Tin nhắn từ một người quen về vợ chồng chú em họ ở ngoài Bắc sẽ đến thăm làm ông
bà Thịnh vừa mừng vừa lo. Mừng vì gặp lại người thân sau hơn hai chục năm trời
xa cách. Nghe nói chú em là là cán bộ trong ngành công an. Chỗ người nhà, có gì
cần nhờ cậy cũng yên lòng. Lo vì chẳng biết lòng dạ của người đã thấm nhuần chủ
nghĩa cộng sản như thế nào. Người em họ mà tuổi còn chạy nhẩy lúc nào cũng quanh
quẩn bên ông chẳng biết có còn chút tình nghĩa gia đình hay lại khô cằn hơn một
hòn đá vô sản.
Ông bà Thịnh cùng là giáo chức của một trường trung học
rất nổi tiếng ở Sài Gòn. Ba người con được ông bà thu xếp đi ra khỏi nước trên
một tầu buôn sang Hồng Kông mấy ngày trước khi những chiếc mũ cối của bộ đội
cộng sản nhởn nhơ trên đường phố Sài Gòn. Ông Thịnh lý luận với vợ dù cho cộng
sản có khát máu đến đâu thì chắc cũng chẳng đụng chạm gì đến những người chỉ
biết dậy dỗ bọn trẻ nên người. Ông lẩm bẩm “có chính chị chính em gì đâu”. Bà
Thịnh, trái lại, sợ đến tắt thở. Qua báo chí, bà đọc tin tức bọn Khmer Đỏ giết
đến gần một nửa dân số Miên mà đa số những người này chỉ phạm một cái tội là
biết đọc biết viết. Đã đến nửa tháng sau ngày Sài Gòn rơi vào tay những người
cộng sản miền Bắc mà chẳng thấy máu lửa gì nên ông bà Thịnh cũng bớt lo. Mấy
“thằng 30 tháng 4” chạy lăng xăng như gà mắc đẻ trước cửa nhà nhưng đứa nào cũng
còn chút lễ giáo của người Sài Gòn nên vai trò nghiêm nghị của nhà giáo vẫn được
kiêng nể. Vài lần chúng cũng gõ cửa hoạnh hoẹ về mấy người con. Bà Thịnh cười
xuề xoà nhỏ nhẹ:
“Chúng nó dại dột đi theo bọn Mỹ, bây giờ chẳng biết sống chết ra
sao.”
Bà nói với giọng buồn rầu nhưng vẫn không giấu diếm được niềm vui
trong lòng vì được tin chắc chắn chuyến tầu đã đưa các con đến bến bờ bình yên.
Ông bà Thịnh quyết định không ra đi vì phải “tử thủ”, nếu chuyến đi của các con
không thành mà trở về thì cũng có nơi ăn chốn ở. Ông Thịnh mang những bài học
binh pháp của cụ cố Tôn Từ bên Tầu giải thích cho quyết định ở lại. Phàm bất cứ
việc gì có thế công thì cũng phải có đường thủ. Dắt díu nhau đi hết mà phải quay
trở về thì chẳng thà ra ngoài biển “làm mồi câu cá mập” còn hơn. Bà Thịnh nghe
có vẻ hợp lý nên cũng chẳng thiết tha gì với chuyện ra đi. Hơn nữa họ hàng bà
con, mồ mả tổ tiên tất cả còn ở miền đất Mỹ Tho trái ngọt cây lành. Rứt ruột bỏ
đi sao đặng. Hình ảnh của những cuộc đấu tố ở miền Bắc làm cho nhiều người phải
rùng mình khiếp sợ. Cộng sản là máu và nước mắt, là chết chóc và thù hận. Đằng
sau của những vụ cướp chính quyền bằng bạo lực của các đảng cộng sản trên thế
giới luôn luôn là những cuộc tàn sát tập thể, những trại tù khổ sai và cùng cực
của đói khát bệnh tật. Bà Thịnh biết vậy nhưng cũng không thể nào đành lòng ra
đi.
Hai tuần lễ sau khi những đôi dép râu dẫm nát đường phố Sài Gòn,
người dân của miền đất mưa nắng hai mùa vẫn chưa thấy được cái đòn thù của những
người cộng sản phương bắc. Hôm nay ông bà Thịnh ăn mặc tươm tất, dọn dẹp nhà cửa
sạch sẽ đón vợ chồng chú em họ mà nghe đâu chú ấy cũng có vai vế trong ngành
công an xã. Ông bà Thịnh cũng không biết rõ người em họ làm to đến cỡ nào nhưng
có tí hơi hướm vẫn hơn. Bây giờ quyền hành trong tay những người có súng đạn.
Luật pháp là một sản phẩm nhiều khi có tiếng khóc nhưng cũng có lúc không nhịn
được những trận cười đến đứt ruột. Bà Thịnh sửa sọan những món đặc biệt miền Nam
chỉ mong vừa lòng người em họ mà bà chưa một lần gặp mặt. Bà là dân Mỹ Tho và
lớn lên ở Sài Gòn. Hầu hết dân thành phố chỉ nghe và hiểu lờ mờ về chủ nghĩa và
những người cộng sản. Người miền Nam tính tình xuề xoà, chuyện gì xong rồi bỏ
qua, ăn nhậu hôm nay không nghĩ đến ngày mai. Bây giờ phải đối mặt với những
người cộng sản cũng trở nên loạng quạng.
