi len vào mạch máu.
Ba nghĩ như thế cũng là phép lạ rồi, vì tưởng không có
gì mà lại ổn thỏa trong bầu khí ấm áp thân tình…
Ôi cũng là diễm phúc Chúa ban cho ba và các bạn tù,
thay vì những ngấn lệ tủi nhục là những giọt lệ cảm mến trào dâng. Một mối xúc
động chân tình nhất trong đời ba con ạ! Đêm nay quì bên máng cỏ, chắc mẹ và con
cầu nguyện nhiều cho ba phải không?
Chúa sẽ không quên ban phúc lành cho gia đình ta đêm hồng
ân này. Đêm nay ba dâng lên Chúa bằng những hy sinh chịu đựng trong tù như một
ánh sao nhỏ bé soi đường cho những người đang tìm đến hang Be-lem thờ lạy Chúa
Hài Đồng.
Thôi ba dừng bút và hẹn con thư sau sẽ kể tiếp nhé!
Ba con
* Sài gòn 25/12/76
Thăm anh,
Hôm nay là ngày Chúa Giáng Sinh cũng là sinh nhật của
anh đấy.
Sài gòn mọi người nhộn nhịp đón mừng Chúa ra đời cứu
chuộc nhân loại. Thế là đúng 2 mùa Giáng Sinh anh xa gia dình và xã hội bên
ngoài. Mùa này ngoài Bắc lạnh lắm anh nhỉ? Tối nay bác chở hai mẹ con đi lễ nhà
thờ Đức Bà, rồi đi 1 vòng Sài gòn. Con bé vui thích lắm, bảo nó ra đứng trước rạp
Rex chụp hình gửi cho bố. Mua cho bé một triều thiên bằng giấy, chắp tay làm
thiên thần giống ghê đi. Thật đúng là tuổi thơ thiên thần chả biết buồn khổ là
gì.
Gia đình ta bình yên cả. Sau Giáng Sinh bác đi làm ở Củ
Chi. Mẹ vẫn bám vào nghề nuôi heo. Còn em sáng đi trưa về sống lai rai qua ngày
và đang xin dạy bình dân học vụ ở phường.
Riêng anh sức khỏe thế nào, còn phù thũng không, vẫn
lao động cùng anh em chứ? Anh đừng lo lắng cho con và em, tuy sống khổ đôi
chút, nhưng an ủi vì có con là nguồn vui. Các chị và gia đình cũng chật vật nên
không giúp được, hôm trước anh viết thư nhờ các chị giúp em ngại lắm đấy. Anh
Triệu hồi này cực lắm tính tình thay đổi nhiều, Quốc và Triệu Anh phải nghỉ học
luôn. Chị ít khi ở nhà vì tiền nong chi tiêu anh ấy giữ cả. Anh chi Tùy đi kinh
tế mới tạm sống được vì con cái đông chịu khó. Cậu Hảo mới qua đời. Còn Mậu con
chú Tự thì sao, có ở cùng anh không và sao không thấy tin tức gì vậy? Còn thuốc
và mấy thứ lặt vặt anh cần như kem, bàn chải đánh răng em đã mua sẵn rồi chỉ chờ
có phiếu là gửi. Nhưng theo em biết gửi hàng qua bưu điện mỗi gói chỉ được 3
ký, muốn gửi anh đôi giầy để đi lao động cho tốt là hết 1 ký rồi.
Thôi vài hàng cho anh biết tin tức về gia đình. Mong
ngày đoàn tụ sẽ kể nhiều chuyện anh hay. Con nhỏ ngủ ngon rồi! Thật tội nghiệp,
mở an-bum ra chỉ đúng ngay bố. Nó nói nếu được đi thăm sẽ gọi ‘Bố ơi bế con
tí!’
Nguyện xin Chúa Hài Đồng ban phúc lành cho anh mạnh khỏe
đủ sức lao động tốt sớm về với gia đình!
Em: GIÁNG SINH trong tù Việt cộng
* Lời đầu cho Bạn:
Đối với chế độ CSVN, quyền tự do tín ngưỡng bị hạn chế
nhất trong các quyền tự do của con người. Riêng Công giáo VN được chúng lưu tâm
đặc biệt qua các sự kiện nổi bật như Quỳnh lưu, Ba làng, Bùi chu, Phát diệm…tiếp
đến cuộc di cư vĩ đại của triệu người Công giáo từ Bắc vào Nam năm 54. Rồi sau
ngày 30.4.75 khi bọn Cộng sản xâm chiếm miền Nam, trên hai triệu người lại bỏ
nước ra đi với hai bàn tay trắng không sợ gian lao nguy hiểm để tìm tự do mà
trong đó quyền tự do tín ngưỡng là ưu tiên.
Sau đó liên tiếp những vụ đàn áp tín đồ, cưỡng chiếm
nơi thờ phượng, đất đai… như Thái hà, Toà Khâm sứ, Tam Toà, dòng Phaolô Vĩnh
long, trường học xứ Loan lý, giật sập Thánh Giá Đồng Chiêm, Cồn Dầu, Mỹ yên, tại
Đan viện Thiên An, Huế, giáo xứ Thọ Hòa, Thủ Thiêm, phá rối Thánh lễ tri ân
Thương phế binh tại DCCT Sài gòn. Rồi gần đây nhất là vụ cưỡng chiếm nhà đất
dân chúng Đồng Tâm, Thủ Thiêm, cụ Lê Đình Kình bị sát hại tại xã Đồng Tâm cùng
con cháu bị lãnh án tử hình và chung thân để cố tình chu di tâm tộc…
Cùng các cơ sở Công Giáo như Nhà thờ, Nhà dòng, trường
học, với ngụy danh kiến thiết đô thị tân tiến có cả nhà hát giao hưởng, làm nhiều
ngàn gia đình không còn chỗ nương thân. Những hành động tham ô bỉ ổi của bọn tà
quyền VC, khiến nhiều ngừời phẫn uất, cùng sự phản đối của các tổ chức nhân quyền
trên thế giới. Thế mà bọn cầm quyền CSVN vẫn làm ngơ và tiếp tục dùng mọi thủ
đoạn gian manh đàn áp tuyên truyền, hứa hẹn, dọa nạt, dùng hơi cay, dùi cui,
roi điện, chó săn, côn đồ... Nhưng bạo lực không thể trấn áp được ánh sáng Tin
yêu và tiếng kinh Hoà bình vẫn vang vọng khắp nơi trong và ngoài nước.
Rồi sau khi chiếm miền Nam, Cộng sản ra lệnh tập trung
cải tạo, nhưng thực chất chỉ là giam tù không tuyên án – tất cả các sĩ quan
QLVNCH – mà thành phần chúng theo dõi kỹ hơn là các vị Tuyên uý và sĩ quan Công
giáo. Trong thời gian chúng tôi bị giam giữ ngoài Bắc, bọn cán bộ hay gọi các
Linh mục và sĩ quan Công giáo lên tra hỏi, hạch sách về lý lịch, cấm không được
truyền đạo, trao đổi sách báo Công giáo. Tuy nhiên dưới sự hướng dẫn của các
Linh mục chúng tôi vẫn trao cho nhau đọc Thánh kinh, Kinh nguyện chép tay… Những
buổi tối cầu nguyện vào ngày Chúa nhật và Lễ Trọng anh em vẫn tổ chức.
