Nhớ, Nhớ Đến Từng Chi
Tiết Từ Cái Bước Chân Đầu Tiên Đặt Lên Đất Sài Thành, Nhớ Từng Ngõ Ngách, Từng
Nhân Vật Thuộc Về Quá Khứ Ấy Cho Đến Ngày Nay. Mặc Cho Sài Gòn Đã Có Nhiều Tang
Thương Dâu Biển, Từ Cái Tên Thành Phố Đến Những Con Đường Đã Thay Họ Đổi Tên,
Từ Con Người Đến Xã Hội Cho Đến Cả Cái Cách Sống Cũng Đã Khác Xưa Nhiều Lắm.
Bước chân đầu tiên
trên đất Sài Gòn
Thế mà 60 năm rồi đấy,
kể từ ngày tôi mới đặt chân lên thành phố Sài Gòn. Tôi nhớ như in, ngày đầu
tiên ấy. Cuối tháng 1 năm 1954, sau hai tháng học ở Trường Sĩ Quan Thủ Đức,
ngày thứ bảy chúng tôi được đi phép ở Sài Gòn. Niềm mơ ước của tôi từ những ngày
còn nhỏ ở trường trung học, ước gì có ngày mình được vào Sài Gòn. Niềm mơ ước
ấy còn rộn ràng hơn khi khóa học sĩ quan khai giảng.
Thủ Đức – Sài Gòn chỉ
có hơn 10 cây số, tuy chỉ cách thành phố rất gần nhưng theo đúng chương trình
khóa học, hai tháng sau chúng tôi mới được đi phép. Mấy anh “Bắc Kỳ” nôn nao
hỏi thăm mấy ông bạn “Nam Kỳ” về Sài Gòn, từ cái xe taxi nó ra sao, đi thế nào,
bởi hồi đó miền Bắc chưa hề có taxi, cho đến Chợ Lớn có những gì… Mấy ông bạn
Nam Kỳ tha hồ tán dóc. Đầu óc tôi cứ lơ mơ về cái chuyến đi phép này.
Rồi ngày đi phép cũng
đến, một nửa số sinh viên sĩ quan đi phép mặc bộ tenue sortie là ủi thẳng tắp,
áo bốn túi, chemise trắng tính, thắt cravate đen đàng hoàng, giầy đánh bóng lộn
có thể soi gương được. Vô phúc quên cái gì là bị phạt ở lại ngay. Nhưng hầu như
chưa có anh nào bị phạt. Đoàn xe GMC của trường chở chúng tôi chạy vèo vèo vào
thành phố. Ôi cái cửa ngõ vào thành phố hồi đó chưa có gì lộng lẫy mà chúng tôi
cũng mở to mắt ra nhìn. Đoàn xe “diễu” qua vài con phố rồi dừng lại trên đường
Hai Bà Trưng hồi đó còn gọi là đường Paul Blanchy, ngay phía sau Nhà Hát Lớn
Thành Phố mà sau này là Trụ Sở Hạ Nghị Viện VNCH.
Cú nhảy từ sàn xe GMC
xuống con đường Hai Bà Trưng là bước chân đầu tiên của tôi đến đất Sài Thành
hoa lệ. Ông Hồ Trung Hậu là dân miền Nam chính hiệu, ông đã hứa hướng dẫn tôi
đi chơi… cho khỏi “ngố”. Chúng tôi đi bộ vào con đường nhỏ bên hông Nhà Hát Thành
Phố và khách sạn Continental, vòng ra trước bùng binh Catinat – Lê Lợi (hồi đó
còn gọi là Boulevard Bonard) và Nhà hát thành phố. Nhìn mặt trước nhà hát thành
phố có mấy bức tượng bà đầm cứ tưởng… mình ở bên Tây. Lúc đó đã có nhà hàng
Givral rồi, nhưng tôi vẫn còn “kính nhi viễn chi” cái nhà hàng văn minh lịch sự
giữa thành phố lớn rộng đó, chưa dám mơ bước chân vào.
