Trong vòng một thế kỷ qua, tuổi thọ trung bình kể từ lúc sinh ra của
người sống tại Mỹ đã tăng lên đáng kể, từ 47 tuổi năm 1900, lên đến 77
tuổi năm 2004. Tính ra, vào năm 2030, người trên 65 tuổi sẽ chiếm hơn
20% dân số, tức khoảng 70 triệu người.
Hệ thống duy trì sức khỏe
cho các vị cao niên tại Mỹ tốt, nhờ vào các phương cách y khoa phòng
ngừa. Việc ngừa bệnh và tăng cường sức khỏe tại Mỹ hiện được chia làm ba
cách: primary prevention (phòng ngừa tiên khởi, phòng ngừa thứ nhất),
secondary prevention (phòng ngừa thứ nhì) và tertiary prevention (phòng
ngừa thứ ba).
Phòng ngừa tiên khởi nhắm mục đích ngừa đừng để
bệnh xảy ra trong tương lai; phòng ngừa thứ nhì nhắm mục đích tìm và
chữa bệnh sớm trong giai đoạn bệnh chưa gây triệu chứng; phòng ngừa thứ
ba nhận định tình trạng sức khỏe hiện tại của người bệnh, tìm các phương
cách giúp người bệnh sống khỏe mạnh và an toàn hơn.
Phòng ngừa tiên khởi
Các
vị cao niên nên tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày, ít nhất 5 ngày
một tuần; bỏ ngay thuốc lá nếu đang hút; bớt uống rượu nếu có uống rượu
nhiều. Thể dục thường xuyên giúp chúng ta tăng cường sức khỏe; giảm
thiểu nguy cơ bị các bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não, cao áp huyết,
tiểu đường, rỗng xương, béo mập, ung thư ruột già, ung thư vú, căng
thẳng tinh thần (anxiety), buồn chán (depression) , lẫn; giúp bớt té
ngã, như vậy, ngừa những chấn thương do sự té ngã; khiến chúng ta sinh
hoạt trong đời sống hàng ngày khá hơn; và cũng là cách trị liệu hữu hiệu
trong nhiều trường hợp bệnh, như các rối loạn tinh thần khiến chúng ta
lúc buồn lúc vui (mood disorders), lẫn, đau nhức kinh niên, suy tim, tai
biến mạch máu não, bón, khó ngủ.
Aspirin nên được dùng cho những
vị mang nguy cơ có thể sẽ bị bệnh tim mạch trong vòng 5 năm tới (nguy
cơ >3% so với người thường), chẳng hạn như những người có bệnh tiểu
đường. Tuy nhiên, chúng ta cẩn thận khi dùng aspirin vì aspirin có thể
gây chảy máu đường tiêu hóa, nhất là cho các vị trên 75 tuổi, các vị có
bệnh loét bao tử hoặc từng chảy máu đường tiêu hóa trong quá khứ, các vị
đang uống những thuốc warfarin, steroid.
Cứ mỗi 10 năm, chúng ta
chích ngừa phong đòn gánh (tetanus), để lỡ có đứt tay trầy chân, chúng
ta yên tâm sẽ không bị phong đòn gánh, một bệnh nhiễm trùng nguy hiểm có
thể gây tử vong. Thuốc thường được pha chung với thuốc ngừa bệnh bạch
hầu (diptheria, một bệnh nhiễm trùng nguy hiểm tạo những màng trắng ở
họng), nên được gọi là thuốc chích ngừa Td (tetanus- diptheria vaccine).
Hàng năm, các vị cao niên 65 tuổi trở lên nên chích ngừa cúm khoảng tháng 10, 11, trước khi cúm đến vào mùa Đông. Người dưới 65 tuổi song đang mang các bệnh tim, phổi, hoặc những bệnh kinh nhiên khác khiến sức để kháng của cơ thể suy giảm, cũng nên chích ngừa cúm.
Các vị cao
niên 65 tuổi trở lên cần chích ngừa bệnh sưng phổi pneumococcus, chỉ cần
một lần trong đời. Giống ngừa cúm, người dưới 65 tuổi song đang mang
các bệnh tim, phổi, hoặc những bệnh kinh nhiên khác khiến sức để kháng
của cơ thể suy giảm, cũng nên chích ngừa sưng phổi pneumococcus.
