Pages
- Trang Chủ
- About Me
- Truyện Ngắn
- Sưu Tầm
- Sưu Tầm from 2020
- Góp Nhặt Bên Đường
- Nhạc Chọn Lọc
- Sưu Tầm Sức Khỏe
- NPN's Recipes
- Trang Người Phương Nam
- Cười Ý Nhị
- PPS + YouTube Chọn Lọc
- Những Hình Ảnh Ý Nghĩa
- Thơ
- Thơ from 2020
- Bùi Phương Lưu Niệm
- Trang Anh Ngữ
- Truyện Dài : Về Phương Trời Cũ
- Truyện Dài : Ngày Tháng Buồn Hiu
Wednesday, December 4, 2024
Một Cảnh Ba Quê - Nguyễn Thị Dị
Lời tác giả: Truyện hoàn toàn có thật, chỉ thay đổi tên tuổi, địa danh.
oOo
Thảo tỉnh giấc bởi tiếng loa báo tin
xe lửa sắp đến gare Chaumont, ngừng lại 3 phút yêu cầu hành khách kiểm điểm cẩn
thận hành lý trước khi xuống. Thảo ngồi ngay ngắn lại, nhìn đồng hồ tay 14 giờ
50 phút. Nàng đã ngủ được 1 giờ hơn, bù lại sự mất ngủ đêm qua vì mải lo chuyện
trò với Thủy. Thảo tỉnh hẳn ra, nhìn qua khung cửa kính, tuyết vẫn tầm tã rơi
phủ trắng những cánh đồng, những mái nhà xa xa. Người đàn ông ngồi cạnh Thảo đứng lên với tay lấy chiếc va ly từ
trên kệ cao đặt xuống chân, mặc lại chiếc áo manteau, nói bâng quơ:
- Muà đông năm nay lạnh hơn năm
ngoái...
Thảo quay sang mỉm cười như đồng ý
thay cho câu trả lời.
Nhà gare Chaumont từ từ hiện ra,
bánh xe sắt nghiến chạm đường rầy kêu ken két, theo đà thắng tàu từ từ ngừng
hẳn lại. Hành khách đứng đợi dưới sân gare đông nghẹt nhưng người xuống lại
thưa thớt.
Thảo nhìn mọi người đang cố chen
chúc được đứng gần cửa toa xe rồi sẽ lên trước để tìm một chỗ ngồi.
Trong đám đông Thảo nhận ra một
gương mặt Á châu.. Một người đàn bà cao tuổi, ước chừng hơn 70, đứng sau cùng,
dáng người thấp bé gần như bị che khuất trong đám đông những người Tây phương
to lớn. Đầu bà đội một chiếc mũ len màu xám có chiếc đỉnh nhọn che phủ vầng
trán bị giữ lại bởi một cặp kính trắng, người khoác một chiếc manteau, tay phải
kéo một chiếc va ly có bánh xe lăn, trên lưng đeo một chiếc túi khá đầy. Bà ngơ
ngác nhìn mọi người, nhìn dọc theo hàng cửa kính trên xe, ánh mắt bà chạm gặp
mắt Thảo, bà mỉm cười rồi lắc đầu như muốn nói "tôi không chen được với
mấy ông bà Tây này..." Thảo cũng mỉm cười đáp lại qua màn kính.Người đàn
ông cạnh Thảo cầm va ly, nhẹ gật đầu chào từ giã nàng. Thảo lịch sự đáp lời:
- Chào ông.
Một ý nghĩ thoáng nhanh qua đầu
nàng, nàng lấy chiếc áo manteau đang ôm trong tay, đặt vào chiếc ghế trống, đứng dậy xoay người hẳn qua phía cửa kính trong
lúc dưới sân gare, bà cụ già bước được thêm vài bước đến gần cửa lên xuống xe,
Thảo đưa tay ra dấu chỉ chỉ với bà cụ già. Bà cụ nhìn phải nhìn trái rồi đưa
tay lên ngực, Thảo gật đầu rồi lại chỉ vào mình. Bà cụ hình như chưa hiểu ý
Thảo và vẫn tiếp tục theo sau những người khách lên xe nhưng vẫn nhìn Thảo...
Một thanh niên vừa lên xe trờ tới hỏi Thảo:
- Xin lỗi, ghế này có ai ngồi không?
Thảo vội vàng trả lời:
- Có người rồi...
Đôi trai gái trẻ ngồi phía sau đang
dán mặt vào nhau thì thầm, Thảo chuyển ghế và ngồi vào chiếc ghế trống. Tiếng
loa vang báo tin xe lửa 16 giờ 40 sẽ chuyển bánh để đến gare Troyes và sẽ ngừng
lại 5 phút rồi tiếp tục đến gare de l'Est-Paris.
Con đường nhỏ giữa hai hàng ghế
ngồi,khách lên đang chen chúc tìm chỗ. Thảo đứng hẳn lên, hướng nhìn về phía
đám đông từ phía cửa lên xuống... Bà cụ già xuất hiện, cách nàng khoảng hơn 10 hàng ghế...
Đôi trai gái nhìn Thảo, Thảo nhờ họ
giữ dùm 2 chỗ này để nàng đón bà cụ, hai người gật đầu nhận lời.
Thảo rời ghế, xin lỗi luôn miệng, cố
len chân để tiến về phía bà cụ...
Cặp mắt kính mờ vì hơi lạnh, bà cụ
cười như biểu lộ sự vui mừng khi nàng chỉ còn cách bà độ ba người.
Thảo đang phân vân vì không hiểu là
bà cụ người nước nào, nàng chỉ còn biết đưa tay chỉ chiếc va ly và nói một hơi
bằng tiếng Việt Nam:
- Bà đưa va ly cho tôi...
Bà cụ lách người đẩy chiếc va ly về
phía Thảo và lí nhí nói, cũng bằng tiếng Việt:
- Cảm ơn bà...
Rồi cả hai lại len chân để trở lại
hai chiếc ghế mà Thảo đã vừa rời.
Sau khi đã cảm ơn đôi trai gái giữ
ghế hộ, Thảo nhường bà cụ ngồi chiếc ghế phía trong gần khung kính, nàng đề
nghị để chiếc va ly lên kệ, bà cụ lắc đầu:
- Nặng lắm bà ạ!
Một người đàn ông đã phụ giúp Thảo
để chiếc va ly lên được kệ. Bà cụ bây giờ đã gỡ chiếc mũ len, mái tóc trắng lưa
thưa được búi củ hành nhỏ rất gọn gàng và lên tiếng với Thảo:
- Lỗi tại tôi vô ý, khi đến nhà gare
lớn không nhìn bảng loan tin cứ cắm đầu bấm vé, lọc cọc kéo va ly xuống mấy
chục bậc thang rồi lại leo lên mấy chục bậc thang, lấy làm lạ sao vắng người
đi... Tìm chỗ ngồi trong nhà lồng kính cho ấm... rồi loáng thoáng tiếng loa báo
tin xe lửa tôi sẽ đi bị hủy bỏ,phải đợi chuyến sau từ Mulhouse đến. Tôi đã định
trở lại nhà gare chính nhưng nghĩ kéo va ly tôi không can đảm...
Thảo hỏi bà cụ:
- Bà xuống gare nào?
- Tôi đi Paris.
Bà ngừng lại một chút:
- Tôi đi tái khám bệnh...
Thảo nhìn bà cụ:
- Lên tận Paris tái khám?
- Dạ, với tuổi trên 70 của tôi bệnh
viện Chaumont từ chối, họ gởi tôi lên Paris...
- Bà bệnh gì vậy?
- Bác sĩ gởi tôi đi khám tổng quát,
tìm thấy trong máu có phân...bị cancer ruột bà ạ! Bà xem tuổi này mà còn bị
cancer...
Bà cụ thở dài như cố trút bỏ nỗi ưu
phiền.Thảo nhìn bà, lòng xót xa nhớ đến cô em gái của nàng ở Mulhouse cũng vừa
phải mổ một bên ngực vì cancer. Bà cụ kéo Thảo trở về với thực tại:
- Tôi sống chờ chết!
Tim Thảo như nghẹn lại, nàng nhẹ
nhàng an ủi:
- Sinh, lão, bệnh, tử bà ạ!
Thảo tò mò tiếp lời:
- Bà đi một mình lên Paris tái khám?
Bà cụ mỉm cười đáp:
- Có một mình thì đi một mình chứ
bà.
Thảo ngạc nhiên:
- Bà sang Pháp một mình?
- Không. Tôi có đứa con gái cùng
đi... Cuộc đời tôi lận đận lắm bà à... Người ta nói tuổi Canh... Canh cô sống
một mình. Tôi tuổi Canh Ngọ.... Con ngựa cực lắm, ngủ không được nằm... Coi vậy
mà tử vi cũng đúng đó bà!