Ông Hậu vẫy một cái
taxi chở chúng tôi về nhà ông. Taxi hồi đó toàn là loại deux cheveaux, nhỏ hẹp
sơn hai màu xanh vàng. Khi bước lên xe, đồng hồ con số chỉ là 0, đi quãng nào
số tiền nhảy quãng đó, trong ngày đầu tiên, tôi ngu ngơ làm quen với không khí
Sài Gòn qua gia đình anh em ông Hậu. Hôm sau ông bạn tôi đi với bồ nên tôi bắt
đầu cuộc solo giữa thành phố xa lạ này. Tất cả sinh viên sĩ quan đều không được
đi xe buýt hay xích lô, phải đi taxi. Nhưng lệnh là lệnh, chúng tôi học các đàn
anh khóa trước, cởi áo bốn túi, bỏ cravate, cất cái nón đi là lại tha hồ vung
vẩy.
Trở thành người Sài
Gòn từ bao giờ
Nơi tôi đến đầu tiên
là Chợ Lớn. Một cuốc taxi từ giữa trung tâm thành phố đến cuối Chợ Lớn mất 12
đồng. Tôi tìm đến khách sạn rẻ tiền của mấy thằng bạn Bắc Kỳ ở đường Tản Đà,
một con phố nhỏ. Ba bốn thằng thuê chung một phòng cũng chẳng có “ông mã tà” nào
hỏi đến. Chợ Lớn hồi đó tấp nập hơn ở Sài Gòn, con phố Đồng Khánh chi chít
những khách sạn, hàng ăn, cửa tiệm tạp hóa lu bù tưởng như mua gì cũng có.
(Tấm biển Casino
Grande Monde – Sòng bạc Đại Thế Giới
Chúng tôi cũng biết
cách chui vào Kim Chung Đại Thế Giới xem thiên hạ đánh bạc. Hôm đó có anh
Nguyễn Trọng Bảo cùng Đại Đội tôi nhưng lớn hơn chúng tôi vài tuổi và là một
cặp với Nguyễn Năng Tế (lúc đó mới là người yêu của nữ diễn viên điện ảnh Kiều
Chinh). Anh thử đánh “tài xỉu”, may mắn làm sao, một lúc sau đó anh được khoảng
vài trăm ngàn. Thế là chúng tôi xúi anh “ăn non”, không chơi nữa, rủ nhau đi
ăn. Bắt đầu từ hôm đó chúng tôi đi “khám phá” Sài Gòn và rồi theo cùng năm
tháng trở thành người Sài Gòn lúc nào không biết. Càng có nhiều thăng trầm
chúng tôi càng gắn bó với Sài Gòn hơn.
Lần thứ hai trở lại
Sài Gòn
Tôi lại nhớ ngày trở
về Sài Gòn sau hơn 12 năm đi tù cải tạo từ Sơn La đến Vĩnh Phú rồi Hàm Tân. Đó
là vào buổi chiều tháng 9 năm 1987 khi đoàn xe thả tù cải tạo bị giữ lại nhà
giam Chí Hòa, nghe các ông quan chức trấn an về số phận chúng tôi khi được trở
về,
Khoảng hơn 5 giờ chiều
chúng tôi mới được thoát ra khỏi cánh cửa sắt nhà tù Chí Hòa. Ngay từ cổng trại
tù đã có đoàn quay phim đợi sẵn để quay cảnh “vui mừng đoàn tụ” của tù nhân,
chắc là để chứng tỏ cái sự “khoan hồng bác ái” của nhà nước cho những thằng may
mắn không chết trong ngục tù. Lại là lần thứ hai tôi đặt chân lên đất Sài Gòn
nhưng với tư cách khác giữa một thành phố đã đổi chủ, Thấy cái cảnh sẽ bị quay
phim, Trần Dạ Từ kéo tôi lên vỉa hè đi lẫn trong đám thân nhân được vận động ra
đón tù cùng những người dân tò mò nhình “cảnh lạ”. Tránh được cái máy quay
phim, chúng tôi đi gần như chạy ra khỏi con phố nhỏ này.
