Người miền Nam có câu nói ám chỉ một sự
việc xa vời, vô định, vô vọng và chìm sâu vào tuyệt vọng: “Mút chỉ cà tha”.
Những tưởng học tập cải tạo 10 ngày để rồi
trở về với cuộc sống bình thường hàng ngày, ai ngờ đã qua 10 ngày mà vẫn thấy
chưa học tập được một chữ nào! Thế cho nên chúng tôi bảo nhau: “Kiểu này học tập...
mút chỉ cà tha!”
Sau này tình cờ đọc Cánh đồng bất tận của
Nguyễn Ngọc Tư (một nhà văn nữ ở miền cực Nam đất nước) tôi mới biết Mút Cà Tha
là một địa danh có thật, ở tận miệt Cà Mau, nơi có những tên đượm sắc Nam bộ
như Đầm Chim, Đầm Dơi, Chắc Băng, Cạnh Đền, Gành Hào, Năm Căn, U Minh, Trèm Trẹm
và… Mút Cà Tha! Có lẽ cù lao Mút Cà Tha hàm ý nơi tận cùng của miền cực nam đất
nước nên mới có thành ngữ “mút chỉ cà tha”, đi hoài không tới! Đối với người cải
tạo cũng vậy, học hoài không về!
Sau buổi sáng ngày 30/4/1975, cuộc đời
tôi hoàn toàn thay đổi. Đang từ một anh Trung úy giảng viên Anh ngữ, ngày ngày
lái chiếc Honda SS50 đến trường Sinh ngữ Quân đội, tôi bỗng trở thành một người
thất nghiệp với một tương lai vô định trước mắt. Nhưng thất nghiệp cũng không
quan trọng bằng trạng thái tâm hồn bất ổn, lo sợ, không biết mai sau mình sẽ ra
sao trước một ngã rẽ lịch sử: sự sụp đổ hoàn toàn, từ những mảnh đời riêng tư
cho đến cả một vận nước.
Đối với người bị tập trung học tập cải tạo,
có lẽ đây là thời kỳ u ám nhất trong cuộc đời. Không u ám sao được khi trước
1975, chúng tôi là những thanh niên tràn đầy sức sống, theo đuổi những mục đích
và tham vọng riêng tư của tuổi trẻ nay bỗng trở thành những người sống trong trại
tập trung. Chúng tôi sống trong thân phận tù đầy nhưng chính quyền mới đã luôn
luôn khẳng định, đây không phải là nhà tù mà đây là nơi học tập cải tạo.
Những người tù bình thường – dù có phạm
tội cướp của, giết người – cũng có bản án để biết ngày được tự do. Ngược lại,
những người cải tạo không bao giờ có được bản án để trông mong ngày về. Thay
vào đó là châm ngôn được cán bộ quản giáo lập đi, lập lại: “Học tập tốt, lao động
tốt, các anh sẽ được về sum họp với gia đình”. Có điều, tiêu chuẩn để đạt được
những cái tốt đó chỉ lơ lửng ở phía trước, tựa như củ cà rốt treo trước mắt con
thỏ trong một cuộc chạy đua dường như không bao giờ đến đích.
Ngày đi học tập, sĩ quan cấp úy và nhân
viên ‘ngụy quyền’ đều tin tưởng chỉ kéo dài 10 ngày theo tinh thần thông báo của
Ủy ban Quân quản: “… Đem lương khô đủ dùng trong thời gian 10 ngày…”. Trước đó,
hạ sĩ quan chỉ học tập đúng 3 ngày theo lệnh của Ủy ban Quân quản và dĩ nhiên
10 ngày dành cho sĩ quan là cái giá hợp lý nhất phải trả trước khi trở về với
cuộc sống bình thường.
Bác sĩ Nguyễn Phước Đại, Giám đốc Bệnh
viện Sài Gòn trước năm 1975, có liên quan đến một giai thoại khá dí dỏm mà tôi
nghe được qua bà xã, vốn là nhân viên của bệnh viện. Ông Đại là một bác sĩ giỏi,
người gốc miền Nam, nhưng lại là dân ở Pháp về nên khi nghe thông báo đem
‘lương khô’ đủ dùng trong 10 ngày, ông hỏi lại nhân viên: “Tôi không ăn được
‘lươn khô’, đem những thứ khô khác như cá khô không biết có được không nhỉ?”.
