Thật không dễ để nói hết những cảm xúc của mình khi nhớ về một
thời, bỗng dưng cuộc đời trở thành “bể dâu”, và cũng khó để diễn tả được tâm trạng
sung sướng như thế nào khi đang sống trong cảnh nghèo hèn, bỗng nhiên trở nên
giàu có còn hơn cả trúng số độc đắc.
Cuộc đời “dâu bể”, lúc tôi mới 15 tuổi với
sáu đứa em nheo nhóc mà đứa út chưa tới một tuổi. Chưa đầy một năm, sau ngày
30/4/1975, chúng tôi như bầy chim non đang chập chững, rạn rỡ tươi sáng thì bỗng
nhiên mẹ chết, cha bị bắt. Đang ở nơi thành thị đầy đủ tiện nghi, phút chốc
chúng tôi bị ném vào giữa rừng sâu, trên núi cao làm láng giềng với những người
dân tộc thiểu số. Tôi không nhớ rõ hết cảm xúc của tôi lúc đó là gì, chỉ biết
tuổi thơ ấu, thời vui vầy của chúng tôi đã chấm dứt.
Khi cha đi tù, mẹ con chúng tôi bị đi “kinh tế
mới” và chỉ mấy tháng sau mẹ chúng tôi chết vì bị bệnh sốt rét cấp tính. Đúng
là “mồ côi mẹ lót lá mà nằm”. Tuy còn cha nhưng cũng “như nhà không có nóc, như
con nòng nọc đứt đuôi”. Còn cha, nhưng không “gót đỏ như son” mà “gót con đen
sì”. Anh em chúng tôi lúc ấy chịu chung cảnh “Nước mất, nhà tan”, khốn khổ cùng
bao người.
Sau một thời gian khóc mẹ, nhớ cha, tiếc
thương những ngày đầm ấm đã mất, anh em chúng tôi cũng phải đào bới kiếm miếng
ăn để tồn tại. Chúng tôi đành chấp nhận hoàn cảnh, không còn sợ hãi và không
còn khóc mỗi đêm dưới ngọn đèn dầu leo lét, trong túp lều tranh giữa rừng già.
Dù mùa hè nắng chói chang hay mùa đông gió
rét căm căm, chúng tôi cũng phải phơi mình dưới trời để làm rẫy hay đi rừng.
Chúng tôi chặt củi, chặt lồ ô, chẻ thành hom đem xuống các làng bán lấy tiền
mua thực phẩm. Thời gian đầu, vì chưa quen nên tay anh em chúng tôi bị bọng nước,
bị cắt khứa chằng chịt. Vết thương cương mủ, làm độc đau đến nổi các ngón tay
không co vào được. Không cầm được chén đũa, chúng tôi phải kẹp chén vào giữa
hai bàn tay, ngửa mặt lên trời mà húp thức ăn.
Nhờ có đói khổ, chúng tôi mới biết sung sướng
khi tìm được những thứ có thể ăn được ở trong rừng, thấy hạnh phúc như thế nào
khi cầm những củ khoai, củ mì do tự tay mình trồng ra.
Vì tuổi còn nhỏ và bận kiếm thức ăn, áo mặc
nên anh em chúng tôi không có nhiều thời gian để nghĩ cuộc sống của mình đau khổ
như thế nào và xem đó là chuyện bình thường. Nhưng những hôm bị bệnh sốt rét, nằm
bẹp dí trong căn lều tranh hiu quạnh, tôi mới có thời gian suy ngẫm hoàn cảnh của
anh em mình.
Sáng sớm trời lạnh, tôi nằm lặng nhìn ra màn
sương mù bao trùm khắp nơi. Nhìn các em thức dậy, đi làm vệ sinh, mặc những bộ
áo quần rách vào người, nhét mấy lát mì khô luộc, nắm bắp rang vào trong túi rồi
vác dao rựa lên vai, đi vào rừng. Nhìn bóng dáng bé nhỏ các em lẫn vào màn
sương trông thật tội nghiệp. Khi ấy tôi thấy thương cho mình và các em phải sống
thiếu thốn, chịu khổ cực đến như vậy.