Bà Thịnh đang nêm lại nồi nước
lèo. Món hủ tíu Mỹ Tho là món “ruột” của bà. Nhiều người ăn xong chùi mép chưa
sạch nhưng đã hẹn ngày tái ngộ. Nghe tiếng gọi ngoài cửa đặc giọng miền Bắc, bà
Thịnh chắc là khách đã đến. Bà bật cười nghĩ đến ngày cưới, họ hàng bên ông
Thịnh nói đặc một giọng “bắc chay”. Nhiều chữ chẳng hiểu gì nhưng vẫn cứ phải
vâng dạ cho qua chuyện.
Ông Thịnh mở cửa nhìn người đàn ông mặc bộ quần
áo lính đã ngả mầu đang dướn người nhìn lên tầng ba nhà ông. Người phụ nữ đứng
bên cạnh dáng dấp quê mùa tay xách cái bị cói có vẻ nặng nề. Ông Thịnh nói to,
giọng mừng rỡ:
“Hướng con chú An đây phải không?”
Người đàn ông
không trả lời, chạy đến nắm tay ông khóc mếu máo:
“Anh ơi, đến bây giờ
anh em mình mới được gặp nhau.”
Ông Thịnh cầm áo kéo người em con ông chú
vào nhà. Người đàn bà đi sau có vẻ lấm lét. Ông Thịnh nói to như để báo tin cho
bà vợ dưới bếp:
“Anh Hướng đây là con chú An. Mới ngày nào anh em quấn
quýt bên nhau. Thế mà đã hơn hai mươi năm rồi.”
Vợ chồng Hướng nhìn bộ
ghế bọc nhung đỏ thẫm, những đồ đạc trưng bầy trong phòng khách toàn là những
hình ảnh xa lạ. Đã vài lần ông Thịnh mời khách ngồi, xem chừng như vợ chồng
Hướng lại không dám nhưng rồi cũng rụt rè ngồi mấp mé trên làn vải nhung mịn
màng. Bà Thịnh từ dưới nhà bếp đi lên, tay bưng khay nước, cười
tươi:
“Anh chị Hướng dzô hồi nào dzậy?”
Không nghe ai trả lời. Vợ
chồng Hướng chắc không hiểu câu hỏi của bà chị người miền Nam. Ông Thịnh
nói:
“Nhà tôi hỏi chú thím vào đây bao giờ đấy.”
Vợ Hướng vội
vã:
“Thưa chị, chúng em vào đây cũng được ba ngày rồi ạ. Lần mò hỏi thăm
đủ chỗ mới tìm được nhà anh chị.”
Vợ Hướng nhìn bà Thịnh với nét sang cả
của một giáo chức trung học như là ở một thế giới khác. Bộ quần áo lụa mầu nâu
đậm may thật khéo ôm gọn thân hình vừa bước qua tuổi trung niên cũng là một hình
ảnh xa vời mà người phụ nữ cán bộ nông nghiệp chưa bao giờ mơ với tay
tới.
Bà Thịnh nói như lấy lòng:
“Mừng quá, anh em xa cách đã hai
mươi năm mà còn được gặp nhau như thế này thì còn biết nói gì hơn.”
Hướng
đứng bật dậy, hai tay đan chéo vào nhau thưa gửi thật cung kính:
“Báo cáo
anh chị, chúng em chỉ mơ có ngày được vào Nam. Vào đây được gặp anh chị với cơ
ngơi hoành tráng sang trọng như thế này thì chúng em mừng quá. Thật phúc đức các
cụ nhà mình để lại.”
Bà Thịnh rót chai Coca Cola vào hai cái ly sáng bóng
mời khách:
“Mời chú thím uống nước.”
Vợ chồng Hướng cũng đã nhìn
thấy chai Coca Cola trên phố xá Sài Gòn nhưng vẫn chưa biết mùi vị chua ngọt ra
sao. Vợ Hướng uống một hớp to, ra chiều thích thú:
“Gớm, của Mỹ có khác,
mát mà lại thơm quá. Ở đây cái gì cũng đẹp cũng thơm cả”
Bà Thịnh bật
cười nhìn người phụ nữ như đang lạc lõng ở một thế giới khác. Ông Thịnh kéo
Hướng sang ngồi bên cạnh hỏi han bà con ruột thịt và những người trong làng.
Hướng kê khai rành mạch người sống người chết, từng chi tộc, mỗi gia đình. Ông
Thịnh chăm chú nghe, thỉnh thoảng hỏi về những người mà ông còn nhớ được. Nghe
Hướng trả lời, nước mắt ông dàn dụa. Ông xót xa nói như đứt hơi “khốn nạn quá”,
“tội nghiệp quá”. Giọng Hướng rầm rì như sợ tai vách mạch rừng, những người chết
vì già yếu bệnh tật thì không nói làm gì nhưng cũng đã có người chết vì đói.