Qua những dòng nhật ký dưới đây, ghi lại trong tù vào
đêm trước Giáng sinh năm 77 nơi trại tù Sơn La- dưới hình thức ‘Những lá thư viết
cho Con gái đầu lòng không bao giờ gửi đi’. Nhưng giờ đây ra tù, sau gần 30 năm
đặt chân lên đất Hoa Kỳ tự do, tôi xin trao lại ‘Lá thư này’cho Con gái và các
Bạn như một kỷ niệm khó quên nhân dịp lễ Giáng Sinh.
…Sơn La, tối 24 tháng 12 năm 1977
Trại giam là một khu nhà đổ nát bỏ hoang vì bom đạn
chiến tranh. Khoảng 4 giờ chiều là mây mù giăng phủ bốn bề. Tiếng cồng gọi tù
là một mảnh bom vang dội nghe âm u buồn thảm. Những người tù quần áo rách nát
có đóng số tù trước ngực và sau lưng, thân hình gầy yếu tiều tụy, vác trên vai
những bó tre nứa nặng trĩu, cắm cúi mau bước về trại tập trung.
Ba viết cho con những dòng này giữa thung lũng Sơn-
La, chung quanh núi rừng bao phủ. Sau bữa ăn chiều với vài củ khoai chấm muối
là mặt trời đã khuất sau núi. Màn đêm xuống mau mang theo giá lạnh cùng với tiếng
côn trùng và muông thú vang vọng gần xa.Các bạn tù đã gom được ít củi và lá khô
đốt lên ngồi quanh sưởi ấm. Ba đã viết những dòng chữ xiêu vẹo này dưới ánh lửa
chập chờn. Viết mà không bao giờ gửi đi – vì không được phép gửi hay nếu có gửi
tới nơi con vẫn chưa biết đọc khi mới tròn 2 tuổi. Nhưng ba cứ viết để khi buồn
đem ra đọc và biết đâu một mai khôn lớn con sẽ đọc. Mỗi đêm ba chỉ viết chừng nửa
trang xen kẽ vào những bài học giáo điều mà bọn CS bắt ba học.
Đêm nay ba muốn viết nhiều hơn vì là đêm trọng đại:
đêm Noel cả thế giới đang tưng bừng chào đón. Nơi đây làm gì có Thánh lễ, có ăn
Reveillon, có Thánh ca…phải không con?. Thế mà có tất cả đấy con ạ! Chắc con lấy
làm lạ tưởng rằng bọn CS đã biết tôn trọng tự do tín ngưỡng trong cả nhà tù,
hay là trò khoe khoang cho cuộc sống ưu việt nơi miền Bắc sau hơn 30 năm tiến
lên Xã hội chủ nghĩa? Không phải thế đâu con, vì ba đã đi qua bao giáo đường đổ
nát dùng làm hợp tác xã chăn nuôi. Ba đã từng thấy những tên cán bộ gốc Công
giáo nay đã bỏ đạo, cấm các Linh mục tuyên uý không được làm lễ và giải tội cho
tù nhân. Chúng còn nói hàm hồ với các Linh mục là đảng và nhà nước chưa tha tội
cho các anh nên các anh không có quyền tha tội cho ai cả.
Nhưng đêm nay trong cảnh ngục tù giữa núi rừng hoang lạnh
Chúa an bài tất cả. Chúa thấu suốt những khát vọng nội tâm và không bỏ rơi những
kẻ theo Ngài. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Chúa đã nuôi năm ngàn người ăn
uống no nê thì vỏn vẹn chưa đầy 20 người tù Chúa sẻ lo cho tất cả…
Chiều hôm trước Cha Tuyên úy nhắc nhở anh em dọn mình
chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Về nội tâm một số đã xưng tội trong rừng khi đi
lao động, số còn lại xưng trong tù trước giờ Thánh lễ. Về hình thức bên ngoài
anh em gom nhặt được trên đường đi lao động: vài con cá, tôm tép, lươn ếch…để nấu
một nồi cháo khoai thập cẩm vì không có gạo –những người tù như ba quanh năm chỉ
có 6 tháng khoai lang và 6 tháng khoai mì do chính mình đổ mồ hôi khai phá bạt
ngàn trồng trọt nhưng ăn không đủ no với tiêu chuẩn hàng ngày 500 gam.
Ôi! Lúc này ba thèm một nồi cháo như người con phung
phá trong Phúc Âm thèm một nồi cám heo…Có anh hái được ít lá chè trên một ngọn
đồi bỏ hoang nấu những lon nước chè đặc thơm ngát hương vị núi rừng.
Trước giờ lễ cha Tuyên uý nói về ý nghĩa lễ Giáng
sinh, sau đó anh em hát bài Thánh ca quốc tế ‘Đêm thánh vô cùng’. Thánh lễ
trang nghiêm thầm lặng nhưng đầy xúc động. Mình Thánh Chúa đựng trong một hộp
nhựa đặt trên chiếc mền phủ khăn trắng. Linh mục trao cho mọi người hôn kính và
chia sẻ rước Chúa vào tâm hồn. (Mình Thánh là phần bánh bột, vị Tuyên uý được
anh em nhà bếp cung cấp trước).
Kết thúc buổi lễ là ca khúc ’Đêm đông’ quen thuộc, càng
cảm động khi một số anh em ngoài Công giáo cùng tham dự tiệc mừng. Có anh tình
nguyện ngồi xa làm vọng gác tiền đồn để kịp báo động khi cán bộ xuất hiện. Vừa
ăn cháo khoai vừa chuyền nhau ngụm nước chè nóng và nhắc nhớ những Kỷ niệm về Lễ
Giáng Sinh trước trong cuộc đời.
Mọi việc hoàn tất tốt đẹp trước khi tiếng cồng vang
lên báo hiệu tắt đèn lúc 8 giờ tối.
Trở về chỗ ngủ, cứ hai người chung nhau 1 chiếc chiếu
và mùng cá nhân vì chỗ nằm mỗi người chỉ bằng 3 viên gạch. Nhà không có mái
che, sương đêm xuống lạnh buốt phải chăng poncho hay tấm vải nhựa phía trên cho
đỡ giá lạnh. Như các bạn giờ này ba chưa ngủ được, nhìn lên bầu trời đêm những
vì sao lấp lánh qua đám lá cây rừng, ba tìm vì sao sáng nhất của Chúa Hài Đồng
và vì sao mờ nhạt của đời mình –vì nếu khoa chiêm tinh ứng với số mệnh của mỗi
người thì ắt hẳn trong muôn ức triệu tinh cầu sẽ mang tính mệnh của mỗi con người.
Ba hồi tưởng lại những kỷ niệm Noel đã qua tại vùng
cao nguyên Kontum, những tháng ngày thử lửa đầu đời lính. Sau đêm tử chiến ba
khiêng xác đồng đội cuộn tròn trong poncho lên trực thăng chuyển về hậu tuyến
đúng vào đêm Giáng sinh khi khúc nhạc Silent Night do máy bay Mỹ phóng thanh
vang vang trên thành phố- Pleiku mùa Giáng sinh xứ lạnh sương mù, thành phố im
lìm ngủ say trỗi dậy theo tiếng Sứ thần tìm đến hang đá Be-lem đón mừng Chúa
Giáng trần- Đà-lạt thành phố du lịch miền Nam cao điểm nhất vẫn là mùa Noel, mọi
nơi du khách đổ về đón nhận những ngày lạnh nhất, tưng bừng nhất và cảm động nhất.
Những nơi như nhà thờ Con gà,, Viện Đại học, Trường Võ bị, Chiến tranh chính trị,
Chỉ huy tham mưu… đều mở cửa đón du khách với những lễ hội tưng bừng.