Gần
đây, có thuốc chích Zostavax ngừa bệnh shingles (một bệnh do siêu vi,
gây đau đớn, có khi rất dữ, nhất là cho người lớn tuổi, Việt Nam ta hay
gọi nôm na là “bệnh giời ăn”), các vị 60 tuổi trở lên nên chích thuốc
Zostavax ngừa bệnh này.
Phòng ngừa thứ nhì
Phòng
ngừa thứ nhì (secondary prevention) gồm việc truy tìm các ung thư ruột
già, vú, nhiếp hộ tuyến, cổ tử cung; đo áp huyết định kỳ; thử máu xem có
cao các chất mỡtrong máu; truy tìm bệnh rỗng xương; truy tìm bệnh phình
nở động mạch aorta trong bụng (abdominal aortic aneurysm).
50
tuổi trở lên, cả đàn ông lẫn phụ nữ, chúng ta nên truy tìm ung thư ruột
già, dù không có triệu chứng gì cả. Phương pháp truy tìm ung thư ruột
già tốt nhất là soi toàn ruột già (colonoscopy) , nếu bình thường, 10
năm chúng ta sẽ soi lại.
Nguy cơ bị ung thư nhiếp hộ tuyến tăng
sau tuổi 50. Tiếc thay, hiện vẫn chưa có phương pháp truy tìm ung thư
nhiếp hộ tuyến thực chính xác. Từ 50 tuổi trở lên, đàn ông chúng ta nên
nhờ bác sĩ thăm khám nhiếp hộ tuyến hàng năm, và thảo luận với bác sĩ có
nên thử PSA hay không. [Thường chất PSA trong máu tăng cao khi có ung
thư nhiếp hộ tuyến, nhưng có nhiều trường hợp thử thấy PSA tăng cao, khi
đâm kim lấy mô nhiếp hộ tuyến xem dưới kính hiển vi (biopsy), không
thấy có ung thư, ngược lại, cũng có trường hợp ung thư, song PSA lại
không cao nhiều, nên phương pháp truy tìm ung thư này không thực chính
xác lắm, việc có nên thử PSA hay không sẽ tùy vào ý muốn của bạn, sau
khi nghe lời giải thích của bác sĩ.]
Ung thư vú tăng cao nhiều sau
tuổi 50. Từ tuổi 40 trở đi, phụ nữ nên đi khám vú hàng năm, và chụp phim
vú mỗi 1-2 năm. Đến tuổi 50 trở đi, vẫn đến bác sĩ khám vú hàng năm, và
mỗi năm nên chụp phim vú.
Việc làm Pap smear để truy tìm ung thư
cổ tử cung cần được tiếp tục cho đến khi quá tuổi 65-70 mới ngưng, nếu
ít nhất 3 lần làm Pap smear trong vòng 10 năm trước đó hoàn toàn bình
thường.
Cao áp huyết xảy ra rất nhiều ở người có tuổi, đưa đến
các biến chứng tim mạch như chết cơ tim cấp tính (heart attack), tai
biến mạch máu não (stroke). 1-2 năm, chúng ta nên đến nhờ bác sĩ đo hộ
áp huyết, để nếu có cao áp huyết còn sớm chữa.
Bệnh rỗng xương
nhiều ở phụ nữ đã mãn kinh. Phụ nữ 65 tuổi trở lên nên chụp phim truy
tìm rỗng xương. Phụ nữ trước tuổi 65, đã mãn kinh, tùy trường hợp, bác
sĩ sẽ khuyên chụp phim hay không.
Đàn ông hút thuốc lá có thể bị phình nở động máu aorta trong bụng (abdominal aortic aneurysm), nếu bể vỡ dễ gây tử vong. Đàn ông 65-75 tuổi hút thuốc lá hay từng hút trong quá khứ, hoặc có anh, em bị bệnh phình nở động máu aorta trong bụng, nên làm siêu âm bụng một lần để truy tìm bệnh phình nở động máu aorta.
Phòng ngừa thứ ba
Phòng
ngừa thứ ba (tertiary prevention) nhận định hiện trạng sức khỏe của
người bệnh, và tìm các phương cách giúp người bệnh sống khỏe mạnh và an
toàn hơn. Ở các vị cao niên, phòng ngừa thứ ba gồm những việc bác sĩ nhận
định sức khỏe tổng quát của các vị, những hoạt động để chăm sóc cho
chính bản thân hàng ngày (tắm rửa, ăn uống, …), rồi về mặt trí óc, tri
thức có sáng suốt không, về mặt tinh thần, có dấu chứng buồn chán
(depression) không.