Vợ Hướng chỉ trỏ những đồ đạc bầy biện trong phòng khách, hỏi nhiều câu
làm bà Thịnh phải lựa lời mà nói cho hợp tình hợp cảnh, đôi khi cũng không nhịn
được cười. Ánh mắt vợ Hướng như lạc lõng trước những vật dụng thường ngày của
người dân miền Nam. Cái đồng hồ chạy pin có con chim bay đi lượn lại “nhìn thích
quá”. Cái dàn máy âm thanh “cực hiện đại, cả tỉnh nhà mình chắc đã có ai nhìn
thấy”. Vợ Hướng xúm xít với nhiều câu hỏi. Bà Thịnh mở máy, một bản “nhạc vàng”
ca tụng vẻ đẹp của các cô gái đất Thần Kinh và cảnh mộng mơ của xứ Huế, “Một
chiều lang thang bên dòng Hương giang, tôi gặp một tà áo tím…”. Người phụ nữ cán
bộ nông nghiệp cả đời chỉ đối mặt với “phân xanh phân bắc” thực sự rung động đã
không kìm hãm được tư tưởng:
“Bài hát của Ngụy hay thế cơ mà. Bài hát của
ta bên ấy thì chỉ toàn là hò với hét.”
Nói xong, vợ Hướng biết lỡ lời
nhìn bà Thịnh thẹn thùng. Hướng như ngồi phải lửa, vội chữa cháy cho
vợ:
“Thưa chị, ngày còn chiến tranh chúng em vẫn lén lút nghe nhạc vàng
đấy. Bài nào cũng tình tứ lãng mạn quá.”
Ông Thịnh nhìn vẻ mặt thèm
thuồng của vợ Hướng, nói như vừa đủ nghe:
“Có một cái máy nhỏ bằng hai
bàn tay để trên nhà của các cháu. Để rồi tôi sẽ biếu chú thím.”
Vợ Hướng
có vẻ kinh ngạc chỉ lên trần nhà:
“Thế mấy cái tầng trên này cũng là nhà
của hai bác cả đấy ạ.”
Bà Thịnh mau mắn nói:
“Nhà này có ba tầng.
Chúng tôi xây cũng hơn chục năm nay rồi.”
Vợ Hướng như không tin ở tai
mình nhưng cũng biết nói khéo:
“Cơ ngơi của hai bác còn to hơn cả cái
dinh ngoài đấy.”
Nói xong, vợ Hướng kính cẩn hai tay bưng một gói to bằng
cái bánh chưng ngày Tết được buộc lạt kỹ lưỡng ngoài cái vỏ lá chuối khô, nói
rất nhỏ nhẹ:
“Chúng em có cân gạo nếp biếu hai bác. Quà bánh nhà quê. Xin
hai bác nhận cho.”
Bà Thịnh nhìn cân gạo nếp trên bàn mà thương cảm cho
cảnh nghèo của vợ chồng Hướng. Chồng là công an xã, vợ là cán bộ nông nghiệp mà
nghèo túng như vậy thì dân quê còn khổ sở đến thế nào. Bà quay sang nói với
chồng rằng cơm nước đãi đằng khách đã sẵn sàng. Ông Thịnh nói trong nước
mắt:
“Mời chú thím qua phòng ăn. Cũng đến bữa rồi.”
Bà Thịnh cầm
tay vợ Hướng kéo xuống nhà dưới. Nhìn nhà bếp, từ cái nồi cái chảo cho đến những
chai lọ xếp đặt đâu ra đó thật ngăn nắp và sạch sẽ, vợ Hướng như hoa mắt chẳng
còn biết hỏi han thế nào cho ra đầu đuôi câu chuyện. Bà Thịnh cũng biết người
miền Bắc đói rách nghèo khổ nhưng lại chưa bao giờ có được những hình ảnh mà qua
lời kể của Hướng thì cũng đã có những người họ hàng bên ông Thịnh đã chết vì
đói. Vợ Hướng đứng nhìn bà Thịnh sắp xếp những món ăn vào bát đĩa, muốn giúp một
tay mà cũng chẳng biết phải làm gì. Nhà bếp mà chỗ nào cũng sạch sẽ trắng bóng
như lau như ly chứ chẳng thấy cái kiềng ba chân với nắm rơm nắm rạ chỗ nào.
Món ăn thức uống đã được bà Thịnh bầy biện trên bàn. Ông Thịnh đi vội
lên trên lầu lấy chai rượu Johny Walker chẳng nhớ ai cho để dưới gầm bàn viết đã
nhiều năm rồi. Ông nhìn Hướng có vẻ ân cần:
“Chú Hướng uống chút rượu cho
vui.”
Hướng thấy chai “rượu ngoại” mắt sáng lên, vui ra mặt. Anh công an
xã cũng đã nhiều lần được mời mọc tiệc tùng đình đám nhưng cũng chỉ đến rượu
trắng ngâm mấy cái rễ cây là cao nhất. Nghe nói “rượu ngoại” thơm ngon lắm, hôm
nay mới được đụng môi thì còn phải nói.
Bà Thịnh bắt đầu giới thiệu các
món ăn của người Sài Gòn. Món gà xé phay với những đọt rau răm xanh mơn mởn. Con
cá lóc nướng trui vàng rộm xối mỡ hành thơm phức. Ông Thịnh mời mọi người ăn.