Ba và mẹ con những ngày ấy, cứ mong ước con sớm chào đời
để cùng hưởng những phút giây êm đềm. Ba nghĩ đến mẹ con và con chắc giờ này
đang sửa soạn đi dự Thánh lễ Nửa đêm, nhưng lại thiếu ba buồn quá con nhỉ?
Thôi ba hẹn con một mùa Giáng Sinh nào sẽ đến để dẫn
con tới Thánh đường, quì bên hang đá cầu xin Chúa cho mọi người trong gia đình
mình mãi sống bên nhau. Đêm nay con nhớ cầu nguyện cho ba, cho các bạn ba, cho
Đất nước mình hết hận thù nhau, cho Dân tộc mình hạnh phúc. Đúng như lời vị
Tuyên úy:’ Chỉ sống trong hoàn cảnh này ta mới hiểu sâu xa tình thương yêu của
Chúa sinh xuống khó hèn vì nhân loại trong hang đá Be-lem’.
Tiếng ca nho nhỏ khúc hát Giáng Sinh của người bạn tù
còn thao thức làm ba bừng tỉnh quay về thực tại cuộc sống tù đầy cực khổ nơi
đây. Tiếng côn trùng vẫn hòa ca, tiếng thú rừng vẫn vang vọng xa xa. Một dòng
suối len trong khe đá chảy róc rách gây cho ba cảm giác cô đơn và buốt lạnh. Ba
kéo chiếc mền rách nằm sát bên bạn tù chuyền cho nhau hơi ấm như chiên bò thở
hơi ấm cho Chúa khi xưa. Nghĩ đến những bạn tù bị biệt giam trong hốc đá lạnh
buổt sau trại, mà dâng lên xót xa tủi hận… Cứ miên man trong suy tư và ba thiếp
đi trong vùng trời Noel đầy mộng mị…”
* Lời cuối cho con:
Thấm thoát đã gần nửa thế kỷ kể từ Giáng sinh trong ngục
tù Cộng sản năm nào, giờ vẫn còn là những kỷ niệm đau buồn khó quên. Nhưng có một
điều an ủi cho ba và gia đình ta đã đến được vùng trời tự do, thoát khỏi kiếp sống
đọa đầy với những đêm Noel buồn thảm.
Ngày ba còn nhỏ dại, khi nhìn vào những tấm thiệp
Giáng sinh hay đọc truyện Noel nước ngoài, ba thường mơ tưởng đến những giáo đường
cao vút vươn lên trong bầu trời đầy sao, tuyết phủ trắng xóa trên những cây
thông như mũi tên khổng lồ. Ông già Noel râu tóc bạc phơ lái xe chở đầy quà tặng
cho các trẻ em do những con tuần lộc sừng cong lao đi vun vút trong đêm từ miền
Bắc cực.
Khi ba đặt chân lên miền đất hứa này, ba không còn những
rạo rực của tuổi trẻ trứớc cuộc sống tràn đầy sức sống, không còn những năm
tháng dài chờ đợi đầy hoa mộng. Nhưng con, giờ đã trưởng thành, hấp thụ được vốn
kiến thức đủ bảo đảm cho cuộc sống tương lai tốt đẹp.
Nước Mỹ tuy không phải là thiên đàng hạ giới, nhưng vẫn
là vùng trời tự do, đất hứa của tuổi trẻ, miền đất luôn sẵn sàng đón nhận và
bao dung cho những con người chốn chạy khỏi một chế độ tàn ác vô nhân đạo.
Mùa Giáng sinh là mùa An bình Hạnh phúc mà con người
luôn khao khát chờ trông. Ba xin mượn lời Thiên Sứ năm xưa chúc nguyện cho con
và gia đình mình cùng mọi người trong đêm Đại Thánh này:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người chính tâm.”
Đinh Quân
(*) Ghi chú: Bài viết trong hoàn cảnh khó khăn, nên ngày tháng năm không thể liên tục, lời văn không chau chuốt, ý tưởng không sắp xếp- Nghĩ sao viết vậy thôi! Hình ảnh và vài hàng tâm sự bổ túc sau- Mong thông cảm những thiếu sót!
Suy Niệm Lễ Giáng Sinh Với Một Câu Chuyện Minh Họa - Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Bài đọc
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay giới thiệu Chúa cứu thế là Vua hòa bình, Ngài đến
trần gian nhằm mục đích mang lại hòa bình cho nhân loại. Điều quan trọng là hoà
bình mà Ngài mang đến không phải là một tình trạng ngưng chiến tạm thời, nhưng
là một nền hoà bình vĩnh cửu dựa trên tình yêu thương huynh đệ.
Giê-su
làm cách nào để đem lại hoà bình vững bền cho thế giới?
Câu
chuyện sau đây minh hoạ cho ta thấy.
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh vượng.
Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô, văn võ
song toàn, khí phách anh hùng. Hai hoàng tử nầy luôn yêu thương gắn bó với nhau
như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng là Faroux, một người cực
kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền kiếp với vua Fanxica. Lòng căm
thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai hoàng tử thông minh đĩnh
đạc, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy một mụn con. Vì thế,
ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn bắn,
nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em.
Khi hay tin em mình mất tích trong rừng, hoàng tử anh một
mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua Faroux
giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập
nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người kia.
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua
cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé
xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau, ông vua ác độc bắt
hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người đều mang bộ da sư tử, mặt nạ sư tử, và
buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai người phải chết. Ai sống
sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ
mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông
vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú điên cuồng. Đám đông cổ võ hò
la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân
thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu
me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ sát đối
thủ, để dành sự sống cho mình, để được trả tự do. Một là chiến thắng, hai là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người bất thần vung đao nhanh như chớp
chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử của y, để lộ ra một khuôn mặt...
rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống.
Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận
ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt, hai hoàng tử con vua
Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ
rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là người anh em rất
thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu. Hai con người bầm dập,
mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù, đã
giao chiến với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau. Họ
vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc
của mọi người.
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu một mất một còn
trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm kịch đau thương vẫn diễn
ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ nầy, nhiều nơi trên thế giới
cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt y
như thế.
Chính ma quỷ là kẻ thù nghịch với Thiên Chúa, cũng giống
như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm lên mỗi người một thứ “lốt sư tử, lốt
chó sói” khiến người ta xem “người là lang sói của người – homo homini lupus”
(ngạn ngữ La-tinh), hay lầm tưởng “tha nhân là hỏa ngục” (theo triết gia Jean
Paul Sartre) hay chỉ là “người xa lạ” (theo Albert Camus) đối với mình. Vì thế,
con người không còn nhận ra nhau là anh em một nhà; mà xem người khác như là kẻ
thù cần tiêu diệt không thương tiếc.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng xây dựng hoà bình của
các tổ chức quốc tế đều bó tay!
Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu người ta tước
súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao rựa, mã tấu... Nếu
bị tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch đá để huỷ diệt
nhau; Có tịch thu hết gậy gộc, gạch đá thì đôi bên có thể tấn công nhau bằng nắm
đấm hoặc dùng đôi hàm răng để cắn xé nhau…
Giải pháp nào để chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hoà bình
cho nhân loại?
Muốn cho đôi bên tự động ngưng chiến và sống chung hòa
bình thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí giới mà là khai hoá cho họ
biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà chính là người anh em ruột thịt
con cùng một Cha.
Giáo
huấn quan trọng nhất của Chúa Giê-su là bày tỏ cho mọi người biết rằng Thiên
Chúa là Người Cha đầy lòng yêu thương đã sinh ra hết thảy chúng ta và tất cả mọi người đều là con cái
của Ngài và là anh chị em với nhau.