Sau khi nôn ra cả mật xanh, mật vàng, thân thể
mệt mỏi rả rời, nước mắt tôi chợt chảy ra, tôi nghĩ thà anh em tôi sinh ra và lớn
lên ở vùng rừng núi này thì cũng đành và đỡ băn khoăn nghĩ ngợi hơn về cuộc đời
của mình. Trong khi tuổi thanh xuân của chúng tôi phải sống với những gian khổ
và sự thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần trên vùng rừng núi hoang vu này thì
chúng tôi biết ở một nơi nào đó, vẫn có những người thật là may mắn, có cuộc sống
đầy đủ tiện nghi, sung sướng hơn rất nhiều so với mình ở đây.
Bệnh sốt rét làm lạnh đến nỗi dù đắp bao
nhiêu là mền mà cũng không thể nào dừng người bớt run lên, răng bớt lập cập.
Rồi nhiệt độ tăng cao, đến cơn nóng sốt, mồ hôi đổ ròng ròng. Sau cơn sốt lạnh
nóng, người thấy dễ chịu hơn và tôi rơi vào cơn ngủ chập chờn với những giấc mơ
huyễn hoặc.
Sau cơn sốt tôi trở dậy ăn uống, rồi đi làm lại
bình thường, nhưng nỗi buồn và những suy nghĩ khi bị bệnh vẫn còn ở lại trong đầu.
Sau gần 20 năm sống dưới chế độ Cộng sản, rồi
điều may mắn, hạnh phúc trong cuộc sống đã đến với chúng tôi là được đi Mỹ, nhờ
những năm tháng tù tội của cha. Ngày đi, mỗi người chúng tôi chỉ có vài bộ quần
áo sờn rách làm hành trang để đi từ vùng “kinh tế mới” hoang dã đến một thế giới
văn minh tiến bộ bậc nhất thế giới. Vì sao tôi viết, đang sống nghèo hèn bỗng
nhiên trở nên giàu có còn hơn cả trúng số độc đắc? Bởi trúng số độc đắc mình chỉ
có tiền, còn chúng tôi bỗng dưng được sống ở Mỹ, giàu cả vật chất và tinh thần.
Bây giờ ở Mỹ đã hơn 20 năm, nhưng khi nghe
hay xem một bản nhạc được ghi nổi tiếng từ tháng năm nào, tôi thường nghĩ, năm
đó mình đang ở đâu và đời mình như thế nào. Mỗi khi cầm viên thuốc hoặc chén
cơm trắng lên, tôi lại nhớ đến hạt gạo khó kiếm và viên thuốc quý giá như thế
nào khi còn sống vùng “kinh tế mới” ở Việt Nam.
Đôi lúc những kỷ niệm đau khổ hay hạnh phúc
tưởng chừng đã rất xa xưa, bỗng dưng quay về, khơi gợi lại nhiều nỗi niềm buồn
vui trong lòng tôi. Tôi muốn viết ra, lưu lại phần nào những ký ức, những suy
nghĩ và cũng muốn được chia sẻ để cảm thấy ấm áp nếu có người đồng cảm với
mình.
Tuy có nghĩ là sẽ không ai quan tâm các kỷ niệm
của riêng mình, nhưng vì muốn mở rộng trái tim ra khỏi không gian riêng của
mình và cũng để lưu lại phần nào những ký ức cho chính bản thân, nên tôi mạnh dạn
viết ra. Như tôi đã viết trong một bài trước, “đa số những kỷ niệm của tôi ở Việt
Nam là những kỷ niệm buồn, còn những kỷ niệm trên đất Mỹ thì ngược lại. Mặc dầu
vậy, tôi lại thường nhớ đến những kỷ niệm ở Việt Nam hơn, có lẽ chúng đã có đủ
thời gian để thấm nhập, bám chặt vào ký ức của tôi”, nay tôi xin kể thêm một kỷ
niệm đã bám chặt vào ký ức của tôi.
Từ ngày nơi nơi đều vào hợp tác xã nông nghiệp,
đến mùa gặt, anh em chúng tôi được dịp đi mót lúa. Trời mờ mờ sáng, cầm vài lát
sắn khô luộc, ôm thúng rỗ tre, anh em chúng tôi đi hàng mấy cây số, xuống những
cánh đồng của các hợp tác xã để mót lúa.