Cũng bát cũng đũa mà sao vợ chồng Hướng có vẻ ngập ngừng. Ông Thịnh mở chai rượu
rót cho Hướng một ly. Ông cũng rót cho mình một chút để Hướng có bạn rượu. Ông
gắp cho Hướng đầy bát thì bà Thịnh cũng vun đầy cho vợ Hướng. Nhìn vẻ thèm khát
của vợ chồng Hướng, ông bà Thịnh quá thương cảm nhưng cũng thấy vui vui. Hướng
nhắp một ngụm rượu, hai tay cầm cái ly trịnh trọng:
“Đúng là rượu ngoại,
thơm ngon quá sức.”
Ông Thịnh xởi lởi:
“Chú uống đi. Ở lại chơi
với chúng tôi mấy ngày rồi đi đâu hãy đi.”
Vợ chồng Hướng như mở cờ trong
bụng. Ông bà Thịnh không cho ở lại thì cũng chẳng biết đi đâu. Vài người làng
gặp ngày hôm qua cũng chẳng ai mặn mà gì. Ông Thịnh là chỗ máu mủ nên cũng hơn.
Vợ Hướng gắp một miếng cá to bỏ vào bát cho chồng cười nói:
“Bộ đội ta
không giải phóng được Sài Gòn thì đến bao giờ chúng em mới được gặp các
bác.”
Bà Thịnh nhìn vợ Hướng như muốn đuổi ra khỏi nhà. Giải phóng cái
gì? Người ta đang sống vui sống khỏe mà nay đặt mìn, mai pháo kích, từ ngoài Bắc
mang súng đạn vào cướp của giết người mà giải phóng cái nỗi gì. Vợ Hướng cũng
không biết mình lỡ lời. Người phụ nữ quê mùa làm cán bộ nông nghiệp suốt ngày
cãi nhau vì bát lúa nắm phân được học tập phải hiến ngay cả thân xác mình cho
Bác cho Đảng cũng không nghĩ và nhìn ra ngoài được những giáo điều được tôi
luyện. Đảng cho sống thì sống. Đảng bảo chết thì cũng “hạ quyết tâm” tuân
lệnh.
Trái lại, Hướng tuy chỉ là một anh công an xã cấp dưới nhưng lại
giỏi lý luận. Bất cứ chuyện gì lớn nhỏ, phải trái Hướng luôn phân giải nguyên do
và kết cục của sự việc. Vừa vào đến Sài Gòn, nhìn nhà cửa tầng cao tầng thấp xe
cộ chạy đầy đường, dân chúng người nào cũng quần áo bảnh bao là Hướng đã biết
ngay cả miền Bắc đã bị cái bộ máy tuyên truyền khắc nghiệt của chế độ cộng sản
lừa bịp. Nghe vợ nói đến hai chữ “giải phóng” mà anh chồng muốn lộn ruột. Hướng
tự tay rót rượu vào cái ly pha lê sáng bóng, nhấp một ngụm to rồi đủng đỉnh
nói:
“Chẳng biết ai giải phóng ai đây. Mình chui ra chui vào cái nhà
gianh vách đất, ăn uống thì quanh năm chỉ có dưa khú với cà thâm, quần áo thì vá
chằng vá chịt. Nhìn cơ ngơi của các bác, thức ăn thức uống ê hề như thế này. Cả
miền Bắc bị lừa bịp bao nhiêu năm rồi.”
Hướng bắt đầu kể lể những oan
khiên của người dân miền Bắc. Nghèo túng, bệnh họan mà từ đứa trẻ con cho đến
những cụ già ai ai cũng phải vác trên vai mình đủ loại bổn phận và nghĩa vụ. Có
vài cân gạo nếp giấm dúi ở xó bếp cũng phải lôi ra ủng hộ bộ đội đi B. Không ủng
hộ thì bị hành hạ đủ điều cơ khổ. Mười người thì đến chín người bữa no bữa đói.
Đã có biết bao người chết vì đói nhưng nào có ai dám mở miệng kêu than. Hướng
say sưa kể chuyện với giọng điệu tức tối đến căm phẫn. Mồm ngồm ngoàm thức ăn,
ly rượu mới vơi quá nửa đã tự tay rót đầy nhưng vẫn say sưa nói như để trút đi
những uất hận bị đè nén trong lòng từ nhiều năm qua.
“Bác Phán nhà mình
tháo cả cửa nhà làm hòm chôn cất những người chết đói ngoài đường hồi năm Ất Dậu
thế mà cũng bị đội Cải Cách Ruộng Đất bắt ra ngoài đình làng đấu tố rồi mang đi
chẳng biết chết mất xác ở đâu.”
Hướng nói huyên thuyên, không mạch lạc mà
cũng chẳng có đầu đề, nhớ đến ai thì nói, chuyện vui chuyện buồn gì cũng nói cho
hả hơi rượu. Đột nhiên Hướng lắc đầu xuống giọng nói như tiếc rẻ:
“Ông
Tổng Thống Mỹ chẳng biết gì cả.”
Ông Thịnh giật mình, một anh công an xã
mà tự nhiên lại có lời bình phẩm ông Tổng Thống Mỹ thì chắc là phải có chuyện để
nói.
“Chú Hướng nói sao?”