Ra đến đường Lê Văn
Duyệt, chúng tôi đi chậm lại, nhìn đường phố mà cứ thấy đường phố đang nhìn
chúng tôi với một vẻ xa lạ và xót thương? Trần Dạ Từ còn lại ít tiền, anh rủ
tôi ghé vào đường Hiền Vương ăn phở. Chẳng biết là bao nhiêu năm mới lại được
ăn tô phở Hiền Vương đây. Tôi chọn quán phở ngay sát cạnh tiệm cắt tóc Đàm mà
mấy chục năm tôi cùng nhiều bạn bè vẫn thường đến cắt tóc. Có lẽ Trần Dạ Từ
hiểu rằng anh về đoàn tụ cùng gia đình chứ còn tôi, vợ con đi hết, nhà cửa
chẳng còn, sẽ rất cô đơn, nên anh níu tôi lại. Ngồi ăn tô phở tưởng ngon mà
thấy đắng vì thật ra cho đến lúc đó tôi chưa biết sống ra sao giữa thành phố
này.
Ở tiệm phở bước ra,
chúng tôi đi bên nhau dưới ánh đèn chập choạng của con đường Duy Tân mà Phạm
Duy gọi là con đường Đại Học “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt.” Đến ngã
tư Phan Đình Phùng, tôi chia tay người bạn tù Trần Dạ Từ, đi lang thang trong cô
đơn, trong bóng tối của chính đời mình. Bây giờ tôi mới hiểu hết nghĩa của sự
cô đơn là thế nào. Tôi bắt đầu cuộc sống lưu lạc trên chính quê hương mình. Tôi
tìm về nhà ông anh rể đã từng nuôi nấng tôi suốt những năm tháng trong tù. Bắt
đầu từ đó tôi trở thành người Sài Gòn khác trước.
Và rồi với những cùng
khổ, những khó khăn, tôi đã tự mình đứng lên. Bởi tôi thấm thía rằng thằng bạn
đồng minh xỏ lá đã phản phé mình, lúc này không ai cứu mình cả, anh không vượt
qua nó, nó sẽ đè chết anh. Vì thế cho đến bây giờ sống giữa Sài Gòn, tôi phải là người Sài Gòn và mãi mãi sẽ là
người Sài Gòn. Làm được cái gì hay
chết bẹp dí là do mình thôi.
Tôi không lan man về
chuyện cũ tích xưa nữa, bởi nói tới những ngày tháng đó chẳng biết bao giờ mới
đủ. Cho đến hôm nay, 25 tháng 8 năm 2014, hơn 60 năm ở Sài Gòn, mọi người đang
xôn xao về những đổi thay lớn của Sài Gòn, tôi không thể ngồi yên. Tôi muốn
chính mắt mình được nhìn thấy những thay đổi ấy. Mặc dù qua 2 lần nằm bệnh viện
và với cái tuổi trên tám mươi, tôi đã mất sức nhiều, hầu như suốt ngày ngồi nhà
đã từ ba tháng nay.
Tôi điện thoại cho
Thanh Sài Gòn rủ anh đi thăm “cảnh cũ người xưa”. Chúng tôi vào phở Hòa, một
tiệm phở nổi tiếng từ trước năm 1975 cho đến nay. Con đường Pasteur đan kín xe
cộ, tiệm phở Hòa có vẻ tấp nập hơn xưa. Bạn khó có thể tìm lại một chút gì đó của
“muôn năm cũ”. Tô phở bị “Mỹ hóa” vì cái tô to chình ình và miếng thịt cũng to
tướng, có lẽ ông bà chủ đã học theo phong cách những tiệm phở Việt Nam ở Mỹ. Nó
“to khỏe” chứ không còn cái vẻ “thanh cảnh” như xưa nữa.
Đường Pasteur xưa
Sau đó, nơi tôi tìm đến đầu tiên chính là Thương Xá Tax. Vừa đến đầu hai con
đường gặp nhau Pasteur – Lê Lợi đã nhìn thấy một hàng rào bằng tôn chạy dài.