Không phải ngày mùa gặt lúa nào cũng như
trong sách, nào ngày mới nắng lên rực rỡ, đồng lúa trĩu hạt vàng tươi, người gặt
kẻ đập hát cười vang cả cánh đồng... nhưng thực tế có nhiều ngày gặt thật buồn
thãm, bầu trời xám xịt, gió hây lạnh, mùa màng thất bát, đồng lúa hạt vàng chen
nhiều hạt trắng. Anh em chúng tôi và nhiều người mót lúa, chẳng ai nghe thấy tiếng
cười hát ở đâu. Mọi người cúi gầm mặt xuống tìm nhặt những bông lúa sót lại
trên mặt ruộng đã gặt xong, mắt dáo dát trông chừng kiểm soát viên của hợp tác
xã.
Vì các ban quản trị hợp tác xã không muốn sai
chính sách, không muốn bộ mặt “ Ăn nên làm ra ” của hợp tác xã bị hoen mờ bởi
những con mót và cũng để dành lúa rơi rớt nuôi đàn vịt của hợp tác xã nên họ cấm
mót lúa. Hợp tác xã ra lịnh nếu xã viên hay con em xã viên đi mót lúa bị bắt
thì một phạt thành mười, sẽ trừ vào công điểm nên nhiều người ở hợp tác xã này
đi qua hợp tác xã khác mót lúa vì khi bị bắt chỉ bị tịch thu lúa chứ không bị
trừ công điểm. Ngược lại, ban quản trị hợp tác xã khuyến khích kiểm soát viên
nào bắt được con mót thì một thưởng thành mười, nên các kiểm soát rất tích cực
trong việc rình mò, rượt bắt bọn con mót chúng tôi.
Chúng tôi phải chạy đua bì bõm trên ruộng
sình lầy dành ăn với đàn vịt, chậm chân để đàn vịt đi qua trước thì một hạt
cũng không còn chứ đừng nói gì một nhánh lúa rơi. Chúng tôi cắp rổ bên hông, chạy
trốn mấy kiểm soát viên đang la hét vang khắp cánh đồng. Trên đồng trống, chúng
tôi luôn giữ một khoãng cách an toàn với kiểm soát viên. Như mèo với chuột, nếu
họ đi từ từ tới, chúng tôi lui từ từ, nếu họ rượt chúng tôi chạy. Con mót thì
đông, kiểm soát viên chỉ vài người nên người nào xui lắm mới bị họ bắt.
Chiều đến, khi tất cả xã viên gặt lúa đã ra về
hết, dù lạnh cóng anh em chúng tôi vẫn tha thẩn như những cái bóng trên cánh đồng,
tìm bắt ốc bưu, hái rau dại trên bùn lầy đầy dấu chân. Khi không còn nhìn thấy
bàn tay, bàn chân, chúng tôi mới băng đồng về để tránh những kiểm soát viên
rình rập, núp trong các bụi rậm trên đường đi. Chúng tôi đã từng bị rình bắt
như vậy, tha hồ khóc lóc, xin xỏ mà vẫn bị tịch thu cả thúng lẫn lúa.
Sau nhiều ngày mót lúa, chúng tôi đạp lúa,
sàn sẩy, phơi khô cũng được hơn chục ký lúa. Năm nào cũng vậy, ngày đầu giã gạo
nấu cơm, chúng tôi tạm quên thói hà tiện, nấu một nồi cơm không độn một thứ gì,
chúng tôi gọi đó “cơm tinh”. Thời ngăn sông cấm chợ, cả năm chỉ ăn rau lá,
khoai sắn dính vài hạt cơm mà cũng không có đủ, nay tay bưng chén cơm nóng trắng
muốt, anh em tôi mhìn nhau, không thể tả hết được cảm xúc lúc ấy. Từng hạt, từng
nhánh lúa rơi vương vãi trên ruộng đồng, góp nhặt thành chén cơm trắng tinh.
Mùi cơm nóng bốc lên mũi đánh tan mùi bùn lầy, mùi tanh của máu bị đỉa cắn, xóa
đi hình ảnh những ngày lạnh lẽo chạy lúp xúp trên cánh đồng. Ăn hạt cơm mềm, thật
ngon, dù ăn với nước mắm nấu lại, loại nước mắm từ ba muỗng nước mắm nấu với một
lít nước lạnh, vài giọt nước màu và nữa chén muối hột. Một năm chúng tôi chỉ có
vài lần được ăn chén cơm không độn một thứ gì như vậy mà thôi.
Ở Mỹ, anh em chúng tôi vẫn giữ truyền thống
gia đình như khi cha còn sống là gặp nhau trong những ngày lễ của gia đình,
cũng như những ngày lễ lớn của nước Mỹ. Vì mỗi người đều có những công việc
riêng, dành nhiều thời gian làm việc để có cuộc sống ổn định và cũng vì có vài
người em lấy chồng, cưới vợ ở xa nên việc gặp nhau đầy đủ trong những ngày lễ
là một điều khó khăn.