Hướng vội vã:
“Thưa anh, ý là em
nói cái hồi Mỹ bỏ bom ngoài ta đấy ạ. Thay vì bỏ bom thì cứ mang đồ hộp, thuốc
lá với lại quần bò áo phông mà đổ xuống thì bất chiến tự nhiên thành. Dân mình
đói khát quá. Công an bộ đội cũng bữa có bữa không, quần áo rách rưới tả tơi.
Người nào cũng như con ma đói mà vớ được hộp thịt bò, điếu thuốc thơm của Mỹ thì
chỉ quay ra giành giật bắn giết nhau thôi. Quân ta mà đánh quân mình thì hai bác
nghĩ xem còn có binh pháp nào hơn.”
Ông Thịnh cười tủm tỉm:
“Sao
hồi đó chú không viết cho ông Tổng Thống Mỹ cái thư. Hiến cho ông ta cái kế ấy
thì còn hơn cả Khổng Minh bên Tầu nữa đấy.”
Hướng nhắp vội ngụm rượu nói
to:
“Thưa anh, em không biết nhà ông ấy ở chỗ nào đấy chứ. Em mà biết nhà
cửa ông ấy thì đi mấy ngày đường em cũng đi.”
Ông Thịnh cười ngặt nghẽo
về cái ý tưởng ngộ nghĩnh mà nghe ra lại rất có lý. Đám bộ đội thèm khát đến nỗi
giết nhau chỉ vì một bi thuốc lào. Nhìn lên trời những cây thuốc lá Philip sợi
vàng lơ lửng trên không thì chắc sự nghiệp giải phóng hay di chúc của ông Hồ
cũng bay theo mây khói. Bỏ súng, rã ngũ đạp lên nhau, chém giết nhau mà vồ vập
hộp thịt bao thuốc. Dân đánh với quân, bộ đội đánh với công an. Thế là hết. Có
vậy mà ông Tổng Thống Mỹ nghĩ không ra!.
Chai rượu vẫn còn quá nửa,
Hướng với tay để ngay trước mặt như sợ ai giành giật mất. Ông Thịnh nhìn, vẻ
thương hại:
“ Chú Hướng cũng uống rượu được đấy chứ. Nhưng mà vậy đủ rồi.
Ngày mai ta lại tiếp tục.”
Hướng đã hơi ngà ngà say nhưng vẫn nghe rõ
tiếng nói của ông anh họ là cái phao duy nhất cho vợ chồng Hướng bám víu nơi đất
lạ. Đĩa gà xé phay chỉ còn lại một gắp rau. Con cá lóc nướng trui trơ bộ xương
trên cái đĩa viền vàng choé. Hướng lại khề khà về cái chiến lược “thịt hộp thuốc
lá thơm” nghe ra như chuyện đùa mà nếu những hộp thịt bò thịt gà, những bao
thuốc lá Philip của Mỹ cứ ùn ùn túa ra như mưa từ những cái máy bay B52 thay vì
những quả bom ngàn cân thì cuộc chiến đã kết thúc không có máu đổ thịt rơi mà
lại đỡ tốn phí biết bao. Bộ đội hay công an, anh chị nào cũng đói lên đói xuống.
Mang cái chủ nghĩa Mác Lê ra mà gặm vừa đau răng mà bụng lại vẫn đói cồn cào.
Dân chúng thì đa số phải ăn độn khoai sắn, nhiều người phải ăn củ chuối cầm hơi.
Đám thương binh từ chiến trường miền Nam trở về uốn lưỡi kể lại cái vị ngon ngọt
của hộp thịt hộp bánh và mùi thơm huyền hoặc của điếu thuốc lá Mỹ càng làm cho
những con ma đói từ quân đến dân thèm thuồng và có một giấc mơ. Đến ngày nào mới
được cầm trong tay điếu thuốc lá sợi vàng như ông Hồ vẫn hút mỗi
ngày?!
Ăn xong tô hủ tíu, húp cạn chút nước lèo ngon ngọt còn đọng lại
trong đáy bát, vợ chồng Hướng lại còn được bà Thịnh mời ăn bát chè đậu đen.
Hướng thích chí hỏi bà Thịnh:
“Thưa chị, nhà ta ngày nào cũng ăn uống như
thế này sao”
Bà Thịnh nhỏ nhẹ:
“Hôm nay có chú thím thì cũng bầy
biện hơn ngày thường nhưng ở đây thịt cá khi nào cũng ê hề.”
Hướng nắm
tay vung lên cao:
“Thế mà cái loa phóng thanh ở làng cứ ông ổng suốt ngày
đêm là dân miền Nam chết đói như rạ. Cả miền Bắc bị lừa bịp. Nói thật với anh
chị chứ mà quân miền Nam ra giải phóng miền Bắc thì dân tình ngoài ấy chắc đỡ
khổ hơn.”
Vợ Hướng mạnh dạn chen vào câu chuyện:
“Người đói khát
rách rưới lại đi giải phóng người ấm no dư dật như thế này. Ngoài ấy ai cũng
chộn rộn dành dụm mấy cái bát mẻ, vài cái giẻ rách mang vào Nam tiếp tế cho bà
con họ hàng. Những cái thứ đấy mang vào đây không có chỗ mà vất đi. Rõ nỡm, tai
quái ngược ngạo quá sức.”