Thảo cười nhẹ. Bà cụ lấy chai nước
suối nhỏ, uống một hớp rồi nói tiếp:
- Trước 75, tôi là y tá cho bệnh
viện Grall. Khi bệnh viện đóng cửa, người ta cho tôi một số tiền, ông nhà tôi
là hoa tiêu trên tàu buôn lớn, học từ Pháp về... Ngày 30/4, ông học tập 3 ngày
rồi được chính quyền cho làm việc để đào tạo chuyên viên vì lúc đó rất hiếm hoa
tiêu... Hai vợ chồng chúng tôi chỉ có được một cô con gái, lúc đó mới lên 6.
Những người làm việc chung với tôi nộp đơn đi Pháp theo diện nhân viên. Tôi hỏi
ông nhà tôi, ông ậm ừ không muốn đi vì nhiều lẽ: Cha mẹ đã già mà ông lại là
con một; ông không thích sống ở nước ngoài, ông nói 5 năm ở Marseille khi sang
Pháp học đã đủ cho ông hiểu cuộc đời xa quê,không đâu bằng quê hương mình. Thế
là tôi dẹp hồ sơ sang một bên.Những người đi theo diện con lai, không biết
tiếng Anh, tiếng Pháp...Nhân cơ hội, tôi mở lớp dạy Anh, Pháp kiếm thêm tiền
khá lắm và cũng nhờ thế tôi quen một số người đi Pháp... Có người nghèo quá tôi dạy không lấy tiền.
Bà cụ ngừng, uống thêm một hớp thấm
giọng:
- Cho đến năm cháu gái đậu tú tài,
nộp đơn học y khoa rồi bị bác trả vì thiếu điều kiện, nhìn con gái loay hoay
trong nhà, tôi sốt ruột rồi bàn với ông chồng tôi, ông chấp thuận để hai mẹ con
tôi ra đi, tôi đi nộp đơn và hai năm sau cháu và tôi sang Pháp. Cũng may mắn
được hội Hồng Thập Tự cho tôi làm việc nửa buổi để lo liệu thủ tục giấy tờ giúp
người Việt không giỏi tiếng Pháp.
Cháu Hiền - tên con gái tôi - học 1
năm lấy căn bản thêm rồi thi đậu bằng tú tài Pháp rồi vào học 2 năm ngành thư
ký văn phòng...
Thảo ngắt lời bà cụ:
- Lúc rời trại làm giấy tờ bà ở tỉnh
nào?
- À, tôi ở Dijon, đi theo vài người
bạn quen biết. Tôi dọn đến Chaumont này khi cháu được cơ quan trợ cấp gia đình
nhận cho làm việc vĩnh viễn.
Bà cụ hỏi tiếp Thảo:
- Bà có về Việt Nam chưa?
Thảo vui vẻ trả lời:
- Dạ, 3 lần rồi. Thế còn bà?
Bà cụ cúi mặt, mân mê hai bàn tay:
- Không cô .
Thảo giật nẩy mình:
- Chưa về lần nào?
Bà cụ từ tốn:
- Tôi sống ở Dijon được 5 năm, tôi
xin vào quốc tịch Pháp nhưng bị từ chối vì lý do ông nhà tôi. Một là tôi phải
ly dị với ông, hai là tôi phải bảo lãnh cho ông sang Pháp này...
Thảo nheo đôi chân mày:
- Chuyện kỳ! Tôi chưa bao giờ nghe
nói...
Bà cụ tiếp:
- Hoàn cảnh tôi đó cô! Sau đó tôi
chán nản bỏ luôn vì ông nhà tôi khi đó vẫn tiếp tục đi làm với nhà nước và chỉ
mới vừa về hưu mới đây được 3 năm. Tôi thì đã 70 xin vào quốc tịch Pháp làm gì
nữa nhất là ông nhà tôi vẫn không chịu sang đây.
Thảo đặt câu hỏi:
- Vậy là 15 năm rồi cả 2 ông bà chưa
được gặp nhau?
Bà cụ đổi giọng:
- Có, có bà ạ... Năm cháu gái lấy
chồng sang Anh, gia đình bên chồng cháu làm bảo lãnh cho ông sang.Tháng 7 vừa
rồi, vợ chồng cháu cũng bảo lãnh cho ông sang ăn đầy tháng đứa cháu ngoại thứ
hai.
- Thế là cô con gái cũng đã có
chồng?
- Vâng, cháu lấy chồng, nhưng chồng
cháu ở bên Anh.
- Rể của bà là người Việt hay người
Anh?
Bà cụ nhìn Thảo cười:
- Cũng là người Việt.
- Sao bà không bắt rể sang Pháp này?
Bà cụ hiền từ trả lời:
- Rể tôi đâu biết tiếng Pháp, sang
đây làm nghề gì cơ chứ?
Thảo nói thật nhẹ:
- Bà hy sinh cho con gái lấy chồng?
Nhưng mà lạ, kẻ thì ở Pháp, người thì ở Anh, gặp nhau thế nào...?
Bà cụ cười:
- Tụi nhỏ quen nhau hồi tôi làm giấy
tờ ở bên nhà. Khi đó đúng lý ra thì gia đình bên sui gia tôi đi Úc do người con
trai lớn trong nhà bảo lãnh nhưng vì anh chàng rể tôi khi đó nhất định một lòng
thương cháu nên để dễ dàng xum họp đã nhất định bắt chị gái bảo lãnh cho gia
đình đi Anh cho gần. Thật tình tôi thương con nên hy sinh đem con đi, thấy con
có hạnh phúc là tôi vui bà ạ...
Thảo chỉ còn biết thở dài ngẫm nghĩ:
- Tình mẹ thật bao la...
Bà cụ lấy trong túi áo chiếc khăn
giấy, đẩy gọng kính lên trán, chậm đôi mắt, rồi nắm chặt chiếc khăn trong lòng
bàn tay như muốn bóp nát.
Thảo xúc động, quay mặt nhìn đi chỗ khác...Ngoài trời đã tối hẳn.
******
Chiếc loa vang tiếng của một cô tiếp
viên: ...Tới gare de l'Est... nhớ kiểm soát hành lý trước khi xuống xe...
Hành khách bắt đầu đứng lên chuẩn bị
khoác áo, mang gant tay... Hai người đàn bà vẫn ngồi yên...
Một lát sau, Thảo hỏi bà cụ:
- Bà ở Paris mấy?
- Tôi lấy taxi đến Paris 20, ở nhờ
nhà một người cùng xóm ngày trước bên nhà, ngày mai mới vào bệnh viện.
Xe ngừng lại, Thảo và bà cụ theo
những hành khách lục tục xuống, nàng đề nghị giúp bà kéo chiếc va ly.
Trước cổng lớn của nhà gare đang tu
sửa, Thảo tìm cho bà cụ một góc đứng khuất gió, nàng đi men theo phía tay trái
có mũi tên chỉ bến taxi đón 1 chiếc. Người tài xế đem chiếc valy đặt vào cóp
xe... Bà cụ nắm chặt bàn tay Thảo xiết mạnh:
- Cảm ơn bà nhiều. Chúc bà mạnh
giỏi...
Bà cụ cúi người ngồi vào băng sau
xe, Thảo nói với:
- Chúc bà mọi sự may mắn.
Chiếc taxi từ từ lăn bánh. Bà cụ còn
ngoảnh đầu nhìn Thảo, bàn tay vẫy vẫy.
Thảo trở lại gare, bước xuống những
bậc thang xuống xe điện ngầm. Chợt Thảo bỗng bâng khuâng:
- Suốt 2 tiếng chuyện trò trên xe,
cả mình và bà cụ không ai biết ai tên là gì.
Nguyễn Thị Dị
Paris - 27/1/2020
Kính tặng bà cụ Việt Nam đã gặp trong chuyến xe lửa.
Tuesday, December 3, 2024
Ăn Cơm Nguội Có Tốt Không?
Cơm nguội có thật sự tốt không? Làm thế nào để sử dụng và bảo quản cơm nguội đúng cách? Mời bạn đọc tiếp để tìm hiểu những thông tin thú vị ngay sau đây!
Ăn cơm nguội có tác dụng gì?
Các nhà
khoa học đã phát hiện rằng cơm nguội mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe. Nếu
được bảo quản đúng cách, tinh bột trong cơm nguội sẽ chuyển hóa tinh bột thông
thường thành tinh bột kháng (Resistant Starch).
Tinh bột kháng là một loại carbohydrate mà cơ thể không thể phân hủy để sử dụng làm năng lượng. Tinh bột kháng là các chất có cấu trúc giống tinh bột nhưng không thể tiêu hóa ở ruột non bởi men tụy. Nó sẽ xuống ruột già và lên men nhờ hệ vi khuẩn ở đây, cung cấp các vi khuẩn có lợi cho đường ruột.