Tuy đầu óc đang căng thẳng vì lo cho chồng con nhưng đám nhân viên không khỏi
phì cười vì sự nhầm lẫn giữa ‘lương khô’ và ‘lươn khô’ của ông bác sĩ từ bên
Tây về.
Ngày bước lên xe Molotova để đến Trảng Lớn
(Tây Ninh), tôi thoáng nghe hai anh cán binh ‘áp tải’ nói chuyện với nhau:
- Mấy anh ngụy này rắc rối quá, đã đi cải
tạo mà còn mang vợ theo nữa!
Số là có mấy sĩ quan nữ quân nhân cũng
trình diện nên bị hai anh cán binh trẻ tuổi hiểu lầm là vợ của người đi học tập.
Lòng lúc đó đang chùng xuống nhưng khi nghe câu chuyện của kẻ cầm AK đi áp tải
lại thấy buồn cười vì những sự ngộ nhận ngây thơ của những kẻ chiến thắng.
Tiếng là học tập nhưng chỉ có vài bài, học
hoài mà vẫn chưa về! Các bài giảng của cán bộ quản giáo được truyền tải trên hội
trường, có sức chứa hàng trăm… học trò. Đại khái như trong bài “Đế quốc Mỹ là kẻ
thù của dân tộc”, quản giáo lên lớp: “Mỹ là nước tư bản bóc lột… ngay đến tổng
thống của Mỹ là Pho [Gerald Ford] cũng là trùm tư bản có công ty ô tô nổi tiếng
là… hãng xe Pho (!)”.
Nhìn chung, người cải tạo là những kẻ… lạc
quan tếu. Khi ăn hết 10 ngày lương khô mà vẫn chưa thấy được về, người ta lại
trông mong đến ngày Quốc khánh 2/9 chắc sẽ về. Lại mong đến Tết sẽ về nhưng có
lẽ là… Tết Congo chứ không phải là Tết của ta. Đến khi đó, mọi lạc quan đều tắt
ngấm để thay vào đó là ảo vọng “Học tập tốt, lao động tốt sẽ được về…”.
Chúng tôi đón cái Tết đầu tiên trong tù
mà nhiều người vẫn còn lạc quan khi nghĩ rằng đó là cái Tết duy nhất phải xa
gia đình! Trước Tết có một biến cố lớn trong trại mà nhiều người lạc quan, vẫn
còn lạc quan, nghĩ rằng có một số người may mắn được về sum họp với gia đình
nhân ngày Tết.
Những người cải tạo được lệnh tập họp với
tất cả đồ dùng cá nhân. Một thoáng ‘hồ hởi’ khi nghĩ rằng đã đến lúc… xả trại.
Chúng tôi được chia thành hai nhóm theo danh sách đã có từ trước. Người nhóm
nào cũng tự hỏi không biết nhóm của mình có phải là nhóm được về ăn Tết hay
không.
Tôi thuộc nhóm ở lại Trảng Lớn. Nhóm rời
trại, mãi sau này mới biết, họ lên xe trực chỉ Sài Gòn nhưng đó không phải là
điểm đến cuối cùng. Họ được đưa đến bến tàu để tiếp tục cuộc hành trình ra đảo
Phú Quốc! Hóa ra họ là những thành phần được xếp vào loại ‘ác ôn, có nợ máu với
nhân dân’. Họ là những ‘thiên thần mũ đỏ’ (Nhảy dù), ‘lính thủy đánh bộ’ (Thủy
quân lục chiến), ‘cọp 3 đầu rằn’ (Biệt động quân), ‘giặc lái’ (Phi công), ‘giặc
nói’ (Chiến tranh chính trị)…
Khi người Sài Gòn được bắt đầu thăm nuôi
thân nhân tại trại cải tạo Trảng Lớn thì mọi hy vọng được về đều tan biến. Tôi
đã có lần hỏi chuyện một ông cụ già đi thăm con về tình hình… ngoài đời. Qua lớp
hàng rào kẽm gai ngăn cách giữ khu dành cho người cải tạo và con đường dẫn vào
khu thăm nuôi, tôi hỏi vói:
- Bác ơi, Sài Gòn bây giờ ra sao hả bác?
- Sài Gòn bây giờ mấy tiệm bán mắt kính
dẹp hết rồi… người nào người nấy sáng mắt lắm, đâu cần mang kính nữa cháu à…
Thật ý nhị. Câu chuyện thuộc loại ‘khôi
hài đen’ ngắn gọn của ông cụ đã nói lên tất cả.