Trời cũng đã sẩm tối, ông Thịnh dẫn vợ
chồng Hướng lên tầng ba nơi phòng ngủ của cô con gái cả. Vợ chồng Hướng loá mắt
với đồ đạc và cách bầy biện phòng ngủ của cô gái đang độ tuổi xuân thì. Những
bình hoa lụa đủ mầu khoe sắc trong hương thơm của một loại nước hoa đắt tiền vẫn
còn phảng phất đâu đây. Ông Thịnh cầm tay Hướng chỉ vào phòng tắm:
“Tắm
rửa tất cả ở đây.”
Hướng nhìn chầm chầm vào cái bàn cầu trắng tinh chứa
nước trong vắt ra vẻ xuýt xoa:
“Đi nắng về mà sẵn cái chậu nước rửa mặt
như thế này thì tha hồ mát.”
Ông Thịnh cắn môi không dám cười thành
tiếng:
“Ấy chết, cái đó là chỗ để ngồi lên thôi.”
Hướng ngạc nhiên
cao giọng:
“Thưa anh, ngồi lên để làm gì ạ”
Ông Thịnh nói khẽ như
thì thầm bên tai Hướng:
“Ngồi lên mà đi đồng như ở ngoài mình
đấy.”
Nói rồi ông giảng giải “cứ việc đi vào đây, dùng cái cuộn giấy
trắng này cho sạch sẽ rồi kéo cái nút này xuống là tất cả sẽ trôi đi”. Ông vừa
nói vừa làm những động tác cần thiết. Vợ Hướng há hốc mồm, nói không ra
tiếng:
“Giời ạ, thế mà em lại cứ ngỡ là cái chậu rửa mặt đấy.”
Ông
Thịnh không thể cười được nữa. Ông cắn môi nhớ lại ngày xưa dân làng mình cũng
chỉ có tầu lá chuối khô chứ nào ai mơ tưởng đến cuộn giấy trắng. Ông thương hại
cho những người họ hàng làng nước lúc nào cũng đói rách mà lại còn bị chủ nghĩa
cộng sản kìm kẹp đủ điều. Những con lật đật da bọc xương cả đời chỉ mơ đến bát
cơm không độn khoai sắn đang khóc than cho thân phận nhục nhằn đau thương trước
cảnh phồn vinh của thành phố vừa bị cưỡng chiếm. Ông Thịnh dặn dò chỉ dẫn cho vợ
chồng Hướng chăn màn rồi ngồi nán lại hỏi Hướng mấy câu về một người trong họ
nghe đâu làm to lắm ở Hà Nội. Vợ chồng Hướng cũng mù tịt chẳng biết đâu mà trả
lời vì những người chóp bu trong đảng ông bà nào cũng dăm bẩy cái tên nên ai
biết đâu mà mò.
Ông Thịnh khẽ đóng cửa đi xuống dưới nhà sau khi chỉ cho
Hướng cách tắt bóng đèn trên trần nhà. Vợ chồng Hướng thẫn thờ ngồi trên chiếc
giường nệm nhìn quanh quẩn những đồ đạc quần áo của cô con gái đang thời chưng
diện. Mấy lọ nước hoa và những hộp son phấn trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường ngủ
là những gì quá xa lạ đối với vợ Hướng nhưng cái “đài” có hát cả băng to hơn hai
bàn tay là nỗi thèm khát mong chờ của Hướng từ nhiều năm rồi. Hướng nuốt nước
bọt nói thầm vào tai vợ:
“Lúc chiều bác Thịnh nói cho mình cái đài, chắc
là cái này đây.”
Vợ Hướng nhìn cái “đài” nói như vừa ra ngõ vớ được
vàng:
“Mang cái này về thì cả làng đến mà ngó. Gớm, người trong này sao
họ lắm của thế.”
Hướng nhìn quanh quẩn trong phòng ngủ xem có gì “văn
minh và hiện đại” hơn cái “đài” không phải là muốn khám phá những mới lạ nhưng
để sắp đặt một toan tính ngay lúc ông Thịnh khép cửa đi xuống nhà dưới. Vợ Hướng
mở tủ nhìn mấy chiếc áo dài cười nhẹ:
“ Toàn những lụa là sang trọng, các
chị lãnh đạo bên ta có mơ cũng không thấy.”
Nói xong, vợ Hướng lấy chiếc
áo dài ướm thử vào mình như tắm gội trong hạnh phúc. Chiếc áo cũng hơi dài nhưng
cắt ngắn đi khâu lại mấy mũi là vừa thôi. Vợ Hướng tuy hơi thiếu thước tấc nhưng
được cái có làn da đẹp, mặc dù gần như ngày nào cũng phải phơi nắng đội mưa
ngoài ruộng. Nhìn chiếc áo dài hoa lá sặc sỡ buông lơi bên người vợ quê mùa,
Hướng cắn răng nhớ lại hình ảnh chỉ mới mâý ngày trước đây người đàn bà này còn
gang mồm lên chửi “bọn đế quốc Mỹ” đã bòn rút đến tận xương tủy của người dân
miền Nam để đồng bào ta ở miền Nam phải rách rưới đói khát chết đầy đường đầy
chợ. Hướng nuốt nước bọt thèm bi thuốc lào nói chậm rãi như đang phà nạm khói ra
khỏi họng:
“Xem có cái nào thích thì nhét vào bị nhanh đi. Lấy vài cái
thôi, không khéo các bác ấy biết đấy.”