Tinh bột kháng là kết quả của quá trình nấu chín gạo, sau đó để cơm nguội dần ở nhiệt độ phòng rồi cho vào tủ lạnh. Cơm nguội để tủ lạnh khi hâm lại sẽ tạo ra lượng tinh bột kháng dồi dào với hàng loạt lợi ích cho sức khỏe như:
- Ăn cơm nguội để tủ lạnh giúp làm chậm quá trình tiêu hóa và hấp thụ carbohydrate, dẫn đến giảm lượng đường trong máu.
- Tinh
bột kháng được lên men bởi các vi khuẩn có lợi ở ruột già. Chúng hoạt động như
một prebiotic giúp ức chế và tiêu diệt các loại vi khuẩn có hại. Từ đó giúp bảo
vệ đường tiêu hóa.
- Bên cạnh đó, mỗi gram tinh bột kháng chỉ chứa khoảng 2,5 Kcal. Trong khi mỗi gram tinh bột thông thường chứa khoảng 4 Kcal. Chính vì vậy, ăn cơm nguội để tủ lạnh cũng là một cách hiệu quả để kiểm soát cân nặng.
- Vì tinh bột kháng khó tiêu hóa hơn, nên cơ thể sẽ sử dụng nhiều năng lượng hơn để phân hủy chúng. Điều này có nghĩa là cơ thể sẽ không bị đói nhanh chóng, có thể giúp người giảm cân ăn ít đi.
- Khi tinh bột được tiêu hóa, chúng thường phân hủy thành glucose. Vì tinh bột kháng không được tiêu hóa ở ruột non nên nó không làm tăng glucose.
Sự lên men các tinh bột kháng ở ruột già sẽ tạo ra các axit béo chuỗi ngắn, bao gồm acetate, propionate và butyrate và làm gia tăng khối lượng vi khuẩn. Butyrate là nguồn năng lượng chính các tế bào ruột già, nó cũng tăng sự trao đổi chất, giảm viêm và chống stress.
Các lợi ích khác của tinh bột kháng bao gồm tăng cảm giác no, điều trị và ngăn ngừa táo bón, giảm cholesterol và giảm nguy cơ ung thư ruột kết. Tinh bột kháng tiêu được lên men chậm nên ít sinh hơi hơn các loại sợi khác.
Tóm lại nên để cơm nguội trong tủ lạnh và dùng một ngày sau đó - rất tốt cho người bệnh tiểu đường, hoặc người muốn giảm cân.
Nhật
Bản là quốc gia thường xuyên sử dụng cơm nguội để làm các món sushi và cơm nắm.
Để cơm luôn thơm ngon và tốt cho sức khỏe thì cách bảo quản cơm được người Nhật
đặc biệt chú trọng. Cụ thể, họ sẽ cho một chút giấm gạo trắng vào nồi cơm trước
khi bật nút nấu hoặc sau khi cơm đã chín. Điều này không chỉ giúp cơm mềm và
thơm hơn mà axit axetic trong giấm gạo còn làm chậm quá trình chuyển hóa tinh bột
thành đường glucose và giúp bảo quản cơm nguội được lâu
Bên cạnh đó, người Nhật cũng có một cách bảo quản cơm khá hay đó là cho cơm vào tủ đông thay vì tủ mát như chúng ta vẫn thường làm. Bởi vì quá trình đông lạnh sẽ dừng tất cả các phản ứng đồng thời cũng ngừng luôn quá trình sinh sôi của vi khuẩn.
Mặt khác, cơm lấy ra từ
ngăn đông được rã đông và chế biến lại cũng thơm ngon hơn do khắc phục được
tình trạng hạt cơm khô và mất nước như khi để trong tủ mát. Chính vì vậy, đông
lạnh cơm nguội cũng là một cách bảo quản khá hay mà chúng ta có thể làm theo để
giữ cơm lâu hơn.
Ăn cơm nguội có tốt không? Giải đáp top 3 thắc mắc thường gặp khi ăn cơm nguội • Hello Bacsi
Tôi Đi "Ủ Tờ" - Nguyễn Văn Linh
Theo thông cáo của chính quyền mới "giải phóng" thì tất cả các Sĩ quan, viên chức của chính phủ VNCH ở Saigon phải đến trình diện tại nhiều địa điểm khác nhau để đi "Học Tập Cải Tạo".Tôi phải trình diện trong 3 ngày 13-14-15 tháng 6 1975. Thông cáo cũng nói rõ là chỉ cần đem tiền để đóng tiền ăn và mang đồ dùng đủ xài trong vòng 1 tháng. Mới nghe qua thông cáo thì ai cũng mừng thầm, thôi thì đi "học tập" có 1 tháng chẳng bao lâu. Đến trưa ngày 15/6/75 tôi cùng bạn H.H. Quang (K2), bạn M.V. Thọ (K1) kêu xe xích lô máy chở đến trình diện tại một tòa nhà đối diện Bộ TTM, cạnh quán Bánh Bao Ông Cả Cần. Vào làm thủ tục "nhập học" và đóng tiền ăn 1 tháng rồi được hướng dẫn lên lầu ở trong 1 phòng nhỏ, tới khuya được xe đưa đến "Trường Cải Tạo" ở Làng Cô Nhi Long Thành, trên đường ra VũngTàu nhưng chưa tới Bà Rịa. Làng Cô Nhi LT trước đây là nơi nuôi dưỡng hơn 2000 trẻ em mồ côi. Khu làng rất rộng có 13 dãy nhà vách gạch mái tôn và một ngôi nhà biệt lập xây theo kiểu hình bát quái ở phía bên trái khi vao cổng.
Cuối năm 1973 khi được tin báo của BCH/CSQG/Khu 3, là VC đã lợi dụng Làng Cô Nhi LT để làm cơ sở kinh tài và chứa chấp thanh niên trốn quân dịch nhiều năm. Họ đã tổ chức gác cửa và lập các chòi canh xung quanh làng không cho bất cứ ai được vào làng.Vì thế BTL/CSQG/Khối Điều Hành đã xin phép Bộ Nội Vụ đưa 3 Đại Đội CSDC của BD222 lên bao vây LCN để giải tỏa. Khi thấy CSDC đến bao quanh họ cho đốt tất cả các chòi canh ở xung quanh làng, đồng thời đánh kẻng, đánh chuông, đánh trống la inh ỏi như bị cướp đến làm hại trẻ em mồ côi.
Thế là Trung Đội võ thuật của CSDC liền yểm trợ cho Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc BCH/CSQG/Biên Hòa tiến vào làng để kiểm soát và thanh lọc. Một cán bộ VC tên Tư Sự và đồng bọn bị bắt đem nhốt ở khám Chí Hòa. Số thanh niên trốn quân dịch được đưa đi làm nhiệm vụ của họ.Số trẻ em mồ côi được Bộ Nội Vụ chuyển đi nơi khác để tiếp tục nuôi dưỡng. Đêm đó tôi cùng Đại Tá Quý, Trưởng Khối của tôi cũng có mặt ở BCH/CSQG/ Khu 3 từ 10 giờ đêm tới 3 giờ sáng để theo dõi diễn tiến cuộc HQ giải tỏa nầy và về trình Tư Lệnh kết quả nội vụ vào lúc 8 giờ sáng hôm sau đó. Làng Cô Nhi LT được bỏ trống từ dạo đó. Đến tháng 6 năm 1975 mới có hơn 3000 anh chị em Sĩ quan CSQG, Viên chức hành chánh ở các Phủ, Bộ, Dân Biểu, Nghị sĩ... được đưa vào đây "Học Tập Cải Tạo" và lấy tên là "Trường Cải Tạo Số 15NV".
Khi vào làng CNLT tháng đầu chỉ đi dạo chơi, trò chuyện cùng bạn bè, lớp thì đánh cờ tướng, đánh banh v.v..Mỗi người được phát 1 chiếc chiếu để nằm trên nền gạch, việc ăn uống được nhà thầu ChợLớn lo vì mọi người đã đóng tiền ăn. Ai có tiền thì mua thêm kẹo bánh, nước tương, xì dầu, đậu phọng... kể cả thuốc lá cũng có bán ở Câu lạc bộ do Tư Sự ở Khám Chí Hòa ra tiếp tục kinh doanh.
Một hôm tôi và K2 Nguyễn văn Tư
(CHT/CSQG/ Phước Long) đi lang thang trong vòng thành của làng CN có gặp K2
Trần Ngọc Ánh và K3 Lê Bửu Hừng đang lom khom rào kẽm gai quanh chỗ chúng tôi
đang ở. Ánh và Hừng bị VC bắt ở Phước Long và đang là tù binh của VC lúc đó.
Hết 1 tháng rồi mà chả có học tập gì cả. Có anh nói mình đi ngày nào thì về
ngày đó khi đúng 1 tháng. Có người nói mình đi ban đêm thì về ban đêm. Rồi qua
tới ngày 15/7 một anh nói đêm nay mà mình không về thì "mút chỉ cà
tha" rồi. Sáng hôm sau khi gặp cán bộ anh em chạy lại hỏi thì cán bộ nói:
"Các anh chưa học tập gì cả mà sao về được!" Có người hỏi vậy còn
tiền ăn có đâu mà đóng tháng tới. Cán bộ trả lời: "Thì nhà nước nuôi các
anh lo gì."