Đường Lê Lợi chỉ còn đủ một lối đi nhỏ dẫn đến Thương Xá Tax và công viên Lam
Sơn. Chiếc xe gắn máy len lỏi cho đến tận cuối đường Lê Lợi sát mép đường Tự
Do. Chúng tôi đứng trước cửa TX Tax đang bày ra cảnh vô cùng vắng vẻ, chỉ có
tôi và anh bảo vệ nhìn nhau. Anh thừa biết tôi đến đây để làm gì. Anh bảo vệ
cũng không còn làm cái nhiệm vụ cao quý là mở cửa đón khách, anh để mặc tôi tự
do đẩy cánh cửa kính nặng chịch đi vào trong khu thương mại.
Đèn đuốc vẫn thắp sáng choang, chiếc thang máy cuốn vẫn lặng lẽ chạy không một
bóng người. Nó mang một vẻ gì như người ta vẫn lặng lẽ theo sau một đám tang.
Trong quầy hàng đầu tiên, điều khiến tôi chú ý là hàng chữ nổi bật hàng đại hạ
giá (Big Sale) tới 70% đỏ loét chạy dài theo quầy hàng và hàng chữ “Tạm biệt
thương xá Tax”.
Thương xá Tax
Tôi cố gợi chuyện với cô chủ hàng xinh xắn: Cô phải đề là “Từ biệt thương xá
Tax mới đúng chứ, sao lại là Tạm Biệt?” Cô hàng trẻ đẹp thở dài ngao ngán: “Ấy
người ta còn hứa khi nào căn nhà 40 tầng làm xong sẽ cho chúng tôi được ưu tiên
thuê cửa hàng đấy.” Nhưng ngay sau đó cô lại lắc đầu: “Hứa là hứa chứ khi đó
mình không cổ cánh, đút lót thì đừng hòng bén mảng tới, ông có tin không?”
Bị hỏi ngược, tôi đâm lúng túng ấp úng nói lảng:
“Phải đợi tới lúc đó mới biết được.”Cô bán hàng quay đi, dường như cô chẳng tin
gì cả.
Các quầy hàng khác vẫn mở cửa, mỗi gian hàng chỉ còn lại vài ba người, chắc
toàn là những ông bà chủ. Tôi nghĩ họ đang làm công việc khác chứ không để bán
hàng. Có ai mua đâu mà bán. Tôi đến hỏi thăm vài ông bà chủ cửa hàng, không tìm
thấy bất cứ nụ cười nào trên những khuôn mặt buồn hiu ấy.
Có lẽ vài tuần nay, người đi tìm đồ hạ giá đã “khuân” đi khá nhiều rồi, lúc này
những thứ hàng còn lại không còn giá trị nữa. Tuy nhiên cửa hàng nào cũng còn
bề bộn hàng ế. Nhìn lên tầng lầu cũng vậy, nó còn vắng vẻ thê thảm hơn.
Tôi bước lên mấy bậc của bục gỗ, ghé vào một tiệm bán máy hình còn nguyên si
bởi ông chủ quyết không giảm giá. Tôi hỏi lý do, ông có vẻ liều:
– Thà ế chứ không giảm.
Tôi lại tò mò hỏi tiếp:
– Vậy là ông có một cửa hàng ở nơi khác nữa?
Ông lắc đầu:
– Không.
Tôi hỏi:
-Vậy ông sẽ làm gì?
Câu trả lời của ông cụt lủn:
– Về quê làm ruộng.
Tôi yên lặng trước sự bất bình đó. Đứng nhìn hàng loạt máy hình, máy quay phim
đủ loại còn nằm rất thứ tự trong tủ kính sáng bóng. Tôi lại hỏi:
– Chắc họ phải đền bù cho ông những thiệt hại này chứ?
– Chưa có xu nào cả. Thời hạn bắt di dời nhanh quá, trở tay không kịp.
Tôi nghĩ chắc ông này cũng chỉ là người đi thuê lại cửa hàng của một ông nhà
giàu nào đó mà thôi, ông có vẻ bất cần đời. Tôi từ giã, ông chỉ gật đầu nhẹ.