Khi
bày tỏ sự thật nầy, Chúa Giê-su muốn lột bỏ chiếc “mặt nạ sư tử”, “mặt nạ lang
sói” mà ma quỷ trùm lên khuôn mặt mọi người, để họ không còn xem nhau là thù địch
nữa, nhưng nhận ra mỗi người chung quanh đều là những người anh chị em rất thân
thương.
Lạy
Chúa Giê-su, Vua hoà bình,
Xin cho mọi người trên
khắp thế giới biết mở tâm hồn đón nhận sự thật tuyệt vời do Ngài mang đến. Chỉ có sự thật nầy mới có thể giải thoát nhân loại
khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có
sự thật nầy mới là nền tảng đem lại hòa bình cho mọi dân tộc và hạnh phúc cho hết
mọi người.
Linh
mục Inhaxiô Trần Ngà
Thằng Bé Cu Li - Lý Lan
Dạo hoa phượng còn rực đỏ trên cành, thằng bé bắt đầu bằng một nghề nhàn hạ một cách chân chính: bán trà đá. Mẹ nó sắm cho nó đủ bộ đồ nghề: một thùng càrem bằng mốp cũ kỹ, sang lại của ông già Năm. Một cái ấm nhôm hơi cũ, nhưng được mẹ nó kỳ cọ bằng tro, chà đánh bằng xơ mướp nên sáng loáng lên, coi cũng vệ sinh lắm. Và hai cái ly thủy tinh.
Mỗi sáng, trước khi quảy gánh ve chai ra đi, mẹ nó nấu một nồi nước sôi, pha trà, đổ vô ấm nhôm. Nó mua ở tủ lạnh nhà bác Ba một chục đá cục bỏ vô thùng càrem, chèn bao nilông thật kỹ trước khi đậy nắp thật kín. Nó quàng dây qua vai gầy, đeo thùng càrem ngang hông, thân hình bé nhỏ hơi vẹo đi một tí. Một tay xách ấm nước, một tay cầm hai cái ly, nó đi bộ hai cây số từ nhà đến bến xe Ký Thủ Ôn.
Bán trà đá tưởng như là một nghề chơi chơi: mình chỉ việc xách ấm
và ly đi đến một người khách và mời: "Trà đá, chú!" hay "Trà đá,
dì!". Khách có thể hỏi: "Bao nhiêu một ly?". Trả lời: "Một
trăm đồng". Khách gật đầu: "Cho một ly". Mình chỉ việc bỏ cục đá
vào ly, rót đầy nước trà vào. Đá tan làm ly nước rịn mồ hôi. Nước trà màu nâu
hổ phách trong veo, thoảng mùi thơm lá dứa. Khách cầm ly uống ừng ực, nước
trà chảy qua cổ họng đang khát khô, tới bao tử, làm mát cả ruột gan. Khách đã
khát, mặt mày tươi tỉnh lại, vui vẻ móc túi trả tiền. Thế là được một trăm
đồng. Khoẻ re. Vì vậy, già trẻ bé lớn gì cũng có thể bán trà đá.
Nhưng bến xe Ký Thủ Ôn là một bến xe nhỏ, chỉ có mấy chiếc xe đò cà tàng, mỗi ngày vài chuyến, chạy đến những xứ sở buồn hiu như Cần Giuộc, Chợ Trạm, Cần Đước, Gò Công. Người về xứ đò không nhiều, bến xe lưa thưa hành khách. Mỗi lượt tài mới có năm bảy khách mà đã tới cả chục người bán hàng rong vây quanh, ồn ào chào mời nhặng xị: "Bánh tráng phồng đây", "Cốm ngò đây", "Kẹo dừa", "Trà đá đây", "Trà đá, hông?" "Trà đá, chú"...
Thằng bé cũng lăn xả vô. Nhưng hoặc là nó không cạnh tranh lại đám trà đá "chuyên nghiệp" hơn, hoặc nếu hôm nào tranh được mối thì sẽ bị tụi kia kiếm chuyện quần cho một trận cho "biết điều" hơn.
Cuối cùng thằng bé lủi thủi xách ấm nước và đeo thùng đá cục đi lang thang xuống phố. Xe cộ đông đúc làm sao, người ta sang trọng làm sao. Họ phóng xe vù vù rồi ngồi quán có nhạc đêm, dù che, uống nước cam tươi hay la hán quả. Nó đi mỏi rục giò mà chỉ bán được một ly trà đá cho chú xích lô, một ly cho chị bún riêu, một ly nữa cho ông già bán vé số. Hôm nào may mắn lắm cũng có thể bán được chục ly, có hôm mưa gió eo xèo, chẳng ai thèm uống trà đá. Mấy cục đá buổi sáng bự hơn nắm tay, đến chiều teo lại bằng ngón chân cái, đến tối thì tan biến luôn, lỗ vốn!
Một hôm, nó đang đi lững thững thì có người kêu trà đá. Ôi, trúng mánh! Hàng chục người đang làm việc ở một bãi đất ngổn ngang gạch đá, vôi vữa, tôn thép... Hẳn là họ làm việc nặng nhọc lắm, người nào người nấy mồ hôi mồ kê đầm đìa như tắm. Một người kêu trà đá, lập tức mấy người kia kêu theo. Chưa từng có bao giờ trà đá đắt như vậy. Thằng bé lăng xăng lít xít, tay chân lanh lẹ đập đá, rót trà, bưng ly, chạy lui chạy tới như một tay trà đá chuyên nghiệp. Mấy người thấy thằng bé có vẻ tháo vát, tỏ ra thân mật và trêu chọc nó. Nó không thật sự hiểu hết những lời đùa cợt, nhưng vẫn toe toét cười, miệng rộng tới mang tai.
Vèo một cái, ấm trà hết veo. Túi nó rủng rỉnh ngàn bạc. Mặt mày nó phấn chấn, người nó thi thới, lòng nó rộn ràng. Môi nó chỉ chực nở thành nụ cười và tai nó cũng vểnh lên để đón nghe mọi điều người ta nói. Một hồi, nó tự thấy đã quen với mấy người lúc nãy là khách hàng của nó. Nó bạo dạn hỏi chuyện:
- Mấy anh làm gì ở chỗ này?
Họ cười:
- Làm cu li chứ làm gì hở nhỏ?
- Là làm cái gì?
- Là đào đất, xúc xà bần, khiêng gạch, vác xi măng, là làm đủ thứ chuyện mà người ta sai biểu. Cu li là làm cực khổ như trâu bò mà mỗi ngày công được có năm ngàn bạc.
Thằng bé tròn mắt kêu lên:
- Năm sáu ngàn lận?
Thật là một con số vĩ đại. Từ ngày đeo thùng đá và xách ấm trà đi bán dạo, nó đã biết đồng bạc khó kiếm như thế nào, cả ngày trời lang thang dầm mưa, dãi nắng, có khi nó chỉ kiếm được vài trăm. Hôm nào trúng mánh như hôm nay cũng chỉ hơn ngàn bạc. Nó lẩm nhẩm cộng tất cả tiền dành dụm từ hồi đi bán trà đá tới giờ vẫn chưa bằng được cái con số năm, sáu ngàn đó. Mà đó chỉ là tiền công mỗi ngày mà thôi. Nó ngước nhìn những công nhân xây dựng một cách ngưỡng mộ và thật thà nói lên ước vọng của nó:
- Phải chi em được làm cu li!
Mọi người phá ra cười:
- Không chuyên môn gì mới phải làm cu li. Cực chết mẹ chứ chơi à?