Lúc đó mới "tá
hỏa" và biết mình nghe mà không hiểu ý thông cáo của chính quyền
"giải phóng".Sau 3 tuần nữa mới được luân phiên lên Hội Trường để học
tập. Bài học ít lắm chỉ có 7 bài thôi do cán bộ từ ngoài Bắc vào thuyết giảng.
Sau mỗi bài học phải về viết bảng khai báo lý lịch 3 đời, đã giết bao nhiêu cán
bộ Cách mạng, đã làm gì có lợi cho Mỹ-Ngụy và làm gì có hại cho CM trước đây.
Cứ khai hoài không biết bao nhiêu lần mà cứ bảo các anh chưa thành thật khai
báo làm sao tiến bộ để được nhà nước khoan hồng cho về đoàn tựu với gia đình.
Sau khi học hết 7 bài rồi thì bắt đầu đi lao động. Đến cuối năm, Tết VN sắp đến
thì được trại cho phép viết thơ về gia đình để cho thân nhân đến thăm gặp lần
đầu tiên sau gần 1 năm biệt tích.Qua Tết anh em chúng tôi lần lượt được chuyển
ra Bắc. Trước khi ra Bắc phải xuống trai giam ở Thủ Đức. Lúc di chuyển xuống
trại giam TĐ vào nửa đêm, tôi ngồi chen chúc với nhiều người, khi xe chưa chạy
thì thấy có 2 anh công an cầm súng dài đứng dưới phía sau xe, 1 anh công an
khác đi vào trong xe đem theo 1 xâu còng số 8 đến còng tay 2 người từng cặp một
ngồi sát bên nhau.1 anh "học viên" la inh ỏi lên: Ối, Ối... ai còng
tay tôi, ai còng tay tôi và khóc thê thảm, vì anh ngồi khuất sau các bạn khác
đang đứng mà không thấy mặt anh công an đang bấm còng. Đến TĐ mới biết mình bị
"Ủ TỜ" vì có phòng giam kiên cố, cửa có song sắt và mỗi chiều phải
tập hợp để công an điểm số vào buồng giam khóa cửa lại hẳn hòi không giống như
ở làng Cô Nhi LT.
Sau 1 tháng ở trại giam TĐ, một đêm nọ chúng tôi lại được còng tay đưa xuống bến Tân Cảng Saigon để lên tàu Hồng Hà ra khơi. Tàu Hồng Hà là một loại tàu chở hàng có 3 hầm, mỗi hầm chứa được 800 người ngồi chen chúc nhau dưới đáy sàn tàu. Các tù nhân được mở còng ra rồi đi xuống hầm tàu bằng 1 cái thang xong họ rút thang lên. Bọn tù chúng tôi như ếch ngồi dưới đáy giếng, nhìn lên chỉ thấy toàn là mây trời vì tàu không có mui. Ngày đầu tàu chạy không thấy gì, đến ngày thứ hai mọi người đều bị say sóng ngã gục lên gục xuống, có người bị ói mữa nhứt là mấy người lớn tuổi trông thấy tội nghiệp quá, vì lúc đó mình còn trẻ khô, chỉ có 33 tuổi tây. Sau 3 ngày đêm tàu đến đậu ở bến cảng Hải Phòng lúc 3 giờ sáng. Đến 7 giờ sáng thì được bắc thang lên bờ ngồi chồm hổm trên bãi cát để nghe đọc nội qui di chuyển và có đông công an mặc đồ màu rêu xanh đứng quanh đợi sẵn. Khi lên xe tù nhân chúng tôi lại "được" còng tay từng cặp như trước để chuyển đi. Qua Bắc Hải Phòng và chạy thẳng đến một trại tù ở giữa rừng núi Quãng Ninh. Trại tù nầy có lâu đời, có vách tường mái ngói, song sắt rất kiên cố. Trại nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng, chung quanh bao bọc bởi bờ tường cao. Ngoài xa hơn là những ngọn núi đồi với nhiều cây xanh rậm rạp.
6 tháng đầu ở Quãng Ninh được học tập và khai báo giống như ở làng Cô Nhi Long Thành. 1 tháng được ra ngoài để lao động gọi là "Lao Động Bồi Dưỡng". Khi học tập xong thì một số người được chuyển sang các trại khác. Số người còn lại thì ra lao động hàng ngày, hàng tháng, hàng năm để tiến bộ được cả hai mặt: học tập và lao động. Lúc đó văn võ kiêm toàn thì mới "ra trường" được. Tôi ở trong Đội được phân công đan các sọt đựng rác bằng tre nứa do tù hình sự lấy trong rừng đem về tận sân buồng giam để làm. Có ngày cả đội đi gánh phân bò ở các chuồng bò trong rừng đem về cho các đội khác trồng rau. Khi đi qua các con suối có nước lên đến đầu gối đôi khi làm "Thợ gánh phân" phải té lên té xuống khi phân thấm nước làm nặng thêm. Còn việc chuyển phân của tù nhân từ các buồng giam thì được tù hình sự phụ trách, chúng tôi chỉ luân phiên mỗi ngày 2 người chun dưới hầm cầu ở sau buồng giam, nín thở rồi bưng 2 sọt đựng phân có lót rơm ra cửa cho tù hình sự dùng xe "cải tiến" đẩy phân ra rẩy tưới rau cải mỗi ngày.
Mỗi buổi chiều được tù hình sự mang cơm đến trước sân, anh em xúm lại chia phần. Ai ăn thì cứ ăn, tôi thì thường mang cơm vào buồng giam đợi đến khi cán bộ đến điểm số để vào buồng khóa lại thì mới lấy cơm ra ăn ngồi ngay chỗ nằm có cửa sổ nhìn qua song sắt. Ngoài kia núi rừng, mặt trời vừa lặn, cảnh vật điều hiu. Xa xa có tiếng chim rừng luôn kêu "Hồ Hởi, Hồ Hởi" nghe mà trong lòng buồn muốn chết, có hồ hởi khỉ khô gì đâu mà chim nó cứ kêu hồ hởi mãi. Lúc nầy là không còn hy vọng ngày về. Miền Nam, nhà cửa, vợ con, cha mẹ... đều xa lắc xa lơ. Mình đang ở miền Bắc, một tỉnh sát liền biên giới Trung Cộng, núi rừng lạ quắc lạ quơ đâu phải quê mình. Mỗi chiều đi lao động về, cởi áo quần lao động ra tắm giặt thì vài con "vắt" đeo trên chân, trên ngực, cắn no tròn làm nhiều người nhẩy dựng, la hét vì trước nay chưa từng gặp con vắt. Vắt là loại giống như con "đĩa" ở miền Nam sống ở dưới nước của các ao hồ hay đồng ruộng. Còn con vắt ở miền Bắc thì sống trên bờ, ở các bụi cỏ thấp, khi gặp người hay trâu bò đi ngang qua là nó nhảy vào cắn hút máu để sống. Nó cắn không thấy đau nên mình không phát hiện ngay khi nó bám vào da thịt của mình. "Ủ TỜ" ở Bắc tù nhân phải đi lao động luôn, người tù ăn uống thiếu thốn, máu cũng không có dư, mà con vắt nó lại đói và cần máu để sống, người tù miền Nam đành phải chịu vậy thôi, vì một khi mình đói lại có loài vật đói hơn mình, cần được giúp đỡ trong cơn hoạn nạn.
Lúc ở buồng giam số 6, một ngày chiều chúa nhựt cả Đội được nghỉ. Anh Đội Trưởng họ Lâm bên CSQG phe ta, kêu tôi và 2 bạn khác nữa đi ra ngoài để đan mấy cái sọt đựng phân cho trại theo lệnh của cán bộ. Tôi giả vờ không nghe vì trong buồng giam đang ồn ào. Ngày hôm sau anh hợp đội để kiểm điểm buổi tối sau khi vào buồng giam. Anh nói có người còn "cứng đầu" hôm qua cán bộ kêu đi đan sọt đựng rác mà không đi. Nếu anh có đọc được bài viết nầy, nay tôi xin lỗi "trễ" với anh, vì lúc đó tôi mê coi đánh cờ tướng mà không nghe lệnh của anh. Vả lại anh kêu tôi đi làm vào chiều Chúa Nhựt, tù được nghỉ, mà anh hay trại không có trả tiền OVERTIME!!!