Sau bao thời điểm hy vọng ngày về, chúng
tôi tập làm quen với ý tưởng “an tâm cải tạo”. Trước mắt, trại ra lệnh ‘cuốc đất
trồng rau’ (nói theo cán bộ quản giáo là tăng gia sản xuất) trên những khu đất
hoang xung quanh trại. Phải đến giai đoạn này mới thấy được ‘óc sáng tạo’ của
các bạn đồng cảnh. Không có cuốc xẻng nhưng mọi người nghĩ ngay đến việc chế
tác các dụng cụ nông nghiệp từ những đồ phế thải trong nhà kho của căn cứ Trảng
Lớn.
Rau muống gieo bằng hột, trồng trên đất
khô và được chăm sóc rất kỹ nên mọc cao như cây thân thảo, cao đến cả thước chứ
không như rau muống mọc ngoài ruộng. Rau muống tốt một phần nhờ nước tiểu và
phân xanh do chính chúng tôi sản xuất. Như vậy là đã hoàn thành một chu trình
khép kín: ăn vào, thải ra, bón cây rồi lại tiếp tục ăn vào…
Trảng Lớn ngày xưa có một sân bay dã chiến
L19 được lót bằng những tấm vỉ sắt. Chúng tôi gỡ những tấm PSP (Perforated
Steel Plate) của quân đội Mỹ, mỗi tấm rất nặng, phải cần đến ít nhất 6 người
khiêng mới có thể đem về trại dùng trong rất nhiều việc: lót quanh giếng để tắm
rửa, làm phản để ngủ, thậm chí còn dùng để lót cầu tiêu tập thể trong đội.
May mắn cho những người cải tạo tại Trảng
Lớn là chúng tôi được thừa hưởng và tận dụng những ‘tiện nghi tàn dư’ của quân
đội VNCH còn rất nhiều trong căn cứ sư đoàn 25. Từ những mảnh tôn người ta có
thể gò thành gàu múc nước, nồi nấu ăn… Từ những sợi bao cát người ta có thể xe
thành sợi dây thừng để làm giây kéo gầu múc nước từ giếng lên. Nếu khéo tay
hơn, những bao cát có thể được biến thành những chiếc áo khoác rất… thời trang!
Mỗi lần được ra phi trường L19 ‘lao động’
chúng tôi cũng không quên săn nhặt những mảnh nhôm còn sót lại trên xác trực
thăng để tha về đội. Vào những ngày cuối tuần, nghỉ lao động, là những giờ phút
lao động ‘tự biên, tự diễn’. Chỗ này làm lược, chỗ kia làm vòng. Những vật dụng
đó không xuất phát từ nhu cầu hàng ngày trong trại cải tạo mà lại là những kỷ vật
dành cho người thân để kỷ niệm một thời cải tạo.
Chỉ cần trong đội có một người giỏi nghề
sẽ hướng dẫn cho những người còn lại cách ‘xủi’ những hoa văn trên chiếc lược
hoặc chiếc vòng nhôm là có một vật kỷ niệm từ trại cải tạo… Bạn cũng có thể học
nghề ‘gò’ những tấm tôn cũ thành nồi nấu ăn, thùng đựng nước hoặc gàu múc nước.
Rất nhiều thứ có thể học trong trại cải tạo, trừ một thứ là các bài học chính
trị…
Cho tới giờ này tôi còn giữ được hai kỷ
vật từ trại cải tạo: chiếc vòng đeo tay và chiếc lược bằng nhôm. Trên chiếc
vòng tôi ‘xủi’ tên hai vợ chồng và 4 đứa con, trên chiếc lược là hình hoa văn với
hai chữ CG. Vòng và lược hiện nay 2 đứa cháu ngoại ‘xí’ phần, chúng gọi đó là
những kỷ vật ‘may mắn’ được ông ngoại đem về từ trại cải tạo. Vật may mắn đó
nay đã truyền sang thế hệ thứ ba để nhắc lại thời kỳ đau khổ trong một giai đoạn
lịch sử của đất nước.
Tôi đã học viết chữ Hán từ một anh bạn
người Việt gốc Hoa. Giấy viết là bất kỳ một mảnh nào có thể dùng như giấy hoặc
dùng que tập viết lên mền đất, thứ bảng viết vô tận mà thiên nhiên đã ưu ái
dành cho những kẻ hiếu học từ ngàn xưa. Nếu viết trên giấy bằng que thì mực là
thuốc đỏ pha loãng, trông không kém gì mực Tàu.