Họ chỉ một người ăn mặc lịch sự, đang coi một bản vẽ, nói:
- Có ước mơ thì thành kỹ sư như ông đó, vừa khoẻ vừa có tiền. Nhưng mà phải học thiệt giỏi mới hòng! Mày có đi học không?
- Có, em học hết lớp năm rồi. Tựu trường này em lên lớp sáu. Mẹ
nói lên cấp hai, muốn đi học tốn nhiều tiền lắm. Đồng phục, sách vở, tiền bảo
trợ, tiền sửa chữa trường, đủ thứ hết. Mẹ sợ không đủ tiền đóng nên biểu em
nghỉ hè đừng đi chơi, đi bán trà để dành tiền mai mốt phụ với má đóng tiền học.
Mọi người nhìn thằng bé đen củi còm nhom. Có thể nhận thấy qua ánh mắt vẻ mặt họ một niềm thương cảm. Nhưng chẳng ai nói gì cả. Mấy người lớn tuổi chắc cũng có con cái lớn cỡ nó, chắc họ cũng đang lo nghĩ về tiền học, tiền sách vở, áo quần...
Với lại, cũng hết giờ giải lao rồi. Họ lại làm việc quần quật, không hở tay, hở miệng, hở mắt để mà ngó tới nữa.
Nhưng thằng bé vẫn đứng đó nhìn người ta làm việc. Nó thấy đẩy xe cút kít chở xà bần đi đổ không khó gì. Tưới nước cho ướt gạch, rồi tiếp gạch cho thợ xây thì nó nhắm nó cũng làm được. Ngay cả chuyện trộn hồ, nó đứng coi một hồi thì kết luận nó cũng... làm được, nếu nó cao và to hơn chút nữa.
Tất nhiên là công việc đòi hỏi nhiều sức lực. Nhưng mà thằng bé cho rằng nó cũng dẻo dai lắm. Quả là cực nhọc thật. Nhưng đi bộ suốt ngày với thùng đá đeo bên hông và ấm nước gần bốn lít trong tay cũng không phải là việc nhẹ nhàng gì. Nó đâu có sợ cực. Vả lại, nó thấy người ta làm việc rất vui. Không khí lao động tất bật làm nó đứng coi mà cũng thấy hăng hái và táy máy tay chân.
Ấm trà đã hết rồi. Như mọi khi nó có thể đi lượm trái dầu quăng lên không trung để ngó chúng rơi xuống, xoáy tít thật vui mắt. Nhưng bây giờ thằng bé không màng gì đến trò chơi đó. Nó lảng vảng ở công trường xây cất coi người ta làm, rồi động tay động chân phụ một người đang đẩy xe cút kít, gặp phi mô đất cao, xe lên không nổi. Thấy không ai kêu rằng mình vướng tay vướng chân họ, thằng bé bạo dạn hơn. Khi chú thợ xây kêu: "Gạch!", nó lập tức ba chân bốn cẳng phóng lại đống gạch, ôm một mớ chạy lại tiếp ngay. Rồi cứ chạy đi chạy lại tiếp gạch, tiếp hồ suốt buổi đó.
Hôm sau, mới hưng hửng sáng thằng bé đã có mặt ở công trường, với thùng đá và ấm trà. Nhưng hôm đó ai cũng bận tối mặt. Cứ nghe cai với đội trưởng hò hét công nhân mà hãi hùng. Nào là xi măng tới phải dọn kho chất vô; nào là gạch về, cát về, sân bãi đâu mà đổ. Bọn vật tư chết tiệt, khi cần thì không có, khi chưa cần thì đổ tới ào ào, không nhận thì mai mốt không có dùng, nhận bây giờ thì nhét vô đâu. Mấy thằng kia ra dọn hết đống xà bần này coi! Thằng này nữa, vô xếp xi măng lại coi rộng được chỗ nào không? Còn thằng nào ra trộn hồ nè! Còn thằng nào nữa... Hết thằng rồi! Ai cũng bù đầu tối mặt, mà công việc thì cứ việc này đẻ ra việc kia.
Ông đội trưởng gào thét để chỉ huy một hồi khản cả tiếng. Bỗng ông thấy thằng bé. Hôm qua ông cũng thấy có lăng xăng ôm gạch tiếp thợ hồ, ông chỉ mặt nó, quát:
- Thằng này phụ hồ được không?
- Dạ được.
Nó gật đầu lia lịa. Ông đội trưởng phất tay, bố trí nó "công tác" chung với một ông thợ già. Thằng bé xông vô làm như chiến sĩ xông pha trận mạc.
Buổi chiều, nó bắt đầu thấy mệt. Mặc dù người ta đã giao nó toàn việc "nhẹ nhàng" so với những cu li khác. Nó vẫn bở hơi tai, thè cả lưỡi ra.
Khi nó đeo thùng đá và xách ấm về, ông đội trưởng xoa đầu nó, nói:
- Còn bao nhiêu trà coi như tao uống hết. Chiều thứ bảy trả công luôn.
Bữa nay mới thứ năm. Thằng bé về nhà, thân thể ê ẩm suốt đêm, lòng thì hoang mang không biết mình có thể được lĩnh bao nhiêu tiền công, và liệu ông đội trưởng có quỵt mình không? Chú thợ già mà nó phụ hồ lúc trưa có nói nó nhỏ quá, làm toàn việc vặt, chắc được nửa tiền công thôi. Ba ngàn đối với nó cũng lớn lắm rồi. Nhưng nó siêng năng chịu khó như vậy, có thể được bốn ngàn. Ôi!, bốn ngàn! Nó quên được phần nào sự mệt mỏi của thân xác và ngủ thiếp đi.
Hôm nay nữa mới chỉ là ngày thứ sáu. Thằng bé đến công trưởng, đánh bạo hỏi anh bảo vệ:
- Bữa nay em có được làm nữa không?
- Mày ấy hả? Công trường không bóc lột sức lao động của trẻ em. Hôm qua tại kẹt quá, chứ bữa nay thì miễn.
Thằng bé khẩn khoản nói là nó thích làm cu li lắm và biết đâu bữa nay công trường cũng kẹt nữa. Anh bảo vệ nhún vai:
- Chờ ông đội trưởng tới coi! Mướn mày mang tiếng chớ ích gì?
Nó phập phồng chờ ông đội trưởng. Chờ hoài sao ổng lâu tới vậy. Cai đã thúc thợ bắt tay làm. Không ai kêu thằng bé làm gì cả. Nhưng nó không đợi kêu. Vừa thấy chú thợ già hôm qua chuẩn bị đồ nghề, nó lập tức đi ôm gạch lại chỗ ông, nhúng nước cho ướt gạch, xúc hồ vào xô, xách tới để cạnh ông, rồi chăm chỉ tiếp gạch. Tuy nó nhỏ xíu, chưa thạo việc lắm, nhưng tháo vát và dễ bảo nên ông thợ già chịu cho nó phụ. Cuối ngày hôm đó, ông đã khoái nó tới mức hứa hẹn sẽ truyền nghề cho nó nếu nó muốn.
Sáng thứ bảy, nó đang làm thì ông đội trưởng xuất hiện. Ông chỉ mặt nó:
- Thằng này làm nổi không?
Nó vội vã gật đầu:
- Dạ nổi chứ! Con làm từ hôm kia, hôm qua mà!
