
Đó là quãng giữa thập niên 1990 và Gavriel Iddan đang trong phòng họp với một nhóm những nhà đầu tư triển vọng. Ý tưởng được nêu ra ở đây là một chiếc camera và bộ phận phát sóng vô tuyến nhỏ gần bằng viên thuốc bổ sung vitamin (viên con nhộng) có thể "du hành" trong đường ruột và cung cấp hình ảnh bên trong hệ tiêu hóa.
Ý tưởng từng bị cười chê và phải gác lại 10 năm
Các
 nhà đầu tư cười và hỏi: Anh nghiêm túc đấy chứ? Anh thực sự cho rằng 
mình có thể nhìn thấy thứ gì với chiếc camera này sao? Anh nên lắp thêm 
cả cần gạt nước cho nó đi.
Đến thời 
điểm bấy giờ, các bác sĩ vẫn phải dựa vào máy nội soi để xem hình ảnh 
bên trong ruột kết và ruột non – chiều dài khoảng 4,6 mét nối từ dạ dày 
đến ruột già. 
Máy nội soi là một ống
 dài, mảnh, với một đầu được gắn camera có độ phân giải cao. Nhưng thiết
 bị này chỉ cung cấp hình ảnh của một phần ruột non chứ không thể hiện 
tổng thể cả đoạn ruột. Hạn chế này thường chính là nguyên nhân dẫn đến 
những cuộc phẫu thuật không cần thiết. 
Tính
 riêng tại Mỹ đã có gần 19 triệu người mắc đủ các chứng rối loạn tiêu 
hóa, nhưng khoảng 1/3 số ca bệnh không thể phát hiện ra nguyên nhân 
thông qua nội soi thông thường. 
Idda
 biết rằng ý tưởng của mình sẽ giúp việc chẩn đoán loại bệnh này được 
cải thiện. Khi viên camera tí hon di chuyển trong ruột bệnh nhân, nó sẽ 
chụp hàng nghìn bức ảnh và do đó cung cấp cho bác sĩ cái nhìn toàn diện 
và đầy đủ hơn. 
Mọi việc bắt đầu từ cuộc trò chuyện giữa
 Idda và người hàng xóm, vị bác sĩ tiêu hóa tên Eitan Scapa. Lúc ấy là 
năm 1981 và Iddan đang sống ở Boston, Mỹ. Công việc của anh là phát 
triển các ống chụp X-quang và đầu dò siêu âm. Trong dịp trà dư tửu hậu, 
Scapa nhắc đến những hạn chế của ống nội soi bằng sợi quang và Idda gợi ý
 rằng nhất định phải có một giải pháp nào đó. 
Thế
 là Iddan bắt tay vào tìm hiểu về lịch sử của ống nội soi. Ngoài kinh 
nghiệm trong lĩnh vực X-quang và đầu dò siêu âm, Iddan còn có kiến thức 
sâu sắc về công nghệ camera trong các hệ thống tên lửa quân sự. 
Anh
 từng tham gia phát triển dự án camera "mắt tên lửa" cho nhà thầu quốc 
phòng Rafael ở Israel. Dự án này giúp tăng cường độ chính xác của tên 
lửa. Và điều này giúp anh nghĩ về một thiết bị cảm ứng có cơ chế hoạt 
động như "mắt tên lửa" nhưng kích thước nhỏ gọn đủ đưa vào cơ thể người 
bệnh. Vấn đề là kỹ thuật công nghệ vào đầu thập niên 1980 vẫn chưa đủ để
 triển khai ý tưởng này. Vậy là anh đành gác lại 10 năm.
Năm
 1991, khi gặp lại bác sĩ Scapa, Iddan thảo luận thêm về ý tưởng của 
anh. Cả hai biết rằng vẫn có rất nhiều trở ngại lớn, trong đó quan trọng
 nhất là thời lượng hoạt động của pin. Các loại pin thông thường với 
kích cỡ nhỏ như thế chỉ hoạt động được mười phút, trong khi thiết bị của
 họ cần pin ít nhất mười giờ đồng hồ. 