Tôi cũng dành thì giờ để dậy Anh văn cho
những người muốn học. Không có giáo trình nên cứ dậy tùy theo hứng của thầy
nhưng vẫn đủ các môn như từ vựng, ngữ pháp và cả đàm thoại. Hai năm rưỡi trong
trại cải tạo và 9 tháng trong ‘lò bát quái’ Chí Hòa tôi có rất nhiều học trò,
giờ thì một số đã định cư tại nước ngoài, trình độ tiếng Anh của họ chắc đã qua
mặt thầy…
***
Thời gian cải tạo là một cực hình đối với
những kẻ ghiền thuốc. Đã có những cảnh ‘bắt dế’ khi mới bước vào những ngày đầu
cải tạo. Khi thuốc mang theo đủ hút cho 10 ngày cạn dần mà vẫn chưa thấy ngày về,
kẻ hết thuốc bắt đầu khi tìm ‘dế’ là những mẩu thuốc cuối người ta thường vất
đi.
‘Bắt dế’ tức là đi gom mẩu thuốc bỏ đi,
gỡ phần sợi thuốc còn sót lại để quấn thành một điếu mới. Phần còn sót lại luôn
luôn chứa nhiều nicotine nhất và cũng là phần nguy hiểm cho sức khỏe nhất nhưng
lúc ghiền thì đâu xá gì ung thư phổi.
Khi không còn dế để bắt, người ta lấy lá
khoai mì xắt mỏng như sợi thuốc, xin một tý nước đen ngòm trong ống điếu thuốc
lào trộn vào với lá khoai mì sẽ có một thứ sản phẩm trông giống y như sợi thuốc
lá. Hút lá khoai mì sẽ bị ho nhưng lúc đã quen rồi thì những cơn ho sù sụ cũng
biến mất…
Tôi cũng là người nghiện thuốc nhưng
chưa bao giờ hút thuốc lào, có thể vì thành kiến với loại thuốc này nên có lúc
dù thèm thuốc lá nhưng chưa bao giờ thử ‘phê’ thuốc lào. Theo Đào Duy Anh, cây
thuốc lào có lẽ từ Lào (Ai Lao) du nhập vào Việt Nam nên mới có tên gọi như thế.
Sách Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn và Đồng Khánh dư địa chí gọi cây thuốc lào
là tương tư thảo, cỏ tương tư.
Hút thuốc lào phải dùng điếu cầy là một ống
tre, sang trọng hơn thì dùng điếu bát với một ống nhỏ bằng trúc để hút khói được
gọi là xe điếu. Trong cải tạo thì chỉ có loại điếu cầy làm từ ống tre nhưng nhiều
khi ‘vã’ quá, người ta có thể dùng lá chuối hoặc giấy cuộn lại, miệng ngậm một
ngụm nước là có thể ‘phê’ ngay. Phê đến độ có ‘anh nuôi’ ngồi trước chảo nấu
cơm, hút một ‘bi’ thuốc xong rồi cứ thế đâm đầu vào bếp lửa trong cơn say thuốc.
Trong cải tạo có anh đề cao thuốc lào là
“Thơm mồm, bổ phổi, diệt trùng lao!” hoặc nâng lên hàng ‘quan điểm’ “Hút thuốc
lào nâng cao sĩ diện”. Người ta, dĩ nhiên là người miền Bắc, ca tụng thuốc lào
một cách cuồng nhiệt:
Thuốc lào chồng hút vợ say
Thằng cu châm điếu lăn quay ra nhà
Có cô hàng xóm đi qua
Hít phải hơi thuốc say ba bốn ngày
Một thằng hút bốn thằng say
Hai thằng châm điếu ngã lăn quay
Bà già vác củi loay hoay
Rít phải hơi thuốc lăn quay xuống đồi
Ngọc hoàng thấy vậy hay hay
Vén mây nhìn xuống cũng say thuốc lào.
Bà Hồ Xuân Hương có một bài thơ ‘tả
chân’ rất ‘sex’ như sau:
Mông tròn vành vạnh, đít bảnh bao,
Mân mân, mó mó đút ngay vào
Thủy hỏa tương giao sôi sùng sục
Âm dương nhị khí sướng làm sao!
Mới đọc cứ tưởng như cảnh làm tình của
đôi trai gái nhưng thật ra bà tả cảnh… hút thuốc lào đấy! Trong trại tù thì chiếc
điếu cầy là hình ảnh quen thuộc lúc nào cũng đi sát với người cải tạo như vũ
khí bên mình, chẳng thế mà có nhiều anh ví von là đeo Bazôka!