Ông không nói gì thêm, bỏ đi:
Chiều thứ bảy. Thật là một buổi chiều trọng đại. Thầy thợ làm xong việc, thong thả rửa mặt mũi tai chân, ngồi hút thuốc lá, nói chuyện tầm phào chờ ông đội trưởng. Ông đã đi lên công ty lãnh tiễn tạm ứng để trả lương công nhân. Mọi người tuy không tỏ ra sốt ruột nhưng cũng ngong ngóng bóng hình ông đội trưởng. Cũng có khi công ty đang kẹt tiền, hay bản chiết tính của đội có trục trặc gì đó, thì sẽ không có tiền. Ông đội trưởng sẽ đến rất trễ để những công nhân không kiên nhẫn bỏ về bớt, và ông đeo một bộ mặt bí xị khất nợ với những kẻ kiên trì đến thứ hai, thứ ba...
Nghe tới tình huống này, tim thằng bé thắt lại. Chẳng lẽ nào? Bao nhiêu đợi chờ, bao nhiêu lo lắng của nó, suốt ba ngày nay. Liệu nó có được trả lương không? Trả bao nhiêu? Trả mấy ngày công? Hôm thứ sáu ông đội trưởng không có mặt ở công trường, đâu có thấy nó làm việc. Hôm nay ông cũng không nói rõ ràng là ông chấm công nó. Tất cả lo lắng đó, nó chỉ còn cách nhẫn nại chờ ông đội trưởng tới phút phát lương mới biết. Nếu mà... Tim thằng bé suýt vỡ ra. Nó như ngồi trên lửa bỏng vạc dầu, nhấp nha nhấp nhổm ngóng ra đường:
- A! Ông đội trưởng về!
Thằng bé hét to lên, mừng vui đến nỗi những người khác phì cười. Ông đội trưởng dựng xe, ôm cái túi da căng phồng vào lán bảo vệ. Ông giở sổ chấm công ra, dò theo danh sách, đếm ngày công của từng người, đếm tiền rồi trao cho họ. Ông cứ theo thứ tự trong sổ chấm công mà phát. Cuối cùng, hết danh sách. Thằng bé không có tên trong sổ chấm công! Nó đứng thập thò nhìn ông đội trưởng, mặt tái đi, tay chân lạnh ngắt. Chờ cho người cu li cuối cùng ra về, ông mới làm như chợt thấy thằng bé:
- Thằng kia, lại biểu!
Nó lật đật chạy lại, ngước đôi mắt trẻ thơ đầy lo âu nhìn ông đội
trưởng. Ông cầm một cọc tiền giấy một ngàn, hỏi:
- Mày làm mấy ngày?
- Dạ ba ngày: thứ năm, thứ sáu, thứ bảy.
Ông đếm tiền, một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín. Ông ngừng lại, hỏi:
- Ba mày làm gì?
- Dạ, ba con chết hồi năm ngoái rồi.
Ông nhìn nó một chút, đếm tiếp mười, mười một, mười hai.
- Má mày làm gì?
- Dạ, má con mua bán ve chai.
- Mày có đi học không?
- Dạ có.
- Vậy ráng mà học. Chứ làm cu li biết cực chưa?
- Dạ, con chịu cực được mà.
Ông đếm tiếp: mười ba, mười bốn, mười lăm.
Ông toan đếm nữa nhưng đắn đo một chút, hỏi:
- Má mày có đánh đề, đánh bài không?
- Dạ, không.
Ông đếm nốt: mười sáu, mười bảy, mười tám. Ông đưa tiền cho thằng
bé:
Thằng bé cầm mười tám tờ giấy bạc mà ngón tay run bần bật. Nó chưa từng cầm trong tay một số tiền lớn như vậy. Mà lại là tiền chính nó làm ra, bằng ba ngày quần quật ngoài trời nắng, bằng sự cố gắng vượt quá sức trẻ em. Má nó cũng xúc động đến rơi nước mắt khi nó đưa tiền cho bà. Bà đếm đi đếm lại, lộn tới lộn lui, nó phải cầm từng tờ đếm cho má nó coi. Bà gói vào một tờ giấy dầu, đem dấu sau ảnh thờ của ba nó:
- Má cất ở đây cho con, để tựu trường có mà đi học với con người ta.
Đêm đó thằng bé ngủ vùi trong tay má. Má nó bồi hồi thao thức mãi,
thỉnh thoảng bà lại vuốt mái tóc khét nắng của con.
Có thể nửa thế kỷ sau, có một tỉ phú hay một nhà bác học để lại
tiểu sử như vầy: Mười hai tuổi, tôi đi làm cu li để có tiền ăn học... Nhưng
hiện giờ, dưới một mái tranh ở vùng ven, có một đứa bé gầy gò, đen thui vì nắng
gió, trong giấc ngủ say nhọc nhằn đang mơ rằng ngày khai trường, em sẽ đến lớp
với đồng phục tươm tất như mọi học sinh, và không ngay ngáy lo lắng cô chủ
nhiệm sẽ phiền trách vì không đóng nổi các thứ tiền tập vở, tiền thuê sách,
tiền bảo trợ, tiền sửa trường ốc, tiền hội phụ huynh và đủ thứ tiền gì gì
nữa.....
Nguồn: Talawas
Sunday, December 22, 2024
Mùa Noel Kỷ Niệm - Đỗ Công Luận
Lời tác giả:
Xin chia sẻ lại bài viết từ
tháng 12/2010. Khi ấy tôi mới làm quen với IT.
Một kỷ niệm không thể nào phai. Đã
52 năm. Khi ấy tôi 21 tuổi.
Xin cảm ơn mọi người đã đọc và thông
cảm. Trân quý...
Chiều tối qua, tôi lấy xe máy chở cháu ngoại dạo một vòng quanh phố chợ Biên Hòa. Những ngày cuối năm, trời mau sụp tối. Phố đã lên đèn. Công viên bờ sông Đồng Nai bắt đầu nhộn nhịp. Từng đôi chầm chập thả bộ dọc theo công viên. Trên ghế đá từng cặp nam nữ đang chụm đầu vào nhau. Trên xe máy họ đang nói chuyện với nhau bằng ngôn ngữ đôi tay. Họ đang yêu nhau. Gió sông lành lạnh thổi lên. Xa xa, những chùm dây điện giăng giăng, chớp nháy những hình tượng ngôi sao, cây thông giáng sinh nhiều màu rực rỡ. Ngày Chúa giáng sinh sắp cận kề. Mùa noel kỷ niệm 1972 lại hiện về trong tâm trí của tôi.
Những ngày cuối tháng 11/1972, các khóa SVSQ chúng tôi đi chiến dịch tuyên truyền về cuộc ngừng bắn sắp diễn ra. Tôi công tác ở xã Thới An Đông, Cần Thơ, cùng với Nguyễn Văn Ly, chuẩn uý Nguyễn Văn Á. Sau này còn có Trần Thanh Nguyên tăng cường. Thới An Đông là một xã nửa quê, nửa chợ. Sông Trà Nóc chảy bọc quanh xã, rồi đổ ra sông Hậu. Tỉnh lộ 72, quốc lộ 91 bây giờ, chạy cắt ngang qua và kéo dài đến tận Châu Đốc. Bên kia sông là phi trường quân sự Trà Nóc. Trụ sở xã nằm cặp theo sông, cách cầu Trà Nóc hơn 1 cây số.
Bác gái tôi quê ở Trà Ôn. Em rể bác, gia đình chúng tôi gọi là dượng ba. Những ngày đầu tháng 12, dượng ba lên Biên Hoà để thăm chị vợ và các cháu . Hôm trước ngày về quê, dượng ba có đến thăm ba má tôi.