Đến
 năm 1993, nhờ mối quan hệ cũ với nhà thầu quân sự Rafael, anh được phép
 sử dụng phòng thí nghiệm của họ để tiến hành các thử nghiệm quan trọng.
 Kết hợp các công nghệ tiên tiến bấy giờ, anh lắp đặt một máy phát tín 
hiệu kèm theo chiếc camera nhỏ hơn một đồng xu. Một năm sau, Iddan nộp 
hồ sơ xin cấp bằng sáng chế tại Israel và Mỹ.

Hình ảnh mô phỏng PillCam - Ảnh TTO
Những thử nghiệm táo bạo và cuộc cách mạng mới
Thiết
 bị nội soi con nhộng camera không thể chiếm lĩnh thị trường nếu không 
có sự cộng tác của hai người: Iddan – nhà phát minh và Meron – giám đốc 
kinh doanh. Bấy giờ, Meron đang là CEO của công ty chuyên cung cấp máy 
camera ghi hình nội soi Applitec. Iddan mất khoảng vài tháng để thuyết 
phục Meron từ bỏ công việc CEO hiện tại và đồng sáng lập công ty mới với
 tên Given Imaging.
Nhưng 
phải mất vài năm, công ty của Meron và Iddan mới gọi được vốn. Năm 1997,
 Given Imaging tiếp cận được tập đoàn Rafael Development Corporation và 
nhận được 600 nghìn USD đầu tư từ tập đoàn này đổi lấy 10% cổ phần tại 
công ty khởi nghiệp non trẻ.
Cả hai 
liền tìm đến một nhóm khoa học có trụ sở ở Anh mà đứng đầu là C. Paul 
Swain, một người am hiểu tường tận về giải phẫu học nói chung và ruột 
non nói riêng. Mùa thu năm 1999, họ tiến hành cuộc thí nghiệm đầu tiên 
trên con người. Trước sự giám sát của bác sĩ Scapa, Swain nuốt viên 
nhộng vào bụng. 
Sau vài phút chờ 
đợi, trên màn hình bắt đầu xuất hiện những hình ảnh mờ. Điều này khiến 
các nhà nghiên cứu bối rối. Iddan lúc ấy cầm ăng-ten trên tay để thu 
hình ảnh từ chiếc camera tý hon liên tục di chuyển. Dù màn hình vẫn chập
 chờn sóng nhiễu nhưng Pillcam đã đi qua toàn bộ chiều dài ruột non. 
Lần
 này, nhờ thay đổi vị trí ăng-ten, họ đã có thể thu được những hình ảnh 
với chất lượng cao hơn và cuối cùng cũng nhìn thấy bên trong ruột non. 
Thí nghiệm xem như thành công mỹ mãn. 
Năm
 2001, sau khi Given Imaging tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm lâm sàng 
thành công để chứng minh tính an toàn và hiệu quả của sản phẩm, các nhà 
chức trách châu Âu và Mỹ đã phê chuẩn cho phép bán thiết bị này ra thị 
trường. Công ty Given Imaging tiến hành niêm yết trên sàn NASDAQ và huy 
động được hơn 60 triệu USD bấy giờ. 
Từ
 đó, phát minh PillCam của Iddan đã lan tỏa trên khắp thế giới và giúp 
các bác sĩ nhìn được  những hình ảnh chi tiết hơn. Với bệnh nhân, chi 
phí cũng rẻ hơn, chỉ khoảng 500 USD so với 800 USD nếu nội soi thông 
thường.
Ngày nay, PillCam vẫn nắm giữ
 90% thị phần thiết bị nội soi. Kể từ năm 1998, đã có hơn hai triệu bệnh
 nhân sử dụng PillCam và hơn 5 nghìn cơ sở y tế tại hơn 70 nước đang sử 
dụng thiết bị này.
http://cafebiz.vn
 
No comments:
Post a Comment