Khi ở Quãng Ninh tôi cũng có nghe nhiều tin đồn: nào là ra Bắc "ủ tờ" thì không có ngày về, mà phải định cư luôn dọc theo 2 bên bờ sông Hồng. Nhà nước sẽ xây cất những dãy nhà gần nhau trên đồng bằng coi như những xóm làng dành riêng cho tù ở miền Nam ra ở. Vợ con của tù lần lượt ra ở đó luôn, không cho trở về sống ở miền Nam, vì sợ cho họ trở lại đất cũ nhà xưa dễ dàng phản loạn nhà nước khó kiểm soát được. Lúc đó thất vọng quá, may gặp anh bạn N.H.Ph. gốc quân đội biệt phái CSQG, anh thường cho tôi biết những tin tức Quốc Tế và VN, hoặc có những tin tức liên quan đến số phận của tù miền Nam. Có những cuộc họp sơ khởi giữa Mỹ và VN để đưa tù cải tạo ra đi, Mỹ sẽ bồi hoàn tiền cho VN. Nghe tin hấp dẫn quá nên tôi cũng một phần an tâm hơn. Rồi tiếp theo sau đó anh cho tôi biết là mình chắc phải dời đi nơi khác vì Trung Quốc và VN sắp đánh nhau ở dọc biên giới. Anh em chúng tôi chuẩn bị tinh thần chờ xem.
Một đêm nọ nhiều xe đến trại và công an đến mở cửa buồng giam bảo chúng tôi sẵn sàng ra xe để chuyển trại. Đoàn xe di chuyển về phía Nam ngang qua Phủ Lý Nam Định xe chạy luôn đến sông Hồng đậu lại để chờ qua bắc sông Hồng. Người dân miền Bắc đến đứng bên đường gần đoàn xe để xem. Có người nói "giặc Tàu bị bắt" ở biên giới, nhiều người không nói gì mà chỉ đứng xem. Chúng tôi được công an đứng phía sau xe canh giữ, hai người bị còng tay từng cặp không cho nói chuyện. Quá khát nước, một anh bạn nhờ công an vào nhà dân để xin 1 lon nước nhưng công an nó không chịu. Thế là đành nhịn khát cho đến 10 giờ đêm hôm đó khi về tới trại tù Thanh Hóa. Đoàn xe di chuyển vào tận núi Lam Sơn nơi anh hùng Lê Lợi trú đóng quân ngày xửa ngày xưa. Chúng tôi được đưa vào Trại Cải Tạo số 5/Phân trại B. Phân trại B nầy có các buồng giam đều là mái tranh, vách đất. Đêm hôm đó mấy con rận rệp sống dưới sàn gỗ mụt nát, có nhiều lổ nhỏ, bò lên ăn tiệc no nê, vì trại chưa kịp dọn dẹp và phát chiếu cho tù nhân trải ngủ. Thanh Hóa là tỉnh có nhiều đồng bằng trồng lúa, khí hậu nóng, các buồng giam có giếng nước đào ở ngoài và dùng gào có dây thẩy xuống kéo nước lên tắm rửa mà nhiều người xài tạo vũng lầy quanh miệng giếng dơ dáy thêm. Ăn uống thì độn bo bo còn nguyên võ nên ăn vào nó ra cũng còn nguyên hình hạt bo bo không tiêu thụ được, sức khỏe anh em tù nhân xuống cấp thê thảm. Đồng loạt cả trại tù nhân miền Nam đều tuyệt thực. Khi tù hình sự khiêng cơm tới cửa buồng giam không ai ra nhận. Khi cán bộ đến kêu ra tập họp đi lao động thì mọi người cùng nằm dài tại chỗ không đi đâu hết. Những tấm giấy trắng được viết và đeo trước ngực của một vài anh có nội dung như sau: "Chúng tôi không ăn thức ăn của gia súc" lên ngồi trên Hội Trường giống như thầy tu ngồi trước bàn thờ Phật. Vì sợ tù nổi loạn trại đem cả tiểu đoàn lính vc đến canh phòng vòng đai của trại. Xung quanh trại không có bờ tường mà được trồng tre gai để làm hàng rào.
Thấy không thuyết phục được tù đã tuyệt thực 3 ngày qua nên họ ra lệnh cho tất cả anh em chúng tôi phải di chuyển qua phân trại C ở cách đó chừng 4km. Chúng tôi phải gồng gánh đồ đạc đi bộ dưới sự kiểm tra dọc theo 2 bên đường của Tiểu đoàn lính VC đến tăng cường 2 hôm trước. Phân trại C có 3 dãy nhà xây tường gạch mái ngói dành cho chúng tôi đến ở, còn các dãy nhà tranh khác dành cho tù hình sự. Đến trại C rồi thì công an đến buồng giam kêu 3 anh: Chí (Quốc Gia Hành Chánh), Tiệp (CSQG), Lạc (Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo) lên văn phòng để thẩm vấn, hỏi han về nguyên nhân tuyệt thực từ bên phân trại B, nhưng đến tối cũng không thấy 3 anh trở về buồng giam, anh em lo sợ là 3 anh đã bị thủ tiêu ở ngoài núi gần trại nên đồng loạt kêu la ở khắp cả buồng giam: Yêu cầu trả lại Chí, Tiệp, Lạc và tiếp tục tuyệt thực nữa. Đêm ngày cứ la đòi trả 3 anh lại và vỗ tay hát bài ca "Cờ Bay, Cờ Bay" giống như QL/VNCH sau khi chiếm lại Cổ Thành Quãng Trị năm xưa. Tất cả các buồng giam bị khóa cửa, công an cầm súng dài đi tuần tra bên ngoài. Lúc 7 giờ tối khi anh em đang ca hát vỗ tay với lời kêu lớn xin trả lại 3 anh Chí, Tiệp, Lạc thì anh N.H.Ph. vào mùng vẩy tay kêu tôi vào nằm cạnh anh, rồi anh áp sát cái Radio nhỏ vào tai tôi để cho nghe tin tức từ đài BBC. Khi đó tôi mới biết chính cái Radio nầy mà anh mới có được những tin tức quan trọng để cho tôi biết từ ngày còn ở trại tù Quãng Ninh.
Sau 4 ngày tuyệt thực ở phân trại C bị đói meo, ai có gì thì ăn nấy để sống, trại nó không mang cơm tới nữa. Vì có sự trợ giúp của một số ít cây "ăng ten người" nên buổi sáng sau đó, trại đem nhiều công an tới từng buồng giam để bắt còng tay dẫn đi thêm hơn 50 anh em nữa, đưa về phân trại B nơi đó đã có 3 anh Chí, Tiệp, Lạc bị cùm từ 4 ngày trước. Sau đó họ bắt chúng tôi phải ký tên vào một cái đơn do trại làm sẵn: Đơn Xin Ăn Cơm. Tất cả mọi người đều phải ký tên mới có cơm mà ăn, không thì cho nhịn đói tàn đời luôn. Một vài anh bị khủng hoảng tinh thần, có khi chạy la hét giống như người điên hay bị ma nhập. Nhiều tin tức dồn dập trong buồng giam, nào là Tàu Cộng đánh VN, Việt Nam đánh Tàu Cộng ở biên giới gây nhiều chết chóc đau thương. Cái Radio của anh Ph. là nguồn sống tinh thần của một số anh em chúng tôi lúc đó. Một hôm tôi bị cảm không đi lao động, nằm ở từng trên của buồng giam có một mình. Anh trưởng "Ban Thi Đua" mà tôi thường nói với các bạn thân là "Ban Thua Đi" đến và nhảy lên nằm kế bên tôi để hỏi thăm bịnh tình của tôi và nói chuyện ngoài đời. Tôi mới hỏi về gia đình vợ con anh hiện nay ở đâu? Anh nói tụi nó đang ở bên Pháp. Tôi nói nếu sau nầy mà mình bị "trục xuất" ra nước ngoài thì anh "Trúng Tủ" là cái chắc. Khi nghe tôi nói, anh Trưởng "Ban Thua Đi" liền ngồi dậy, bước xuống đất bỏ đi.