- Tôi ở chơi một hai hôm nữa rồi về. Nghe nói anh chị ba định đi thăm cháu Luận. Sẵn tiện, anh chị theo tôi đến Cần Thơ. Tôi chỉ đường cho anh chị lên Trà Nóc. Sau đó tôi ra bến Ninh Kiều đón tàu đò về Trà Ôn.
Ba tôi thấy thuận tiện nên đồng ý, vì từ đó đến giờ ông chưa lần nào đi miền Tây. Ở nhà khởi hành khoảng 4-5 giờ sáng. Đến trưa ba tôi đã có mặt ở trụ sở xã. Vì đã có điện báo trước, khi đi công tác về, tôi vội chạy qua để gặp cha mình. Bốn anh em chúng tôi ở bên Cuộc cảnh sát quốc gia, gần phòng máy. Tình hình các xã xung quanh có diễn biến gì chúng tôi đều nắm được. Sau một đêm hàn uyên, sáng hôm sau tôi đưa cha mình ra lộ để đón xe lên Cần Thơ, rồi về Biên Hoà. Hôm đó ở tỉnh Cần Thơ có tổ chức mít-tinh, đường xá nhộn nhịp hẳn lên. Trước khi chia tay, tôi cầm lấy tay cha và căn dặn :
- Khoảng 20, 21 tây, ba nói với mấy em đánh điện tín để con xin phép về thăm gia đình.
Thật sự là tôi muốn có phép để về chung vui với bạn bè ở Biên Hòa .
Chiều 22/12 khi đi công tác ở ấp về, anh văn thư xã qua trao bức điện tín cho tôi.
- BA BỊ TAI NẠN XE CỘ. GÃY CHÂN. NẶNG. XIN VỀ PHÉP.
Đọc xong nội dung, tôi hơi bàng hoàng. Có lẽ vì muốn có ép phê, nên em gái tôi mới viết như vậy .
Sáng 23/12/1972, sau khi tờ đơn được
trình qua xã và chuẩn uý Á, tôi đáp xe đò lên quận để xin phép. Phải theo hệ
thống quân giai. Chi khu cách xã hơn 10 cây số, về hướng Thốt Nốt. Hồi trước là
quận Phong Phú, bây giờ là quận Ô Môn. Đến chiều, chi khu trưởng mới duyệt đơn
cho tôi. Hồi đó, tôi quên là ngày 24-12, đêm noel, nhằm vào chủ nhật. Ngày chủ
nhật được nghỉ, về tỉnh chơi, tôi mặc quân phục chỉnh tề, đem theo tờ đơn để
trình ký luôn. Nếu có phép trong ngày thì sẽ có một đêm noel vui vẻ. Nếu không,
ngày thứ hai về cũng được.
Khoảng 9 giờ sáng, tôi vào tiểu khu, đến phòng văn thư. Đón tôi là một viên thượng sĩ già. Sau khi đọc xong hồ sơ, ông nhìn tôi và mỉm cười.
- Chuẩn uý đến hơi trễ một chút. Đại tá đã đi ra ngoài bằng xe jeep. Tờ đơn của chuẩn úy tôi đặt ở bàn làm việc. Nếu đại tá về, ký xong tôi đưa cho chuẩn úy về kịp tối nay.
Ông ta hiểu ẩn ý của tôi. Lúc đó tôi cảm thấy thời gian sao lâu quá. Ngồi lên ngồi xuống, đi tới đi lui. Hết giờ làm việc buổi sáng. Tôi thả bộ ra bến Ninh Kiều, gặm một ổ bánh mì, uống ly trà đá để rồi vào chờ đợi tiếp. Khoảng 3 giờ chiều, viên thượng sĩ ra gặp tôi với nét mặt hân hoan.
- Đại tá đã duyệt đơn của ông xong rồi đó. Tôi đánh máy tờ phép, ổng ký, vào sổ, là chuẩn uý sẽ về kịp.
Còn gì vui sướng cho bằng. 4 giờ
chiều tôi qua phà, lên bờ Vĩnh Long, đón xe tốc hành thẳng tiến về Sài Gòn.
Không hiểu sau lúc đó tôi lì lợm quá. Dường như có cái gì thôi thúc. Trên xe
tôi vẫn mặc nguyên bộ quân phục. Đoạn đường từ Cái Bè đến Cai Lậy, chiều tối VC
thường ra chặn xe đò, sau khi thiết vận xa M113 của SĐ 7 nằm án ngữ đã rút về
căn cứ.
Hơn 8 giờ tối, xe đò về đến bến xe Miền Tây. Tôi đón xe buýt vào thành phố, nhà thờ ngã sáu Chợ Lớn người ta đã bắt đầu đi lễ . Giờ đó xe đò Liên Hiệp không còn. Tôi phải đến bến xe Nguyễn Hoàng, đường Trần Phú bây giờ, để đón xe lô về Biên Hoà. Xe chạy theo hướng xa lộ, đến ngã ba Tam Hiệp, qua Tân Mai, rồi bỏ khách ở cây xăng Sáu Sử Biên Hùng. Về đến đó khoảng 10 giờ đêm, tôi định đón xe người quen để về nhà.
- Anh Tuấn, cho em quá giang về nhà.
- Mày đi đâu mà giờ này còn ở đây?
- Em ở Cần Thơ mới về.
- Lên xe , tao chở về.
Anh Tuấn là người cùng xóm, đi lính không quân, là anh rể hụt của tôi. Bác hai tôi có người con gái thứ năm, tên Xuyến, cùng tuổi tôi. Mẹ tôi nói.
- Con Xuyến sinh ngày rằm tháng mười, mày sinh ngày ba mươi.
Cách đây 4 năm, mẹ tôi cũng mất vào ngày rằm tháng mười .
Chị ấy đẹp người đẹp nết, anh Tuấn mê mẩn tâm hồn. Khoảng 1970 cả gia đình bác tôi vào tu ở chùa Tam Bảo, suối Lồ Ồ. Anh ấy lỡ mộng yêu đương.
Xe vừa ra khỏi cầu Gành , hướng ngược lại phải chờ đèn đỏ. Tôi thấy một chiếc Toyota màu cà phê sữa. Tâm nhủi mày cầm lái đó sao?
- Anh Tuấn cho em xuống để đi chơi với mấy đứa bạn. Anh đừng nói với nhà em là em có về.
Trên xe còn có Tâm con, nó là sinh viên Sĩ Quan cảnh sát Thủ Đức, còn mặc nguyên bộ lễ phục. Nó không vào trường, mà ở lại ham vui với bạn bè. Có Nguyệt là em nó, em Thu, em Hằng. Tâm nhủi chở bọn tôi đi vòng lên mấy xứ đạo xem đèn. Dù đất nước đang chiến tranh, giáo dân đón mừng ngày Chúa giáng sinh long trọng và hoành tráng lắm. Các nhà thờ đều treo đèn sặc sỡ, có hình tượng Chúa cứu thế nằm trong máng cỏ. Sau đó nó đưa bọn tôi đến nhà bạn Chánh, có em gái tên Nga, nhà ở Hãng Dầu để dự tiệc. Cả gia đình này đang định cư ở Úc. Gần 2 giờ sáng, tôi theo Tâm nhủi về nhà ở Tân Vạn để ngủ.
Sáng sớm, em trai tôi đã đem xe máy đến chở tôi về. Vừa bước vào nhà, mẹ tôi đã la rầy, cằn nhằn.
- Mày biểu tụi nó đánh điện tín trù ba mày chết. Về đến Biên Hòa rồi còn không chịu về nhà. Bận bộ đồ lính đi khắp phố, bộ khoe hả?