Nhìn sang hàng loạt cửa hàng vàng bạc đá quý gần như vẫn còn nằm nguyên vẹn và
không một bóng khách vãng lai. Các bà, các cô tha hồ nhìn nhau ăn cơm hộp. Tôi
có cảm tưởng một thành phố chết vì chiến tranh gần kề hay vì một nạn dịch nào
đó.
Vậy mà tôi vẫn còn đi vơ vẩn trong cái không gian như nghĩa trang sống đó. Tôi
đi tìm hình bóng của một thời dĩ vãng, nào vợ con, nào bè bạn, nào những người
xa lạ trong cái nhịp thở rộn ràng thân thiện của tất cả Sài Gòn xưa ở chốn này.
Chẳng bao giờ trở lại. Tôi
muốn gọi tên tất cả trong hoài niệm tận cùng sâu lắng.
Ngậm ngùi nhìn công viên Lam Sơn trống rỗng
Rồi tôi cũng phải bước ra. Trở về với thực tại, nhưng vẫn gặp cái vắng lặng của
vỉa hè chạy dài theo đại lộ Nguyễn Huệ. Dường như chỉ còn có Thanh Sài Gòn ngồi
ngất ngư với “người xưa trong ảnh” của một ô quảng cáo vuông vắn phía ngoài
thương xá.
Chúng tôi đi qua khu công viên Lam Sơn, lúc này đã được phá sạch, chỉ còn vài
cây cổ thụ cao lêu nghêu bên cạnh “công trường” đang làm, dường như hàng cây
đứng chờ giờ hành quyết như các “đồng nghiệp” của nó đã bị đốn hạ vài hôm
trước. Các bác thợ quần áo xanh, dây đeo chằng chịt đã và đang dọn dẹp cho công
trường trống rỗng. Tôi đứng trước Nhà Hát Thành Phố nhìn cảnh “vườn không nhà
trống” đó mà ngậm ngùi nhớ tới pho tượng Thủy Quân Lục Chiến sừng sững đứng bảo
vệ thành phố ngày nào và nhớ tới những đồng đội Thủy Quân Lục Chiến đã ngã
xuống hoặc giờ này đã ở khắp phương trời xa.
Pho tượng Thủy Quân
Lục Chiến
Chắc hẳn bạn còn nhớ ngay cạnh đó là góc bùng binh Nguyễn Huệ – Lê Lợi còn là
nơi tổ chức đường hoa vào dịp Tết. Gia đình nào chẳng một lần kéo nhau đi giữa
đường hoa với tâm trạng rộn ràng của một ngày hội hoa xuân. Từ năm nay sẽ mất
hẳn, chẳng bao giờ thấy bóng dáng mùa xuân ở đây nữa.
Cuối cùng tôi trở lại nơi mà lần đầu tiên tôi đặt chân lên thành phố Sài Gòn.
Tôi đã nhảy xuống xe GMC ở đây, đúng nơi này, phía sau Nhà Hát Thành Phố, bây
giờ là trụ sở của Tổng Công Ty Cấp Nước của thành phố. Mặt đường nhựa chẳng có
gì thay đổi, nó cũng nhẵn mòn như những con đường nhựa khác, nhưng với tôi nó
là một dấu son đáng nhớ nhất trong đời. Vậy mà đã đúng 60 năm rồi sao?
Mai này Sài Gòn sẽ còn mất đi nhiều thứ nữa như vòng xoay trước cửa Chợ Bến
Thành, một biểu tượng mà bất cứ ai đã đến Sài Gòn dù chỉ một lần cũng không thể
nào quên. Đó là những thứ sẽ mất đi để làm tuyến metro số 1 Bến Thành – Suối
Tiên. Ngoài tuyến metro số 1, còn xây dựng thêm 6 tuyến metro khác. Chúng ta sẽ
mất đi nhiều di tích xưa cũ. Sài Gòn sẽ đổi khác rất nhiều, để lại trong người Sài Gòn dù ở
đâu cũng thấy cảm thấy một nỗi bùi ngùi, nhớ tiếc. 60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu
bây giờ?
Văn Quang (2014)
No comments:
Post a Comment