Mấy ngày hôm sau khi lên Hội Trường để kiểm điểm 1 anh phe ta về 1 hành động gì đó tôi quên mất. Anh bị kiểm điểm ra đứng trước cả số đông bạn tù ngồi ở dưới thì anh trưởng "Ban Thua Đi" lên đọc bảng "Cáo Trạng". Trong bảng cáo trạng, ngoài việc phê bình kiểm điểm anh bạn đang đứng ở trên, anh Trưởng BanThua Đi còn nói thêm là trong trại nầy "còn có người có tư tưởng Vọng Ngoại", tức là anh nói tôi chớ không ai khác. Tôi nghĩ anh Trưởng Ban Thua Đi nói quá xá đúng nhưng không dám vỗ tay, vì lúc đó cả trại đều có tư tưởng Vọng Ngoại, nhưng không dám nói ra kể cả chính anh, vì vợ con anh sẵn sàng chờ đợi anh ở bên Pháp. Riêng anh bị kiểm điểm thì đứng đầu ngã qua ngã lại, mặt mếu máo, đái ướt cả quần, nước tiểu chảy xuống đất trước mặt mọi người, làm như anh bị điên lên. Một hôm khác công an đến kiểm tra công tư trang của tù trong buồng giam của chúng tôi, để chuyển một số anh đi buồng khác và một vài anh khác đến buồng giam của chúng tôi. Khi dọn đồ đạc đồ dùng cá nhân ra sân cho công an xét thì anh Ph. (Người có cái Radio) là người đầu tiên được gọi bước lên hàng hiên của buồng để kiểm soát. Họ bắt anh Ph. đứng chống 2 tay vào vách tường, đưa từng chân một lên để họ kiểm tra dưới dép, lục lạo trong túi áo. Anh Ph. đã bỏ cái Radio trong túi áo lạnh Field Jacket CSDC đem treo áo ngoài dây kẽm dùng để phơi quần áo cho tù cạnh đó. Khám xét anh Ph. xong họ không thấy gì cả họ kêu anh Ph. dọn đồ đạc vào buồng giam. Các anh em tù còn lại không phải lên hàng hiên như anh Ph. mà được xét đồ tại chỗ ngồi ở ngoài sân. Lợi dụng lúc mọi người lo sắp xếp đồ đạc của mình và công an đang lo làm nhiệm vụ của họ thì anh họ Tạ (Nha An Ninh Cảnh Lực/BTL/CSQG) đến cầm cái áo có cái Radio của anh PH. đang treo ở dây phơi quần áo đem treo vào cửa sổ có song sắt. Anh Ph. ở trong buồng giam kéo cái áo của anh vào buồng. Thế là cái Radio của anh Ph. đã theo chủ vào buồng giam mà công an không hay biết gì cả.Tôi nhìn thấy diễn tiến nội vụ mà hồi hộp lo sợ. Nếu công an nó bắt gặp thì "Nhà Đá" không tha cho anh Ph. và những bạn có liên quan bảo vệ cái Radio cũng bị "Nhà Đá" mời vô luôn.
Thật quá may mắn cho phe ta lúc nầy. Lúc trước khi xài hết pin thì anh Ph. phải nhờ mấy cục pin của anh Sơn (Khối Nhân Viên/BTL/CSQG). Anh Sơn bị điếc tai nên đi ở tù có mang theo máy trợ thính, mà trại lại thu giữ máy trợ thính của anh Sơn vì sợ anh Sơn dùng máy trợ thính để nghe tin tức báo cáo cho CIA. Khi xài hết pin của anh Sơn, anh Ph. phải dùng cái bánh bột luộc dẹp phát cho tù ăn sáng đi lao động để đổi lấy 1 cục pin của mấy anh tù gốc Miên để nghe tiếp tin tức. Đến khi không còn tìm đâu ra pin nữa thì anh Ph. đem cái Radio ra chôn dưới chân núi Lam Sơn chỗ anh đang vác đá bên cạnh lò gạch. Núi Lam Sơn là nơi được anh hùng Lê Lợi rút quân về đây trú đóng khi quân Tàu quá mạnh. Sau nầy vì mấy cây "Ăng ten người" và "Ban Thua Đi" của trại bám sát quá nên chiếc Radio nó biết chui xuống đất ở chân núi Lam Sơn để lánh nạn. Chiếc Radio nó biết theo gương người Anh Hùng của dân tộc ViệtNam.
Ngoài 3 anh Chí, Tiệp,
Lạc, một số hơn 50 anh em bị bắt lần thứ nhì để
chuyển qua phân trại B sau nầy cũng được chuyển về phân trại C trở lại để tiếp
tục lao động "cải tạo". Theo lời kể lại của anh Tiệp thì chỉ còn anh
và anh Lạc, trại nói 2 anh còn yếu sức chưa có thể đi lao động được nên ở lại
buồng giam nghỉ ngơi và trại sẽ chích thuốc bổ bồi dưỡng, khi cơ thể khỏe lại
sẽ ra lao động sau. Mỗi anh xuống trạm xá chích thuốc một ngày nghỉ 1 ngày. Trạm xá cũng luân phiên người trực.
Một ngày do anh Bác Sĩ cùng đi tù chung xuống làm việc, ngày sau do 1 anh tù hình sự làm, có lẻ đây là nghề y tá chuyên môn của anh khi ở ngoài đời thường. Anh Lạc đến chích thuốc nhằm ngày anh Bác Sĩ phe ta phụ trách, còn anh Tiệp được anh tù hình sự chích. Anh tù hình sự nầy trước đây bị kỷ luật cùm chung với anh Tiệp trong nhà đá nên hai anh rất thân thiện và thông cảm nhau, vì 2 người cùng cảnh ngộ gông cùm. Anh tù hình sự mới nói nhỏ với anh Tiệp là tôi khuyên anh đừng nên chích thuốc nầy, vì trong 10 mũi thuốc bổ nầy có 1 mũi thuốc độc ở trong, anh nên ký tên vào sổ mỗi khi đến trạm xá, coi như đã chích thuốc, anh tù hình sự đem thuốc đi chôn giấu dưới đất để trại không biết. Anh Lạc sau khi được anh Bác Sĩ phe ta chích hết 10 mũi thuốc thì sức khỏe lần lần đi xuống rồi chết luôn ở phân trại B. Còn anh Tiệp thì không hề hấn gì vì đâu có chích mũi thuốc nào đâu mà chết. Thế là anh tù hình sự đã giúp đỡ và cứu mạng anh. Thật quá may mắn !!!
Đến đầu năm 1982, một số anh em cùng trại được chuyển qua Nam Hà và các trại khác cũng ở trên miền Bắc. Một số đông anh em được chuyển về miền Nam. Phân trại C chỉ còn lại chừng 100 đến 120 người trong đó có tôi. Thấy không được chuyển về Nam, tôi nghĩ chắc "tiêu tùng" rồi. Đêm đêm tôi bị mất ngủ,lo suy nghĩ không biết cuộc đời "Ủ TỜ" của mình rồi sẽ ra sao? Nhớ lại tin đồn lúc trước là mình sẽ ở lại luôn trên 2 bờ sông Hồng-Hà thì không lẽ như vậy, hay là mình được đi thẳng qua Mỹ bằng phi cơ ở một phi trường trên đất Bắc không cần vào Nam? Nếu ở luôn trên đất Bắc thì chỉ biết mỗi ngày phải vác cuốc ra đồng, lang thang hát bài "Bác cùng chúng cháu...trồng rau..." và cũng không thể sống thọ đến ngày hôm nay đã hơn 47 tuổi tây đọc ngược lại. Nếu may mắn còn sống sót thì chắc chắn cũng quên hết giọng nói chính gốc của dân NamKỳ của mình, mà sẽ đổi giọng nói như thế nầy: "Ối Giời Ơi, Thế Lầy Nà Thế Lào?" Khi nhớ lại thông cáo lúc trước của chính quyền "Giải Phóng" kêu gọi đi "Học Tập Cải Tạo" trong vòng 1 tháng mà nay biết bao nhiêu tháng rồi mà vẫn còn ở đây?
Sau thời gian ra Bắc "Cải Tạo" tôi mới biết và hiểu rõ thế nào là "Cải Tạo" và hai chữ "Cải Tạo" hay "Ủ TỜ" hoặc "Ở TÙ" không có gì khác nhau. Tôi cũng biết thêm về các trại tù của nhà nước XHCN/VN luôn luôn có kế hoạch giữ vững được kinh tế của trại, vì họ biết dùng sức lao động của tù nhân, họ biết tận dụng "phân" của tù nhân đem pha trộn với nước để tưới rau cải cho xanh tốt rồi thu hoạch rau cải đó đem về cho tù ăn, vừa tiết kiệm được tiền mà kế hoạch canh tác luôn luôn bền vững không sợ thất mùa! Khi ra Bắc "ủ tờ" đã có 1 số tù nhân phe ta bị tử vong vì bệnh hoạn, già yếu, sức khỏe không cho phép tiếp tục lao động khổ sai với thời gian vô hạn định. Những người đã vĩnh viễn ra đi trong trại tù mà tôi còn nhớ một ít người như: Anh Quách Trung Chánh (Học Viện CSQG), bạn Vũ văn Nghi K3 (Phụng Hoàng BTL/CSQG), bác Bùi Hiền Tôn (NhaCSQG Đô Thành) là cha của K2 Bùi Hiền Danh, anh Lương văn Bê (Khối HQ/BTL/CSQG), anh Long (KHQ), anh Lạc (Phủ Đặc Ủy TU7TB), anh Uông Kim Cho (Kampuchia)... Phân trại C của trại Cải Tạo số 5 Thanh Hóa luôn tiết kiệm được "Hòm" để chôn tù nhân khi họ qua đời. Cả phân trại C chỉ có 1 cái "Hòm" không đáy. Mỗi khi có tù nhân chết thì họ để 1 miếng ván lót dưới đáy hòm vào, rồi bỏ xác chết vào hòm, khiêng ra tới huyệt đào sẵn, đặt hòm trên huyệt rồi rút tấm ván lót dưới đáy hòm ra để thân xác chết rơi xuống huyệt, lấp đất lại chôn, còn cái hòm thì khiêng về trại để đó, chờ khi nào có tù nhân chết nữa thì cứ vậy mà làm. Chỉ có 1 cái hòm mà chôn không biết bao nhiêu tù nhân chết trong trại. Mồ mã thì được chôn trên 1 ngọn đồi thấp có tên là "Đồi Xã". Mồ mã không có mộ bia mà được đánh số thứ tự trong 1 sơ đồ do trại thiết lập. Khi thân nhân đến viếng mộ thì cán bộ trại cầm theo cái sơ đồ ra đồi Xã đi lòng vòng để đếm số thứ tự ghi trong sơ đồ rồi chỉ cho thân nhân: mộ nầy. Cán bộ đi về trại, thân nhân ở đó mặc sức mà đốt nhang, khấn vái, khóc than, thật quá thê thảm !!!