Tôi lầm lũi vào nhà thay quần áo.
Chiều tối tôi ra ngồi trước hiên nhà. Nhà em sao vắng lặng quá, em đâu sao không thấy? Hiểu ý anh trai, em gái tôi ra gợi chuyện.
- Anh biết chuyện gì chưa?
- Anh mới về nhà, có biết gì đâu?
- Hôm kia, 23/12, đám hỏi chị Liên
đó.
Tôi nghe như sét đánh ngang tai, đầu óc quay cuồng.
- Thôi anh đừng buồn chị ấy. Ba chị đã mất, má chị cũng lâm bệnh. Chị là con út , chị vâng lời mẹ lấy chồng, để má chị có bề gì cũng toại nguyện. Phía chồng chị ấy cũng khá lắm.
Mấy mùa thi cử, để giảm stress,
khuya tối tôi thường ra trước hiên nhà nhìn sang, rồi qua nói chuyện bâng quơ.
Mắt đã trao nhưng tình chưa dám ngỏ. Rồi tôi vào Thủ Đức,chờ ngày ra đơn vị sẽ
đặt vấn đề.Bây giờ ván đã đóng thuyền.
Tối hôm sau tôi cùng bạn bè đến cà-phê Tuyệt uống cà- phê, nghe nhạc . Từ dàn máy A Kai, giọng ca Lệ Thu trầm buồn cất lên bài RU CON TÌNH CŨ. Tôi đặt điếu thuốc lên môi, bật lửa .
- Mày nay cũng hút thuốc sao?
- Buồn.
Tôi kể cho bạn bè nghe. Tất cả đều im lặng. Không ồn ào huyên náo như những lần về phép trước. Hôm sau, tôi trở lại Thới An Đông. Gặp tôi, Ly nói chuyện vồn vả.
- Hôm thứ hai, đội văn nghệ xã đi dự hội thi ở Cần Thơ . Có cả đài truyền hình đến ghi hình. Đội của mình đoạt giải nhất.
Dù có đoạt giải đặc biệt tôi cũng không cần biết đến.
Rồi bọn tôi trở lại quân trường ,
chờ ngày ngừng bắn . Hy vọng sẽ xuất ngũ để trở lại giảng đường. Rồi gần Tết,
em sang sông.
Thuyền hoa một chuyến em rời bến.
Ta đứng nhìn theo đến não lòng.
Mười hai bến nước sông sâu cạn.
Đưa em về bến đục hay trong?
Rồi tôi ra đơn vị. Những tháng ngày
gian khổ hiểm nguy rình rập. Lúc suy tư tôi nghĩ về em. Những bài thơ lần lượt
ra đời, nhờ quân bưu chuyển đến báo Tiền Tuyến , Bút Thép.
Tôi có người anh họ có sạp báo lớn ở ngã tư Chợ Đồn. Một tối nọ, anh cầm tờ báo đến đưa cho mấy đứa em tôi xem.
- Bài thì đề tựa về Chợ Đồn, dưới ký
tên người đất Vĩnh, lại gửi tặng Liên. Nó chứ ai .
Ta về phố Chợ Đồn xưa.
Tay đong nước mắt cho vừa nhớ
thương.
Từ ta đánh vỡ thiên đường.
Trái si mê rụng, nghe vương vấn sầu.
Em về khoác áo cô dâu.
Mình ta đếm bước qua cầu đắng cay.
Mây trên đỉnh núi còn bay.
Nghìn năm ta vẫn mơ hoài dáng Liên.
Ta xa phố thị hoa đèn.
Tay ôm thép súng lên miền đảo hoang.
Ở đây gió núi trăng ngàn.
Đêm ru nỗi nhớ, đốt vàng tuổi ta.
Em về ngủ giữa tay người.
Se sua màu áo cho đời lên cao.
Ta nghe hồn bỗng xôn xao.
Ân tình xưa cũ tiêu dao tháng ngày.
Ta ôm mộng giữa tầm tay.
Mộng đời tan vỡ ta say say buồn.
Trời thu lá đổ muôn phương.
Đêm ta quét lá dọn đường em đi.
Bây giờ còn lại những gì.
Ngày mai em đã vu quy theo chồng.
Em vui bên xác pháo hồng.
Ta ôm nước mắt đi rong giữa đời.
Giờ xin trả lại cho người.
Bờ mi, ánh mắt, tiếng cười ngày xưa.
Ta đi giữa cuộc gió mưa.
Đan tay nỗi nhớ, phân bua cuộc tình.
Ta bên một túi thơ đầy.
Nửa bi-đông rượu để say quên đời.
Trong ta máu đỏ ngừng trôi.
Rượu say, say tỉnh nghe đời ngã
nghiêng.
Tay trăm nhánh mọc ưu phiền.
Đong đưa nỗi nhớ lên triền lũng cao.
Bây giờ tình ái xanh xao.
Tay đan nước mắt, ta đào mộ ta.
Những bài thơ lần lượt được em gái tôi cắt lại để vào hộc tủ. Tết năm sau, em đã ngồi tựa cửa ôm con. Rồi ngày 21/4/75, tôi lập gia đình. Rồi vào tù. Rồi ra trại. Em gái tôi trao lại cho tôi những bài thơ, giấy đã úa màu .
- Anh giữ làm kỷ niệm.
Tôi lựa ra 3 bài nói về em, cất
trong ngăn bóp. Em đã tay mang tay dắt. Gặp tôi em hỏi chuyện. Tôi hỏi thăm về
anh Nghĩa, anh trai của em, bạn chung thời tiểu học. Chào hỏi vài câu, tôi cáo
từ. Tôi không muốn hạnh phúc gia đình em đổ vỡ. Tôi không muốn gia đình tôi bất
hòa.
Có lần tôi đi Chợ Lớn lấy hàng hoá về bán, nhà hết cơm. Vợ tôi kêu con gái lại bảo.
- Con lấy tô, lên má Liên mua tô bánh canh. Nhớ nói là cho ổng ăn... nhe.... nhe ...
Tôi cười. Vợ tôi cười. Con tôi cũng cười. Cả nhà ta vui vẻ.
Rồi ngày tháng dần trôi, cháu ngoại
em nay đã vào lớp 9. Cháu ngoại tôi cũng chuẩn bị vào lớp 1. Gặp tôi, em nở nụ
cười và gật đầu chào. Tôi đáp lại. Gặp nhau chẳng biết nói năng gì ? Tôi định
chép lại những bài thơ để tặng em. Chắc ngày xưa em có đọc, nhưng bây giờ không
còn nhớ. Nếu em có địa chỉ email thì hay quá.
Riêng tôi , tôi đã thuộc lòng từ 38 năm qua. Mỗi ngày qua là một kỷ niệm.
Kỷ niệm ơi! Mi mãi theo ta đến hết
cuộc đời. Em bây giờ có còn ngồi tựa cửa ru con ?
BA NĂM QUA EM TRỞ THÀNH THIẾU PHỤ.
NGỒI RU CON NHƯ RU TÌNH SẦU.
XIN MỘT ĐỜI NGỦ YÊN DĨ VÃNG.
XIN MỘT ĐỜI TA MÃI YÊU NHAU.
XIN ĐỪNG BUỒN EM NỮA ANH ƠI !
(Ru con tình cũ)
Viết đến đây, xúc động quá, tôi
không thể viết tiếp.
Máy hát nhà ai vang lên bài Giáng Sinh buồn.
Viết cho mùa noel kỷ niệm 1972.
Biên Hòa, tháng 12/2010.
Đỗ công Luận, CHS K.08.NQ.