Về mắt, các vị cao niên nên được khám bởi bác
sĩ chuyên khoa Mắt mỗi 1-2 năm, truy tìm những bệnh quan trọng như cao
áp suất mắt (glaucoma). Về tai, bác sĩ cũng nên để ý xem tai vị cao niên
có nghe kém không.
Về dinh dưỡng, các vị cao niên cần một thực
phẩm đầy đủ những chất cần cho cơ thể. Các vị cần ít nhất 1200 mg
calcium, 800 đơn vị sinh tố D mỗi ngày. Hàng ngày, thuốc đa sinh tố
(multivitamins) cũng rất tốt, ngừa một số bệnh kinh niên có thể xảy ra
do thiếu sinh tố. Nếu vị cao niên nào xuống cân, 10% hay hơn sức nặng
trong vòng 1 năm qua, bác sĩ cần lưu ý và tìm hiểu tại sao.
Hàng
năm, có khoảng 30% người cao niên té ngã, tỉ lệ này tăng lên 50% ở các
vị trên 80 tuổi. Té ngã có thể đưa đến gãy xương hoặc phải vào nhà
thương, nên các phương cách giúp tránh té ngã cũng là những phòng ngừa
quan trọng ở các vị cao niên. Các yếu tố khiến dễ té ngã gồm những thay
đổi vóc dáng, cách đi đứng do tuổi tác, mắt kém, tri thức không sáng
suốt, bệnh ảnh hưởng đến sức mạnh và sự phối hợp của các bắp thịt, các
yếu tố môi trường (sàn nhà trơn trượt, thảm trải sàn không được chắc,
đèn không đủ sáng, giầy dép không vừa chân, lỏng lẻo, vân vân), thuốc
dùng. Riêng về thuốc, càng dùng nhiều thuốc, càng dễ có phản ứng phụ của
thuốc và té ngã, bác sĩ nên thường xuyên nhận định thuốc nào vị cao
niên còn cần, thuốc nào không cần nữa nên bỏ. (Khi đi khám bệnh,
chúng ta nên luôn mang thuốc theo, và cho bác sĩ biết thuốc nào còn
cần, thuốc nào không thấy cần nữa.)
Ngoài ra, nhưng việc khác như
tiểu són, còn lái xe được không, ở nhà có bị con cái hất hủi, bỏ bê
không, vân vân, bác sĩ cũng cần để ý thăm hỏi, giúp các vị cao niên giải
quyết vấn đề.
Sức khỏe còn quí hơn vàng. Chúng ta may mắn sống
trên đất Mỹ, nơi có nền y khoa tốt. Hiểu biết về các phương cách ngừa
bệnh và duy trì sức khỏe ở đây, chúng ta không những sống khỏe mạnh và
an toàn GÌ?
Uống thuốc vơí nước gì tốt nhất
Đối
với nhiều người, uống thuốc với bất cứ nước gì có vẻ không quan trọng,
thậm chí có người lựa chọn hẳn một loại nước có mùi vị thích hợp, nhằm
loại trừ cảm giác khó chịu do dùng thuốc. Như có người uống thuốc với
nước trà (chè) hoặc với nước trái cây (nước cam, nước chanh…) hay với
nữ, thậm chí với bia rượu là loại thức uống đang có sẵn hay chỉ đểu có
cảm giác dễ chịu!
Điều vừa kể thật ra có thể ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hiệu quả điều trị của thuốc, vì nếu dùng loại nước không thích
hợp sẽ ảnh hưởng đến sự hấp thu của thuốc ở hệ tiêu hóa, đưa đến thuốc
bị giảm tác dụng hay không còn tác dụng điều trị.
*Nước gì tốt nhất?
Nước
lã đun sôi để nguội hoặc nước lọc hợp vệ sinh là loại nước tốt nhất
dùng để uống thuốc. Uống thuốc với loại nước này với lượng nước đủ sẽ
giúp đưa thuốc viên (viên nén hoặc viên nang) từ miệng xuống nhanh đến
dạ dày, tan rã và hòa tan tạo dung dịch thuốc, sau đó trôi xuống ruột là
vị trí dược chất sẽ hấp thu vào máu cho tác dụng.