Trong thời gian ở Phân trại C, tôi nằm trong Đội làm đất, đóng gạch gần đó nên thường xuyên theo dõi và thấy tù hình sự khiêng hòm ra đồi Xã rồi lại khiêng hòm về trại. Thân nhân khi vào trại thăm nuôi tù nhân thì được cán bộ nữ dẫn ra thăm mộ ở đồi Xã vì tù nhân đã qua đời mà thân nhân không hay biết gì. Một hôm đang sắp gạch đã được nung chín mà cứ theo dõi đám ma của tù hình sự, một cục gạch từ trên cao rớt xuống làm mất nguyên móng chân cái, không đi được phải nghỉ 5 ngày và đi cà nhắc. Nay đã có móng chân mới thay thế mà dày cộm xem không giống ai. Đó là thành tích của lao động là vinh quang, lang thang thì không có gì hết !!!
Chính sách "Cải
Tạo" hay "ủ tờ" cũng đã làm cho biết bao gia đình tan nát, phân
ly: con mất cha, vợ mất chồng và chồng mất vợ. Chúng ta cũng thật là nể trọng,
khen ngợi và ca tụng các bà vợ đã thay chồng nuôi dạy con cái và thăm nuôi chồng
đang trong cảnh tù tội khổ đau. Có nhiều bà vợ đã lặn lội thân cò đi thăm chồng
đang bị giam cầm ở tận miền Bắc trong rừng núi xa xôi. Đây là một tấm gương
thật tốt đẹp cho người đàn bà Việt Nam trong cuộc đổi đời đầy gian truân khổ
ải.
Ngược lại, sự thủy chung của một số ít vợ chồng không còn được trọn vẹn như chuyện "Đồi Thông Hai Mộ" ở Đà Lạt năm xưa. Chuyện kể lại sự thủy chung giữa một anh Sinh Viên Võ Bị Đà Lạt khi ra trường phải đi chinh chiến ở miền xa. Người tình sau nhiều năm chờ đợi không thấy tin tức gì, nàng tưởng rằng người yêu đã tử trận ngoài chiến tuyến nên đành quyên sinh để giữ trọn lời thề. Thân xác nàng được chôn cất bên bờ hồ Than Thở, chỗ mà hai người thường hẹn hò gặp nhau, có thông reo bóng mát, mỗi cuối tuần khi anh SVVB ra phép. Lâu ngày khi được về phép anh sĩ quan Võ Bị Đà Lạt vội vã trở lại Đà Lạt để thăm người yêu thì chỉ còn thấy mộ nàng. Anh Sĩ Quan Võ Bị chỉ còn biết thắp hương khấn vái và xin lỗi nàng, vì mình quá bận rộn việc nước non và xin hẹn gặp lại nhau nơi miền Vĩnh Cửu. Sau nầy khi trở lại chiến trường không may anh bị tử thương ngoài mặt trận.Thân xác của anh cũng được thân nhân mang đến chôn cất bên cạnh mộ người yêu. Thế là hai người vẫn giữ được thủy chung cho đến cuối cuộc đời và ở nơi miền vĩnh cửu nữa.
Còn chuyện anh em sĩ quan, viên chức của chính phủ VNCH bị đày đi "Ủ Tờ" thì 1 số ít bà vợ ở nhà cũng mỏi mòn trông đợi mà ngày về của chồng xa lắc xa lơ nên đành cất bước sang ngang vì một lý do nào đó. Một số ít bà được ra nước ngoài rồi cũng chuyển qua "Thuyền khác" vì thuyền cũ còn mắc kẹt trong tù Cộng sản. Khi chồng được ra tù CS anh vội vàng đi sang tìm vợ con thì vợ anh không cho anh vào sống chung vì bà đã có chồng khác. 1 vài trường hợp khi mới qua Mỹ tôi cũng có gặp đó là khi vượt biên, 1 ông có vợ còn kẹt ở VN gặp 1 bà có chồng còn kẹt trong lao tù CS. Họ gặp nhau trên đảo tị nạn, nên mới làm 1 cái "Hợp Đồng" để sống chung và có chỗ nương tựa nhau ở nơi xứ lạ quê người. Đến khi nào vợ hoặc chồng đôi bên ở VN qua thì hợp đồng đó hết hạn và họ sẽ trở về sống với vợ hay chồng của mình. Có trường hợp chồng hay vợ qua tới thì 1 trong 2 người không chịu hủy bỏ hợp đồng, vì thấy người vợ hay chồng mới sang đã "Lỗi Thời" không còn "thích ứng" để sống chung với họ được. Thế là người "Bạn Đời" trước đây chỉ là bạn "Tạm Thời" thôi. Anh hay chị phải đi chỗ khác chơi!
Tệ hại hơn nữa, có 1 bà không cho chồng của mình vô nhà ở khi anh ra trại tù Cộng sản, vì trong nhà cũ của anh đã có 1 anh cán bộ VC vào thế chỗ. Trước khi đi "ủ tờ" anh đã có 2 đứa con. Nay bà vợ cũng tạo được 2 con cho anh chồng cán bộ thế chỗ của anh khi anh đi tù CS. Thế là anh phải xách gói ra ngoài trại cưa để sống qua ngày. Sau đó anh và 2 con của anh được đi Mỹ theo diện HO. Bà vợ ở lại với chồng cán bộ và 2 con mới của bà.
Mấy năm sau đó bà ta cũng muốn đi Mỹ nên 2 con của anh phải bảo lãnh cho mẹ nó sang. Mấy ngày đầu đến sum họp cùng chồng cũ và 2 con, anh bỏ ra ngoài phòng khách ngủ, nhường cho bà vợ vào ngủ phòng của anh. Sau nhiều ngày lạnh lẽo, nhứt là mùa đông, bà vợ ra nắm tay ông chồng cũ dẫn vào phòng để "Nối lại tình xưa". Anh chồng cũ cũng lịch sự bèn "Tuân Lệnh" của bà. Qua được Mỹ rồi mỗi năm bà lại về VN để thăm anh chồng cán bộ và 2 con sau của bà cho được "công bình".
Thật quá hay, vì bà biết cách đối xử rất tốt với chồng con, chồng nào cũng là chồng, con nào cũng là con của mình! Tiếp tục bà lo bảo lãnh 2 con sau của bà được qua Mỹ sum họp mẹ con. Rồi bà sẽ bảo lãnh ông chồng cán bộ qua thế chỗ anh chồng cũ. Anh chồng cán bộ khi qua Mỹ sẽ không bị trả thù, không bị đuổi ra sống ở trại cưa như ở VN, vì anh chồng cũ đã qua đời rồi. Nếu anh chồng cũ còn sống thì khi ra sân đá banh để tranh tài thì bà vợ sẽ đứng giữa tay mặt cặp cổ ông chồng cũ, tay trái cặp cổ anh chồng cán bộ, còn 2 con của ai thì sắp hàng sau lưng của cha nó. Lúc cuộc đấu bắt đầu thì 2 ông chồng sẽ giữ 2 "Gôn", bà làm trọng tài, mỗi đội banh có 2 cầu thủ sẽ quyết liệt tranh tài. Đội nào thắng bà sẽ cho phần thưởng, đội nào thua cũng không bị phạt, vì các cầu thủ đều là con của bà và 2 thủ môn cũng là chồng của bà, ai nở lòng nào mà phạt cho đành! Các bạn thấy không, bà rất tình cảm và biết cách đối xử rất tốt đẹp với đại gia đình của bà. Kế hoạch sau cùng là bà sẽ chọn mua 3 phần mộ ở nghĩa trang nào có đồi thông như ở Đà Lạt. Xác của ông chồng cũ sẽ được lấy cốt đem về chôn ở nghĩa địa mới. Bà dặn dò các con của bà khi nào bà qua đời và anh chồng cán bộ cũng chết thì chôn bà ở giữa, ông chồng cũ đã lấy cốt chôn bên tay mặt của bà, còn ông chồng cán bộ thì chôn bên trái mộ bà. Lúc đó ta sẽ có chuyện "Đồi Thông Ba Mộ". Câu chuyện quá hay và quá đặc biệt. Khi sách in ra để bán tôi nghĩ chắc nhà xuất bản không in kịp để bán cho khách Việt Nam mua đọc. Đây là một chuyện tình đầy thủy chung, hiếm có và rất đáng khen cho 1 người đàn bà VN đã biết lựa chọn cách sống "thích hợp" với xã hội mới và biết cách cư xử tử tế với đại gia đình của bà khi vận nước mới đổi thay !!!