Ngay cả một gia đình nhỏ muốn ngồi ăn chung với
nhau cũng không dễ, vì cả vợ lẫn chồng đều phải đi làm, mà hãng xưởng lại cách
xa nhau, thời gian làm thì chênh lệch, còn con cái cũng phải đi học, đi làm
thêm... Thường thì cả gia đình chỉ có thể ngồi quây quần bên mâm cơm trong dịp
cuối tuần hay những ngày lễ lớn được nghỉ làm việc.
Tuy khó khăn để có những buổi họp mặt với
nhau như vậy, nhưng anh em chúng tôi vẫn cố gắng thực hiện những buổi sum vầy
bên nhau, để anh em, con cháu được gắn kết tình thân ái với nhau hơn. Trong những
bữa cơm gia đình đó, chúng tôi chia sẻ với nhau những sung sướng, vất vả, vướng
mắc của mỗi người ở trên đất Mỹ này và ôn lại những năm tháng khó khăn trong cuộc
đời của mình ở Việt Nam.
Chúng tôi rất trân trọng từng giây phút bên
nhau. Chúng tôi dùng thời gian sum họp, quây quần ăn uống bên nhau để hồi tưởng
lại những tháng ngày quá khứ khổ cực, để nhắc nhở nhau biết trân quý cuộc sống
tương đối ổn định, no ấm mà mình đang có. Nhất là để con cháu sinh ra ở đây,
nay lớn lên, đang học, đã ra trường đi làm hay đang phục vụ trong quân đội, biết
đất nước này đã cưu mang, giúp đỡ gia đình mình từ những ngày mới nhập cư như
thế nào.
Chúng tôi thường hay kể lại với nhau về khoảng
thời gian nỗ lực học hành, cần cù làm việc của mình để có cuộc sống ổn định và
cũng nhắc lại thời kỳ đói khổ để thấy mình bây giờ đã giàu có như thế nào. Tôi
tự nhận mình giàu, vì tôi hài lòng với những gì mình đang có, vì tôi có cố gắng
kiếm bao nhiêu là tiền, nhưng không cảm thấy mình giàu thì mình vẫn nghèo.
Tôi tự tin cho rằng mình giàu có vì tôi đang
so sánh cuộc sống hiện tại của mình với những người nghèo về nhiều mặt, thiếu
thốn của cải vật chất cũng như tinh thần ở những nơi khác.
Chắc chẳng bao giờ tôi thấy hoặc cảm nhận được
sự đói khổ thực sự của người khác là như thế nào, nếu cuộc đời tôi chưa từng
cùng kiệt. Khi xem trên TV hay trên báo chí các hình ảnh những thân xác gầy ốm,
da bọc xương, đói rách dành nhau những miếng nhỏ thức ăn thì tôi có thể tưởng
tượng ra họ đói và sống khổ cực tới mức nào.
Vì tôi đã được nhiều ân nhân, những người
không sống dựa trên mối quan hệ giá trị vật chất, giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn
nên tôi không chỉ định giá giàu nghèo qua mỗi vật chất mà tôi còn định giá giữa
giàu và nghèo qua lòng nhân hậu và sự quảng đại. Chính các ân nhân, những người
sống với tình yêu thương giản dị, chân tình đã giúp tôi giữ được niềm hy vọng
trong lòng, nhờ đó mà tôi tự tin để vượt qua những khó khăn trong đời.
Cám ơn bài tự truyện chân thành của tác giã. Có hàng triệu người đã sống cảnh tang thương, đói khổ sau ngày 30/04/75 như gia đình của tác giã. Gia đình của chúng tôi cũng vậy. Bây giờ phần đông sống ở nước ngoài và có cuộc sống ổn định. Nhưng mỗi lần chúng tôi họp mặt, câu chuyện loanh quoanh rồi cũng nói tới những cảnh nghèo khi xưa của mình. Và nhờ như vậy, khi gặp nghịch cảnh, chỉ cần nhớ tới những ngày khốn khổ ở VN, khi bộ óc bị cái bao tử chi phối, thì tôi có đủ sức để vươn lên, chỉ cần tự an ủi : dầu sao hoàn cảnh cũng không tệ như lúc ở VN.
ReplyDelete