Đến giai đoạn trại viên cải tạo được
đăng ký mua hàng ngoài chợ Long Hoa thì ‘thuốc rê’ là món ăn khách không thua
gì đường tán. Thuốc rê còn có tên gọi là ‘bốc lăn xe’, nghe có vẻ Tây lắm nhưng
kỳ thực ghép bởi các động tác bốc một dúm thuốc, lăn tròn trên giấy và xe thành
điếu thuốc! Nhà văn Hoàng Hải Thủy gọi thuốc rê thời này với một cái tên thật
buồn cười: “Bốc En Xe Ông Già Le Lưỡi Liếm”.
Hút thuốc rê có lợi là có thể tiết kiệm
thuốc nếu quấn theo kiểu ‘loa kèn’ tựa như các mệ ngoài Huế hút thuốc cẩm lệ.
Giấy cuốn thuốc rê có thể là báo cũ, mực in khi bị đốt cháy chắc sinh nhiều phản
ứng hóa học khiến người hút cứ bị ho triền miên.
Sướng nhất có lẽ là những anh… không hút
thuốc. Vào những ngày ‘nễ nớn’ ngoài việc được ‘ngã qua hàng thịt’, cách mạng
còn phát thuốc gói, ba bốn anh chia nhau một gói thuốc. Tôi nhớ hình như thuốc
Hoa Mai hay Đà Lạt gì đó. Vào thời đó, thuốc Tam Đảo, sản xuất tại miền Bắc, được
coi là… số một.
Đây là ‘thời cơ’ để những anh không hút
thuốc đổi thuốc lấy đường tán, thậm chí còn có anh đầu cơ thuốc lá để một khi
anh ghiền hết thuốc mới ra giá… cắt cổ! Đường tán là loại đường màu vàng, có
hình oval hoặc hình vuông được chế biến từ mía bằng phương pháp thủ công. Công
dụng của đường, dù là loại đường sơ chế, có tác dụng giúp cơ thể phục hồi sau
những giờ lao động cật lực. Có đi cải tạo mới thấy giá trị của cục đường mà hồi
xưa, lúc quá đầy đủ, người ta chưa bao giờ nghĩ tới.
Nói thêm về chuyện ‘ăn uống’ trong cải tạo.
Những người có ‘tinh thần ăn uống’ thường gặp nhau trong những bữa tiệc ‘hàm thụ’!
Bạn tha hồ kể lại những món ngon, vật lạ mà trước đây đã từng thưởng thức… Nào
là món vịt quay Bắc Kinh béo ngậy với lớp da giòn tan… tô bún bò với miếng giò
heo ninh nhừ cay sặc mùi ớt… miếng phá lấu thơm lừng mùi húng lìu… đĩa gỏi đu đủ,
gan cháy chỉ mới nghĩ đến thôi mà sao nước miếng cứ tiết ra ào ào…
Thời thế tạo anh hùng. Có anh với bộ nhớ
tốt, cứ tối đến là mọi người tụ tập để nghe anh kể chuyện. Toàn truyện Kim
Dung, từ Cô gái đồ long, Anh hùng xạ điêu cho đến Thiên long bát bộ, Lộc đỉnh
ký … Người nghe im phăng phắc để đầu óc có dịp phiêu lưu về một thế giới hư ảo.
Trả công cho người kể chuyện là cục đường tán, ly nước chùm bao… Hôm nào người
kể chuyện ‘khó ở’ hay chưa nhớ đủ tình tiết của truyện thì được thông báo: Truyện
từ Hồng Kông chưa qua kịp vì lỡ chuyến bay!
Có những đêm văn nghệ ‘bỏ túi’. Những
‘giọng hát vàng’ (dĩ nhiên là hát nhạc vàng), được phụ họa bằng cây guitar ‘cải
tạo’ nhưng cũng đủ 6 giây lại còn có tay gõ muỗng giữ nhịp. Có những anh trước
đây là nhạc sĩ, nhạc công đã tận tình phục vụ anh em để quên đi những thực tế
phũ phàng trong chuỗi ngày cải tạo. Xin cám ơn các anh.