Vợ Hướng cầm lọ nước hoa nhỏ bằng
ngón tay cái ngửi hít hà. Hướng như ngồi phải lửa:
“Ngu thế, các bác ấy
ngửi thấy mùi nước hoa thì có mà mặt mo.”
Vợ Hướng nghe chồng, thấy có lý
nên để lại chỗ cũ. Hướng nhỏ nhẹ như an ủi vợ:
“Thích thì sáng mai xin
bác gái.”
Sau gần hai giờ đồng hồ lục lọi từ cái gương cái lược trên bàn
đến những đôi giầy xếp hàng dưới gầm giường, vợ chồng Hướng thầm thì ra chiều
tương đắc, vui ra mặt.
Hướng tắt đèn giục vợ đi ngủ. Vợ Hướng vừa ngả
lưng trên tấm nện trải khăn giường trắng tinh đã thảng thốt kêu:
“Ối giời
ơi, êm ái mà lại thơm lừng. Long sàng của vua cũng đến như thế này thôi chứ
chẳng hơn.”
Hai vợ chồng để nguyên quần áo bụi bặm nằm dài trên giường.
Hướng khẽ đập vào lưng vợ, thở dài. Chỉ mới vừa bước một chân vào đời sống của
người dân miền Nam mà đã như thế này rồi. Nhiều lần một mình ở trụ sở công an
xã, Hướng đã mở đài “ngụy” nghe những chương trình ca nhạc, văn học một cách say
mê và nhen nhúm lên một khung cảnh tự do ấm no của người dân miền Nam. Con người
ta đói rách ốm đau mà lại bị kìm kẹp trong cái nanh vuốt của một thể chế độc tài
đảng trị thì không thể nào có những suy tư khai phá về tình yêu người, yêu đời
như vậy. Thân mình đang nằm dưới cái đe ngàn cân của chủ nghĩa cộng sản mà không
biết cựa quậy để đứng lên.
Buổi sáng nghe tiếng gõ cửa của ông Thịnh thì
Hướng vẫn còn đang vật lộn với cơn thèm thuốc lào. Sau cả một lúc lâu tập tành
cách sử dụng phòng tắm với những vật dụng hoàn toàn xa lạ, Hướng có cảm tưởng
như đã đổi đời nhưng cái mùi huyền hoặc của khói thuốc lào vẫn vất vưởng đâu
đây. Ông Thịnh ân cần hỏi han:
“Sao , lạ giường lạ chiếu có ngủ được
không?”
Hướng chưa kịp trả lời thì vợ đã nhanh nhẩu:
“Chúng em cứ
như lên tiên đấy bác ạ.”
Hướng lườm vợ vì câu nói hớ hênh, vội làm mặt
nghiêm:
“Thưa anh, em vẫn không thể nào lý giải được tại sao người miền
Nam lại không ra giải phóng chúng em ngoài ấy.”
Ông Thịnh không có câu
trả lời. Chuyện “chính chị chính em” là những cái gì dã man tàn bạo và rất nhiều
khi ngu đần, mình chỉ là một người mù qườ quạng trong đêm tối. Ông nhỏ nhẹ mời
vợ chồng Hướng xuống nhà dưới ăn sáng. Vợ Hướng vai đeo cái bị cói, tay phải nắm
chặt hai cái quai bị như sợ trộm mất của. Hướng khoác chiếc ba lô có vẻ như còn
mới đựng vài bộ quần áo lính cũ mèm và mấy vật dụng lỉnh kỉnh, tưởng rằng là
những thứ hiếm qúy nhưng ở đây vứt ra đường không ai nhặt. Ông Thịnh nhìn hai vợ
chồng Hướng như sắp sửa lên đường tiếp tục chuyến đi thăm họ hàng nội ngoại
trong Nam. Ông đi vào góc phòng lấy cái “đài có hát băng” đưa cho Hướng bảo mang
về mà nghe cho đỡ buồn. Hướng run run cầm trong tay chẳng biết nói lời cám ơn mà
chỉ sợ giấc mơ bay đi mất. Vợ Hướng vui ra mặt, chỉ mấy ngày nữa là cả làng sẽ
kéo đến đầy nhà nghe nhạc vàng của miền Nam. Người nào nghe nhạc vàng thì còn sợ
chứ Hướng là công an xã thì ai đụng đến. Vợ Hướng muốn xin mấy cái quần áo nhưng
lại sợ nhỡ mà mấy cái áo “tự biên tự diễn” trong bị cói lòi ra thì còn mặt mũi
nào. Tại sao cái loa phóng thanh của Nhà Nước ngày đêm ra rả bên tai là người
dân miền Nam bị Mỹ Ngụy bóc lột đến xương tủy mà nay đất nước thống nhất chẳng
thấy có đến một người chạy ra ngoài miền Bắc đề tìm cơm no áo ấm. Nhưng xó xỉnh
nào của Sài Gòn cũng có người miền Bắc lê la bòn nhặt từ cái áo rách cho đến cái
nồi méo mó.