Đối với thuốc
là viên nang hay còn gọi là viên nhộng là dạng dễ nuốt, một số người
uống khan, không uống chung với nước (đặc biệt là người cao tuổi do rối
loạn tiểu tiện thường đi tiểu lắt nhắt rất ngại uống nước), viên nang
uống khan có thể dính lại ở thực quản gây viêm loét thực quản rất tai
hại. Vì vậy, uống thuốc với lượng nước đủ là cần thiết, thậm chí có một
số thuốc đòi hỏi phải uống nước thật nhiều (như thuốc chứa dược chất
sulfamid) để thuốc được lọc, bài tiết nhiều theo nước tiểu không gây
đóng sỏi hại thận.
Có thể dùng nước đóng chai nhưng phải là nước
tinh khiết chứ không nên dùng nước chứa các chất khoáng (còn gọi nước
suối) để uống thuốc, bởi vì chất khoáng như: canxi, natri… có thể tương
kỵ gây ảnh hưởng đến thuốc.
*Các loại nước không nên dùng?
Tùy
trường hợp, có loại nước hoàn toàn không thích hợp vì nếu uống với
thuốc sẽ làm mất tác dụng của thuốc hay gây hại đối với cơ thể, cụ thể
như sau:
Sữa: trong sữa có chứa canxi có thể kết
hợp với một số kháng sinh (như tetracyclin) tạo thành phức hợp không
tan, làm kháng sinh không hấp thu được vào máu để cho tác dụng. Tuy
nhiên, vẫn có trường hợp thuốc nên uống chung với sữa. Như dùng thuốc
gây bào bọt dạ dày (aspirin), hay dễ nôn ói (thuốc ngừa thai phải uống
hàng ngày dễ gây buồn nôn ở một số phụ nữ), hay cần chất béo để thuốc dễ
hấp thu (vitamin A, vitamin D) thì cần uống chung với sữa. Như vậy, để
lựa chọn đúng thức uống uống với thuốc nên hỏi bác sĩ hay dược sĩ để
được tư vấn.
Cà phê, trà, nước giải khát có ga:
trong các loại nước này, đặc biệt nước ngọt, nước tăng lực đều có chứa
caffein (là chất kích thích giúp tỉnh táo) sẽ kết hợp với thuốc bổ chứa
sắt, tạo thành chất kết tủa không hấp thu được. Ngoài ra, caffein còn
làm giảm tác dụng các thuốc được dùng nhằm an thần gây ngủ nếu uống cùng
lúc.
Nước ép trái cây: nhiều loại nước ép trái
cây hiện nay đã được chứng minh là gây hại nếu uống chung với thuốc.
Nước cam, nước táo dùng uống thuốc có thể làm giảm sự hấp thu một số
thuốc, do làm chất sinh học ở ruột đảm nhận việc chuyển vận thuốc vào
máu không hoạt động được. Nghiêm trọng nhất là nước bưởi chùm
(grape-fruit, là loại bưởi dùng nhiều ở phương Tây, nhưng thận trọng
cũng nên lưu ý cả nước bưởi trồng ở ta). Khi uống chung với một số thuốc
(như thuốc statin trị rối loạn lipid huyết, thuốc atenolol trị tăng
huyết áp…) nước bưởi chùm sẽ làm tăng độc tính của thuốc, do ức chế men
chuyển hóa thuốc ở gan, làm tăng nồng độ thuốc quá đáng ở trong máu.
Bia rượu:
đây là loại thức uống không nên uống chung với thuốc. Rượu làm tăng độc
tính hại gan của paracetamol, tăng độc tính hại dạ dày của aspirin,
tăng độc tính gây mê của thuốc an thần gây ngủ. Riêng với kháng sinh
như: metronidazol, các cephalosporin… nếu uống chung với rượu bia sẽ gây
phản ứng antabuse gây vật vã, hạ huyết áp rất khó chịu làm người dùng
thuốc cứ tưởng sắp chết đến nơi.
Trong thời gian dùng bất cứ loại thuốc nào, an toàn hơn hết là kiêng hẳn, không nên uống rượu bia.
Dược sĩ Nguyễn Hữu Đức
No comments:
Post a Comment