***
Từ Trảng Lớn, chúng tôi được lệnh chuyển
trại lên Đồng Ban. Lên Đồng Ban mới là lao động thật sự nhưng nói chung mọi người
đều ‘hồ hởi’ vì có lao động mới hy vọng ngày về. Trước tiên là vào rừng đốn
cây, chặt lá về làm lán trại rồi phá đất hoang trồng khoai mì. Tại Đồng Ban vẫn
còn dấu tích những căn nhà lá bỏ hoang của những người đi kinh tế mới sống
không nổi nên bỏ lại để về thành phố.
Cuộc đời chúng tôi hình như gắn liền với
trảng: hết Trảng Lớn rồi đến Trảng Táo. Ở Trảng Táo có đường xe lửa chạy đến ga
Gia Huynh. Những lúc đi lao động dọc theo đường rầy xe lửa, hành khách trên tàu
chợ, thường là các bà đi buôn, nên đôi khi họ ném xuống đường đồ ăn, khi thì
vài cục đường tán khi thì gói thuốc rê cho những người cải tạo. Thật cảm động.
Xe lửa chạy nhanh nên người cho và người nhận chẳng thấy mặt nhau, chỉ đơn thuần
là tình người giúp nhau trong hoàn cảnh… lá nát đùm lá rách.
Dù sao đi nữa, chúng tôi thấy mình vẫn
còn may mắn được sống trong sự đùm bọc ở miền Nam nếu so với những bạn bè học tập
tại miền Bắc. Họ chịu đựng nhiều gian khổ gấp trăm ngàn lần so với chúng tôi và
nhất là chịu sự lạnh nhạt của những người xung quanh. Vào thời điểm đó, ảnh hưởng
của tuyên truyền về Mỹ-Ngụy vẫn còn sâu đậm trong suy nghĩ của người miền Bắc.
Sự thật là như vậy và không có điều gì để chê trách họ.
Tôi nghĩ, cuộc đời thăng trầm tựa như
chuyện Tái Ông Thất Mã. Rủi may, may rủi – họa phúc khôn lường. Hóa ra đời chỉ
là một chuỗi diễn biến đan xen lẫn nhau giữa buồn-vui, vinh-nhục, thắng-bại tựa
như những đợt sóng xô đuổi nhau vỗ vào bờ…
Chuyện xưa kể rằng có ông lão họ Tái bị
mất ngựa, hàng xóm thấy vậy đến chia buồn, ông lão đáp: “Mất ngựa chưa chắc đã
là chuyện buồn!’. Quả nhiên, ít lâu sau con ngựa bị mất trở về, lại dẫn thêm ngựa
con. Hàng xóm thấy vậy đến chia vui, ông lão lại đáp: “Được ngựa chưa chắc là
chuyện vui!”. Người con ham cưỡi ngựa mới nên bị té gãy chân, hàng xóm lại đến
chia buồn. Ông lão nói: “Chưa chắc té gãy chân là chuyện xui xẻo!”. Quả nhiên,
lúc đó làng bắt lính nhưng vì gãy chân nên đứa con ông lão họ Tái khỏi phải đi
lính…
Cuộc đời cũng giống như chuyện ông già mất
ngựa. Những người vượt biên trước khi được sung sướng đến bến bờ tự do cũng đã
phải trải qua quá nhiều gian nan, khổ ải… Những người ở lại có cuộc sống cùng cực
nhưng rồi tình hình thay đổi, họ cũng cố tìm trước mắt một tương lai để hy vọng.
Buồn-vui, may-rủi cứ thay nhau đến rồi đi.
Hàn Tín xưa kia là anh đánh cá nghèo hèn
đến độ phải lòn trôn gã bán thịt giữa chợ. Thế mà sau này lại là một danh tướng
trong thời Hán Sở tranh hùng, có công rất lớn trong việc giúp Lưu Bang đánh bại
Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài suốt 400 năm. Xét cho cùng, cuộc đời ‘lên voi
xuống chó’ của Hàn Tín bao gồm những nỗi nhục-vinh, họa-phúc khôn lường của một
anh đánh cá hạ cấp đến vai trò của một danh tướng với những chiến thuật, chiến
lược dương đông kích tây, minh tu sạn đạo…
Cuộc đời vinh quang tột đỉnh của một Hàn
Tín, vị danh tướng bách chiến bách thắng, lại kết thúc bằng một cái chết oan ức
bởi chính tay Lưu Bang càng làm rõ thêm những tinh túy của truyện Tái Ông Thất
Mã.
Không có gì là tuyệt đối trong cuộc đời
này.
Nguyễn Ngọc Chính
No comments:
Post a Comment