Bữa ăn sáng không có những tiếng nói lanh chanh của vợ Hướng
và ông chồng thì lại trầm tư ra chiều suy nghĩ, vẻ mặt coi bộ nghiêm nghị. Chân
phải Hướng đè lên chiếc ba lô để dưới gầm bàn ăn, tay cầm đũa ngập ngừng gắp
những lát lạp xưởng đỏ au. Hướng cầm ly cà phê sữa trong lòng hai bàn tay nói
như vừa đủ nghe:
“Thưa anh chị, chúng em từ làng mình vào đây kính thăm
anh chị mà lại được anh chị thương thế này thì thật quả là một đại phúc. Chúng
em mừng rỡ nhìn thấy anh chị sung túc giầu có nhưng vẫn ân cần với họ hàng nghèo
khó. Thật chúng em chẳng còn biết nói gì hơn.”
Hướng chưa dứt lời thì bà
Thịnh đã cầm chiếc nhẫn vàng dúi vào tay vợ Hướng:
“Thím cầm lấy chút
đỉnh về mua quà cho các cháu.”
Vợ Hướng gần như tắt thở. Cái nhẫn vàng
đeo ở ngón tay áp út là nỗi mộng mơ của người cán bộ nông nghiệp đã nhiều năm ăn
độn khoai sắn nhưng lại biết cân đo đến từng hột thóc ủng hộ chiến sĩ đi B.
Hướng nhìn chiếc nhẫn vàng, chân phải vẫn đè chặt trên chiếc ba lô nóí thay
vợ:
“Anh chị cho chúng em nhiều quá.”
Bà Thịnh nhanh
nhẩu:
“Để tôi đưa thím lên lấy một ít quần áo của con Hai. Cháu nó cũng
không cần đến nữa.”
Đến bây giờ vợ chồng Hướng mới nhớ đến mấy người con
của ông bà Thịnh đã “trót dại đi theo bọn Mỹ Ngụy”. Vợ Hướng đi theo bà Thịnh
lên trên lầu. Một lúc sau ôm xuống một mớ quần áo đủ mầu sặc sỡ. Ông Thịnh cũng
cho Hướng đôi giầy và mấy bộ quần áo của anh con trai lớn. Vợ Hướng mân mê chiếc
nhẫn vàng nói cười rộn ràng.
Sau một lúc lâu chuyện trò, Hướng đứng lên
tay nắm chặt quai chiếc ba lô nói ra vẻ nghẹn ngào:
“Thưa anh chị, chúng
em từ làng mình lặn lội vào đây thăm anh chị. Nhờ hồng phúc tổ tiên, anh chị
mạnh khoẻ mà lại còn giầu sang như thế này thì chúng em rất lấy làm mừng và hãnh
diện. Anh chị lại còn cho chúng em và các cháu đủ thứ. Nhờ ơn anh chị mà chúng
em thật sự đổi đời. Chúng em xin phép anh chị về lo cho các cháu vài việc rồi
lần sau chúng em vào sẽ quấy quả anh chị.”
Bà Thịnh muốn giữ khách chỉ vì
chút máu mủ bên chồng nhưng sao mà chuyện trò với mấy người bên kia nhiều khi
cũng thấy tắc họng. Bà nói ra vẻ ân cần:
“Chắc chú thím cũng còn nhiều
nơi phải đi thăm nom, thôi vậy lần sau thì ở chơi với chúng tôi lâu
hơn.”
Vợ Hướng nhanh nhẩu:
“Thưa chị, bên họ ngoại các cháu có
mấy người ở thành phố Biên Hoà cũng là ông bác bà cô cả. Chúng em tranh thủ đến
chào hỏi cho phải đạo.”
Ông Thịnh kéo Hướng ra ngoài phòng khách thầm thì
dặn dò việc hương khói mồ mả tổ tiên. Ông móc túi đưa cho Hướng cái đồng hồ mầu
vàng chói chang như để trả công. Ông nắm tay Hướng giọng sụt sùi:
“ Thôi
thì mồ mả tổ tiên ngoài đấy nhờ chú thím chăm nom chứ còn biết trông cậy
ai.”
Ông bà Thịnh đưa vợ chồng Hướng ra trước cửa nhà gọi một chiếc xích
lô đạp đón xe đi Biên Hoà. Sau khi trả tiền cho người đạp xe, ông nói như
khóc:
“Thế nào cũng có ngày tôi ra ngoài ấy thăm bà con họ hàng mình, mồ
mả tổ tiên còn cả đấy.”
Chiếc xe từ từ lăn bánh một cách nặng nhọc. Ông
bà Thịnh đứng trông theo cho đến lúc quá tầm mắt. Ngồi trên xe, Hướng nắm chặt
bàn tay vợ đeo chiếc nhẫn vàng, mắt nhìn lên những toà nhà cao tầng hai bên phố.
Hướng nghĩ đến mấy bộ quần áo chắc là “hàng ngoại”, đôi giầy đen bóng và nhất là
chiếc đồng hồ mầu vàng chói chang đang nằm trong chiếc ba lô. Vợ chồng Hướng đã
thực sự đổi đời. Bất chợt anh công an xã lẩm bẩm:
“Giá mà người trong này
ra giải phóng ngoài ấy mới đúng. Thôi thì… tôi giải phóng tôi
Trương Phú Thứ
No comments:
Post a Comment