Nay 41 năm đã trôi
qua, khi nhớ lại chuyện cũ thì thật quá đau buồn. Phần đông anh em chúng ta may
mắn hơn một số ít anh em gặp phải cảnh tệ bạc trong cuộc đời. Chúng ta không bị
chết trong tù sau một thời gian khổ sai vô tận. Khi ra tù chúng ta được sum họp
cùng gia đình, cha mẹ, vợ con. Hiện nay chúng ta đang yên tâm vui sống nơi xứ
người, không còn lo việc chuyển trại, không lo sợ bị còng tay, không lo bắt đi
gánh phân, không lo ăn độn bo bo còn nguyên võ, không còn nghe nói dóc nói gạt
hay cảnh đời bon chen vì lợi ích cá nhân của một người mà nỡ lòng nào gây thiệt
hại cho nhiều người khác cũng là bạn bè đồng cảnh ngộ tù tội như mình. Tôi nghĩ
mỗi người chúng ta có số mạng khác nhau và chuyện vợ chồng cũng là duyên nợ.
Mình rơi vào vị thế nào rồi thì khó mà cưỡng bức lại được số trời đã định. Thôi
chúng ta hãy cùng nhau yên phận và vui sống với tuổi già như hiện tại là hạnh
phúc lắm rồi./.
NGUYỄN VĂN LINH
Trung Đội 24/ĐĐ102
K2/HV/CSQG.
Xong Thanksgiving Tạ Ơn Ai - Lê Xuân Cảnh
Thưa quí anh chị,
Sau khi bài Thanksgiving Tạ Ơn Ai được chuyển lên diễn đàn tmg, tôi đã nhận được một số Feedback đầy khích lệ của các anh chị trong group. Để đáp lại thịnh tình của các anh chị, tôi xin có bài thơ sau đây:
Xong Thanksgivings, Tạ Ơn Ai ?
Bác Bình, bác Hãn, Út Oanh đây,
Tiểu Thu, Tố Kim, bác Vĩnh Chánh,
Hoàng Yến, bác Khang và bác Lai,
- Lại thêm bác Thịnh lần này,
Khen, tớ nở mũi, phải xài contact lenses ! (*)
- Bác Bình khuyên: tiếp-tục thêm !
- Bác Hãn phê: tới lắm, khen đây mà !
- Đến Út Oanh mới “mặn mà”:
“Tài tình” mà lại type ra “Tàu tình”,
“Love Boat” làm thất-kinh!🫣😃
(Lỗi typo nằm chình-ình,
Viết xong là gửi có nhìn lại đâu !
Biết Út bận như ong bầu !
Ghẹo Út một chút, đừng càu-nhàu nhe !)
- Tới chị Tiểu Thu mới phê !
“Đè đầu” ông xã đến . . thè lưỡi ra,
Mỗi lần một kiểu khác nha !
Đúng là văn-sĩ khác ta, khác người !
Hên xui may rủi vẫn cười !
Hihi là tiếng chị tôi cười gằn !
Huhu mới là giọng anh,
Đầu bị đè bởi bà văn-sĩ này !
Cắt xong đẹp xấu biết ngay,
Hên xui, may rủi trong tay nàng mà !
- Đến Tố Kim của chúng ta,
Hớt tóc cho chồng mới là thật vui !
Tóc quăn thì tỉa sơ thôi,
Nay tóc ít rồi thì chụp nón lên !
Cho chàng dạo phố mình ên !
Bỏ mấy ngày liền không thấy gái theo !
Lúc trẻ tóc quăn mới cute,
Giờ còn vài sợi, tiêu-điều ai ham ?
- Bây giờ là tới Yến Hoàng,
Cứ đụng tới nàng là có nhạc, thơ !
“Tạ Ơn Em” tự bao giờ?
Từ lúc ta vờ “Giữ Đời Cho Nhau” !
Không Tóc Tai, Không Đuôi Đầu !
Muốn Chắc Cứ Nhào Vào “Tạ Ơn Em” !
Tạ không trúng cứ Tạ thêm 😃
Ngay Công Phụng cũng không quên tạ hoài ?
- Nói tới bác Chánh mới tài !
Mọi chuyện trong ngoài bác nắm hết trơn,
Hình-ảnh được lưu-trữ luôn,
Dẫn-chứng ngọn nguồn, chính-xác là ông,
Không phải chỉ có viết không,
Thỉnh thoảng lại đi hát rong với nàng,
Đã có lần tớ được đàn,
Đệm cho đôi trẻ hát vang cả nhà,
Ước gì một ngày không xa,
Lại được khề-khà cùng nhau đàn ca,
- Tới bác Khang rồi đây nha !”
Bác-sĩ, Nhạc-sĩ, Văn-gia tài-tình,
Quên tạ ơn bà xã mình,
Nhưng rất thực-tình thẳng thắn nói ra !
“Người Khen Ta Là Thầy Ta !”🫣😃
(Câu này Khổng Tử nói ba . . . triệu lần !)😃
Khen Đúng thì tốt bội phần !
Khen Sai thì sẽ dần dần Đúng thôi !
Người được khen sướng tơi-bời,
Sẽ Cố Gắng Sống Như Lời Khen Sai !
Nhờ thế biến Dở thành Hay !
Xin cám ơn Thầy Khang đã có khen !
Từ nay trữ contact lenses ! (*)
Vẫn sẽ cố-gắng không thèm “đẹp chai” !
😃😃😃
- Cuối cùng xin thưa bác Lai !
(Là người đã gài giúp tớ làm thơ !
Không những dễ còn better !
Tiếng Việt bí cứ gài vô tiếng Anh !
Ấy thế là làm được nhanh,)
Bác nhắc về việc thực-hành văn xuôi !
Xin vui lòng trả lời tôi,
VẦN, XUÔI gì cũng phải đòi thời-gian !
Trường-hợp của Bác-sĩ Khang,
Y-khoa, Âm-nhạc, Thơ, Văn dài dài,
Một tuần ta có bảy ngày,
Riêng bác Khang có trong tay 8 days,
Làm sao được extras này?
Xin niên-trưởng cố giải-bày dùm tôi !
@@@@
Sau Thanksgiving, Tạ Ơn Thôi !
🙏🙏🙏
LXCảnh
(*) Mũi nở lớn, không mang kính được !
Nên phải cần đeo contact lenses !
Càng dở mà càng được khen,
Có khi mũi nở đến gần mang tai,
Không cẩn-thận là bị hoài !
😃😃😃
Monday, December 2, 2024
Tâm Sự Bạn Già - Trần Quốc Bảo
Chớ than “khổ”! - Tuổi nào mà chẳng khổ?
Quan niệm “vui”. Thì Trưởng Lão vẫn vui!
Già khòm lưng, vì gánh nặng tình đời,
Đầu cúi thấp, tựa hồ bông lúa chín.
Tự biết mình cổ lỗ, nên nhường nhịn,
Tránh một bên, cho hậu duệ tiến lên.
Tre già măng mọc, thuận lẽ tự nhiên.
Con hơn cha, ấy là nhà đại phúc!
Mình đã tận hưởng, cuộc đời trần tục,
Giờ buông lơi, cho khỏe cái thân già!
Coi lợi danh bù trớt, kể như pha!
Qúi nhất đời người, ấy là "Tích Đức".
Xe bọc thép, cũng có ngày rỉ mục,
Huống chi người, tám chín chục xuân qua!
Chuyện đương nhiên, tai nghễnh ngãng, mắt nhòa,
Gối mỏi lưng đau, quên sau quên trước.
Hãy chấp nhận, miễn cứ “vui” là được!
Chống gậy phiêu phiêu, vui bước thong dong,
Ly cà phê sáng, ngắm mặt trời hồng,
Chung trà trưa, đậm hương sen hảo hạng!
Đêm say sưa, mơ theo ngàn sao sáng,
Bóng trăng ngà, lờ lững cánh mây bay.
Ngày ngâm nga, thú vị áng thơ hay,
Gió hiu hắt lắt lay cành liễu rũ.
Tri nhàn đãi nhàn tiện nhàn, là đủ,
Tâm an hòa - Chớ ủ rũ thiệt thân!
Chuyện tử sinh; ai cũng có căn phần…
Được sống ngày nào, cứ vui ngày nấy!
Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia
Địa
chỉ điện thư của tác giả: