Wednesday, July 27, 2022

Ngày Này Năm Xưa - Đỗ Công Luận


Ngày nầy cách đây 49 năm...

Sau khi tiểu đoàn đi hấp ở Chi Lăng về, tiểu khu bàn giao cho hậu cứ ở xã Hòa Thuận, cách cầu Long Bình khoảng cây số, đối diện với trụ sở xã. Bây giờ nơi nầy là trụ sở xã Hòa Thuận. Trụ sở xã cũ là trường chính trị tỉnh Trà Vinh.

Tiểu khu trang bị thêm quân số, quân trang, quân dụng, vũ khí...Cấp trên muốn nâng cấp đơn vị tôi thành tiểu đoàn trừ bị cho tiểu khu. Đâu cần thì thảy vô.

Sáng sớm ngày 28/7/1973, đoàn xe GMC đã vận chuyển tiểu đoàn đến quận Tiểu Cần, cách tỉnh lỵ khoảng hơn 20 cây số. Một cuộc hành quân qui mô lớn do quân khu tổ chức tại đây. Một viên đại tá từ Cần Thơ sang chỉ huy. Đơn vị tập trung quân ở sân rộng của trường tiểu học, cách chi khu Tiểu Cần không xa.

Theo tin tức tình báo, một số đơn vị VC đang dưỡng quân ở vùng Tập Ngãi, quân số không hơn 1 tiểu đoàn. Thực tế là 1 trung đoàn. Trung đoàn D3 của khu 9.

Theo kế hoạch, 2 tiểu đoàn sẽ tảo thanh dọc theo sông Tập Ngãi. Dùng chiến thuật trực thăng vận. 

TĐ 404, tiểu đoàn thiện chiến nhất của tiểu khu Vĩnh Bình, nhảy vào vùng Chánh Hội, Trà Mềm, vùng tạm chiếm. Đánh thốc ra cặp bờ đông sông Tập Ngãi, về hội quân ở xã Hùng Hòa.

TĐ của tôi, 473, nhảy vào phía tây sông Tập Ngãi, cách trụ sở xã hơn cây số, cũng là vùng tạm chiếm, đánh cặp theo bờ tây của con rắn xanh, về hội quân ở xã Hùng Hòa.

Trước đó, trực thăng võ trang đã quần thảo, tác xạ vào những điểm khả nghi.

Thằng 404 nhảy vào trước. Sau đó là đơn vị của tôi. Từng đợt 5 chiếc trực thăng, mỗi lần bốc 1 đại đội thảy vào. 

Đoàn quân di chuyển được vài trăm mét, đại bàng ra lệnh dừng quân bố trí. BCH/TĐ đóng ở ngôi chùa bỏ hoang. Đại đội 3 và 4 bố trí mặt trước. Đại đội 2 và 1 bọc hậu.

Đại bàng vào tần số, theo dõi cánh quân bạn di chuyển. Môi hở răng lạnh. Có nghe tiếng súng nổ, giao tranh nhẹ vài phút rồi im lặng. Kẻ địch cũng biết ở hướng đông là thằng 404 nên né tránh, tạt sang bên nầy, bày binh bố trận để đánh thằng yếu hơn.

Khoảng 15 giờ, nghe tin cánh quân đầu của thằng 404 về gần đến xã Hùng Hòa, đại bàng hạ lệnh di chuyển. Chúng tôi ở hướng ruộng, đã thấy mấy đứa con đi đầu của 404. Đại đội 3 đi thọc sâu vào vườn cây, là điểm trú quân của du kích. Đại đội 4 đi tiếp theo. Trung đội 2 của tôi đi đầu. Đi đến đầu vườn, đã thấy bảng đề, Ấp Chiến Đấu. Vào vài mét là trạm thông tin, có bảng để ghi tin tức. Có nhà làm bằng tre nứa, có bàn ghế để đọc sách, hội họp. Đi vào trong, hướng sông, có những mương nước nhỏ, ẩm ướt, dừa nước bao quanh. Hướng phía ruộng là những gốc dừa, cây còng, tạo bóng mát cho cả khu vực. Âm u. Lạnh chân. Rồi những ụ công sự chiến đấu. Dò dẫm từng bước đi vì sợ mìn bẩy...

Thấy chúng tôi đã lọt vào thế trận. Họ bắt đầu nổ súng. Trước đó các tiền sát viên của họ đã được bố trí trên các cây cao để quan sát hướng quân di chuyển và điều chỉnh súng cối tác xạ. Đa số là cối 61 ly. Họ nhắm vào BCH/TĐ trước tiên. Thấy đi tụm cở dưới chục người, ba bốn cái máy PRC 25 với cần ăng ten giương cao là biết cánh chỉ huy. Họ cũng chọn thời điểm đánh là sau 16 giờ, trời gần sụp tối. Quân cứu viện khó tiếp cận.

Đại bàng bị trúng đạn gảy chân. Cố gắng liên lạc được BCH hành quân. Các quan thầy đang nhậu ở Long Toàn, nghe tin báo cáo, vội bốc trực thăng lên vùng. Đại đội 3 phụp vào sâu đã bị mần thịt. Đại đội 4 của tôi vội rút ra. Thầy trò bố trí cạnh bờ đê. Khẩu đại liên M60 của đại đội 1 nằm phía sau tôi chực chờ nổ súng. Nhưng trước mặt là bạn chạy ra nên họ không vội.

Từ trong vườn, trước mặt tôi khoảng 50 mét, VC phất cờ xung phong, la vang inh ỏi chạy ra. Tốp lính ở đầu hoảng loạn tháo chạy. Phía sau thấy vậy cũng chạy theo. Vọt...

Thời điểm đó, mưa nhiều, mặt ruộng đầy nước. Và sình lầy. Tôi cởi bỏ đôi giày vải cho không bị té. Chạy khoảng mười bước nghe tiếng cối 61 sau lưng nổ vang. Nhờ nước và bùn sình nên miểng không văng xa. Đạn súng nhỏ léo véo sau lưng. Vài người lính gục ngã. Đến con rạch nhỏ, bề ngang không hơn 10 mét, mấy người lính nói,

- Qua con rạch nầy là an toàn rồi đó ông thầy.

Họ là lính của đại đội tôi, đại đội 217 cơ hữu của chi khu trước khi nhập vào tiểu đoàn nên họ thành thuộc địa hình.

Bước xuống rạch, tôi đành cởi bỏ ba lô cho nhẹ người. Vì lệnh đi hành quân mấy ngày nên phải mang ba lô. 

Xuống nước, chỉ còn, tay phải là cây colt 45, tay trái là trái lựu đạn tròn M67. Có gì cưa đôi. Nước lớn, chảy xiết, đến giữa rạch nước ngụp đầu, khẩu colt rớt xuống nước. Đành chịu. Qua rạch xong, thầy trò nghỉ ngơi chốc lát, rồi tiếp tục lội bộ về điểm xuất phát hồi sáng. Sân trường tiểu học. Trời đã nhá nhem tối. AC 123 đã lên vùng thả hỏa châu và xạ kích.

Sau đó chi khu cho người ra tiếp nhận những người lính trở về. 

Các thương binh được sơ cứu rồi chờ trực thăng tải thương. Một toán lính cũng được ra chốt chặn ở cầu Song Lộc, sợ lính bỏ ngủ.

Tối hôm đó đơn vị được quân xa chuyển về hậu cứ. Mấy bà vợ lính hay tin nhốn nháo, chạy ra bệnh viện quân y tỉnh để nắm tình hình.

Trung sĩ Tuấn, trung đội phó của tôi, về đại đội trước tôi một hai tháng, hồi ở điểm tiếp nhận của chi khu thì có mặt. Về đến hậu cứ điểm danh thì mất tiêu. Mấy người lính nói, ổng vọt về Vũng Tàu rồi.

Sáng hôm sau, mấy tiểu đoàn vào chiến địa để thu dọn tử sĩ.

Thượng sĩ Sáu Rổ, người Miên, thường vụ đại đội 3 kể lại, 

- Tui chạy ra không được. Đêm đó leo lên ngọn cây để trốn. Thấy dưới đất họ đốt đuốc sáng rực để thu gom chiến lợi phẩm rồi chất lên xuồng máy chạy đi. Xế trưa lính vào tôi mới leo xuống...

Đại đội 3 bị thiệt hại nặng nhất. Đại đội trưởng, phó, và mấy người lính bị bắt làm tù binh. Đem giam giữ ở Cồn Cù, Ba Động. Thời gian sau họ trốn thoát được, đại đội trưởng bị bắn chết. Những người còn lại chạy về, bị ANQĐ mời để thẩm vấn và điều tra tin tức.

Về đến hậu cứ, đại đội trưởng của tôi được điều động làm xử lý thường vụ tiểu đoàn để điều hành công việc. Lo hậu sự cho đại bàng và thương binh tử sĩ. Phòng 5 tiểu khu cử sĩ quan xuống để làm công tác quân huấn. Tiểu khu bổ sung quân số, trang thiết bị.

Mỗi tối, tôi bị điều động dẫn lính đi nằm chốt, làm tiền đồn. Tối thì nằm ngủ ở đình thần hướng ra sông Long Bình. Đêm thì đóng chốt ở chùa Miên gần xã Hòa Lợi. Dần dần bạo dạn, hết sợ chết. Nghĩ rằng có số mạng.

Sau đó tiểu khu có quyết định cử tiểu đoàn trưởng, và phó, mới. Khung cán bộ các đại đội, các ban của BCH/TĐ được sắp xếp lại . Lại bắt đầu lao vào cuộc chiến mới. Làm công tác bình định, đóng đồn, lập ấp ở vùng chiến địa cũ. Xã Tập Ngãi.

Chiến trận đã đúng 49 năm. Nếu vận đen, ngày hôm nay là giỗ lần thứ 49 của tôi.

Cũng như đại bàng, cố thiếu tá Thạch Ngọc Nhường, đã có 49 lần đám giỗ.

Khoảng gần một tháng sau, quân xa vận chuyển cả đơn vị đến ngã ba Giồng Lức, xã Thạnh Mỹ. Từ đây cả đơn vị lội bộ theo con kinh đào thẳng tắp. Rộng khoảng đôi ba mét, nước trong vắt, nhìn thấy cát ở đáy. Các sĩ quan kỳ cựu nhắc lại, dòng kinh này đã thấm máu những người lính của tiểu đoàn 472, trong một trận bị phục kích, cách đấy vài năm.

Một chiến đoàn, gồm 3 tiểu đoàn, được thành lập, đưa vào vùng này. BCH chiến thuật đóng ở nhà thờ Tập Ngãi. Đơn vị tôi tiến qua chợ Tập Ngãi, đóng quân ở nơi tháng trước nhảy trực thăng vào. BCH/TĐ đóng ở ngôi chùa. 4 đại đội bao bọc xung quanh.

Một đơn vị bạn vào trước, đóng hơi xa chúng tôi. Vào đến nơi, lính để ba lô súng đạn, lo đào hố phòng thủ. Du kích bên kia sông sang tập kích. Mất một số súng đạn quân trang.

Đại đội tôi nằm án ngữ, hướng nhìn ra sông. Dừa nước mọc dầy, không thấy mặt nước. Mỗi tối nghe xuồng máy chạy cũng chẳng làm được gì.

Hôm sau, thằng 404 hành quân vào vùng Chánh Hội Trà Mềm, ổ kiến lửa, đi từ Trà Cú qua. Đơn vị tôi được lệnh ra án ngữ mặt sông sau xã để giữ an ninh cho đơn vị bạn trở về. Họ bị vây đánh truy kích, nhưng vẫn chống trả quyết liệt. Phi tuần A37 từ Trà Nóc sang đánh bom hổ trợ. Chiều tối, đơn vị bạn về cách chỗ chúng tôi khoảng 1 cây số. Mỏi mệt, họ khoanh vùng nằm lại, dù biết bị bao vây. Đêm đó chúng tôi cũng nằm lại. Tờ mờ sáng đã nghe tiếng súng nổ, VC tấn công. Họ chống trả quyết liệt. Ở hướng chúng tôi, thấy bóng người chạy lố nhố. Khoảng 9 giờ sáng, đơn vị bạn di chuyển ra bằng xuồng ghe. Gặp chúng tôi, họ giơ cao những khẩu B40, B41, súng AK chiến lợi phẩm. Cũng có thương vong. Một đại đội trưởng tử thương. Sau đó, số vũ khí nầy được đem triễn lãm ở chi khu, khỏa lấp cho thất bại của đơn vị tôi.

Khoảng tháng 9/2010, tôi cùng hai người bạn về thăm lại chiến trường xưa. Đến Tiểu Cần, chỗ ngã ba. Một đường về xã Hùng Hòa. Một đường ra quốc lộ 60 về Trà Vinh. Anh em ghé quán nước ven đường nghĩ ngơi uống nước. Thấy chị chủ quán lớn hơn tôi cở 5-6 tuổi, tôi hỏi thăm, 

- Chị ở đây từ hồi đó đến giờ...

- Đúng vậy. Tôi sinh quán ở đây.

- Khoảng giữa năm 1973, có trận đánh lớn ở Tập Ngãi, chị biết chứ...

Đúng ngay tần số, chị trả lời vanh vách.

- Ở ấp Cây Gáo đó mà. Hồi đó ông xã tôi làm huyện đội trưởng, dẫn mấy ông D3 đánh trận đó. Quốc gia bị thương chết nhiều lắm. Tịch thu nhiều súng ống. Sau đó mấy ông 404 vào đánh ở Chánh Hội Trà Mềm, lấy được mớ súng đem về quận triễn lãm. Ông xã tôi sau nầy chuyển qua công an quận, làm tới trung tá, rồi về hưu...

Chuyện xưa sau nầy mới biết...

 

Tôi và người âm thoại viên, nôm na là lính mang máy, thầy trò đào chung một hầm. 4 thân dừa chôn 4 góc. Nắp đấp cây chuối còn. Nóc hầm gác lá dừa, lấy bùn đất đắp lên. 2 thầy trò nằm ngủ ôm máy, có gì mở máy nghe. Lần nầy cho an toàn, tôi thủ cây M16 cùng mấy băng đạn.

Tháng 11/1973, tôi đi phép thường niên. Trung đội giao cho chuẩn úy Lam mới về nắm giữ. Một lần đi giải tỏa cho đồn của đại đội 1, trên đường về, đại đội và BCH bị phục kích ở kinh Ngọc Hồ, Tam Ngãi Cầu Kè. Nhờ cây cối 81 giải vây. Nhưng có thương vong. Hạ sĩ Được, âm thoại viên, bị tử trận. Đại đội trưởng và em vợ nó bị thương. Ngủ yên đi Được nhé !!

Ở chiến trường này, nơi hoang vắng, những đêm mưa dầm, ếch nhái kêu buồn da diết.

Nhớ bạn bè. Nhớ thành phố. Người lính có tâm trạng...

 

Thư Cho Bằng Hữu Ở Biên Hòa 

 

Xa chúng mày tao buồn cô độc

Ngồi làm thơ hút thuốc đốt thời gian

Những kỹ niệm chợt khơi nguồn sống dậy

Bên cà phê bên khói thuốc miên man.

 

Tao nhớ quá những ngày xưa thân ái

Mình chung trường chung màu áo học trò

Giờ sách vở cũng trở thành xa lạ

Cổng trường xưa còn có đợi chờ.

 

Bạn bè chung lớp giờ còn dăm đứa

Áo chinh nhân bên gươm súng miệt mài

Đứa trở lại nửa hình hài tàn phế

Trắng cuộc đời trắng cả tương lai.

 

Tao rồi cũng lăn thân vào sương gió

Nắng quê hương in mái tóc phiêu bồng

Chút nước mắt tưới xanh hồn cây cỏ

Trả ơn đời trả nợ núi sông.

 

Đêm chiến tuyến với nỗi buồn ngút mắt

Trời vào đông sương buốt lạnh tái tê

Tay gối súng chừng nghe đời ngoảnh mặt

Rừng cây xanh ngăn kín lối đi về.

 

Lần về phép gặp nhau mừng kể lễ

Chung bàn tròn ly rượu ấm chuyền môi

Men rượu đắng nhưng thâm tình vẫn ngọt

Ngôn ngữ nào kể hết chuyện chia phôi.

 

Uống dùm tao tách cà phê nóng

Đắng cay nào nồng đậm trên môi

Như thiếu chút gì trong cuộc sống

Tao ngồi đây nghe thương nhớ đầy vơi.

 

Mai hết giặc tao về bên gối Mẹ

Ôm cuộc đời rao bán người mua

Đời sẽ buồn và đời sẽ chán

Vì tương lai có cũng bằng thừa.

 

Điếu thuốc tàn như ngày chợt tắt

Tao trở về hiện tại của tao

Những hào lũy kẽm gai giăng mắc

Ngày mai ơi, xin vẫy tay chào...

 

Tôi có người bạn chung lớp. Nó đi HSQ từ sau Mậu Thân. Sang mùa hè đỏ lửa, nó tình nguyện qua binh chủng dù, tiến đánh tái chiếm cổ thành Quảng Trị. Nó bị pháo dập nát một tay một chân, thành TPB chưa bao lâu thì mất nguồn thu nhập. Nó lang thang chỉ tìm bạn bè rồi chết trong cô độc. Nghiệp ơi !! 

Đào hầm hố phòng thủ xong, mỗi sáng đi phát quang. Mỗi người được phát một cây rựa. Toán phát quang. Toán cảnh giác. Đi về hướng xã Tập Ngãi là vùng rừng thưa, nhiều cây còng, cây dừa ăn trái. Mỗi cây được quấn 1 thỏi TNT, kích điện nổ là đổ ngã. Trái dừa thu lượm để uống. Nếu nhiều thì nấu cơm bằng nước dừa. Mỗi cây có 1 củ hũ dừa. Hầm vịt hoặc thịt heo thì ngon ngọt béo. Đời lính có những giây phút huy hoàng.

Rồi cũng có thương vong. Một lần phát quang, đánh nổ cây còng. Thiếu úy Châu, ban truyền tin tiểu đoàn, bị một miếng vỏ cây nhỏ trúng hư một con mắt. Sau này được giải ngủ. Tháng 1/1974, tôi được đề cử thay thế và sau đó đi học khóa chuyên môn căn bản truyền tin. 

Khoảng một tuần lễ hoặc mươi hôm thì có chuyến tiếp tế từ quận vào. Xuồng chở qua những con rạch nhỏ, có lính nằm án ngữ. Tiếp tế thực phẩm thuốc men đạn dược...

Cần gì có nấy.

Khoảng 10 ngày sau, xung quanh có phần trống trải, dân công, nghĩa quân ở xã, ở quận lên lập đồn, lập ấp.

Cái chết thì không đối diện, nhưng tử thần rình rập xung quanh. Dưới chân phải đi cẩn thận. Một cái hộp lon cá mòi, nhét thuốc nổ vào, gài kíp nổ. Một trái đủ loại 3 người ra ngoài vòng chiến đấu. Một người bị thương. Hai người tải thương. Trái đạn 105 ly lép, đạn cối lép, cũng đủ hốt xác một người. Rồi bắn sẻ. Pháo kích bằng lựu đạn bắn ná giàn thun.

Anh bạn sau nầy kể lại. Anh ta đi học khóa không trợ, theo chuyến tiếp tế vào trình diện đại bàng. Chưa kịp ngã lưng, bị dính miểng lựu đạn pháo kích trúng vào đùi. Hên là trực thăng tải thương có liền. Lại được nghỉ dưỡng thương mấy tháng.

Có 1 người lính của trung đội tôi, muốn được giải ngủ. Anh ta tháo trái lựu đạn ra. Lấy kíp nổ kẹp vào ngón chân. Lấy sợi dây kẽm buột vào chốt an toàn. Nằm trong hầm, đưa bàn chân ra giật chốt. Mất 3 ngón chân, và mất máu. Đại bàng thấy vậy cho sơ cứu, rồi gọi trực thăng chuyển thương. Nhưng tức giận, ông làm báo cáo tự hủy hoại thân thể, không được ra hội đồng, phải ra tòa án binh.

Cứ thế, ngày lại qua ngày.

Sau 5 tuần lễ, tiểu đoàn khác vào thế chân. Đơn vị tôi được rút quân. Lại phiêu bạt ở vùng đất Vĩnh Bình Trà Vinh.

BCH/TĐ và đại đội 4 về làm trừ bị, phòng thủ cho chi khu Cầu Ngang. 3 đại đội khác, mỗi đại đội về một chi khu, đóng đồn. Kế hoạch của tiểu khu muốn nâng cấp đơn vị tôi không hiện thực, vì thiếu yếu tố con người, và lòng can đảm.

Tuổi trẻ chúng tôi là như vậy đó. Phiêu lưu trong cuộc chiến. Đối đầu với cái chết hiểm nguy. Có những người trẻ đã vĩnh viễn ra đi. Tôi còn có cơ hội gặp lại đại bàng, tháng 3/2011, sau 37 năm xa vắng. Dù sao cũng là một người anh đáng kính. Một niên trưởng đáng yêu. 

Đại bàng, cố thiếu tá Thạch Ngọc Nhường, ngủ yên đi nhé.

Những bạn bè một thời khói lửa, sát cánh bên nhạu, hãy ngủ yên đi bạn.

Tôi còn sống, còn thức, còn trăn trở với những gì có được hôm nay.

Rồi tất cả sẽ đi vào quên lãng khi ta thành cát bụi...

 

Viết cho ngày 28/7/1973. 49 năm sau... 

Đỗ Công Luận. 28.07.2022 

4 comments:

  1. đánh trận dỡ như vầy kể làm chi!

    ReplyDelete
  2. Tôi mới về đơn vị hơn 3 tháng. Trước đó mấy tháng, TĐT đã tử trận. Vị sau nầy là người thứ 2 tiếp tục tử trận. Tinh thần binh sĩ quá tệ. Lãnh đạo cũng vậy. Đến người thứ 3, cho đến ngày tan hàng, cầm quân có hiệu quả. Đánh đấm có bài bản. 2 lần bị phục kích, phá được thế trận, dù có chút hi sinh. Quan trọng là người chỉ huy can trường. Tinh thần binh sĩ phải quả cảm. Ít ra như TĐ 404.
    Tôi viết lại để nhớ về kỹ niệm đời lính. 14 tháng ở đơn vị tác chiến. Nếu không, còn gì để viết.
    Xin cảm ơn anh đã chia sẻ.
    Xin cảm ơn chị NPN đã giới thiệu bài viết đến mọi nhà...

    ReplyDelete
  3. Bài viết về chiến trường xưa của quí Niên Trưởng hay quá

    ReplyDelete
  4. Xin cảm ơn chị NPN đã chia sẻ bài viết đến mọi người.
    Xin cảm ơn vi hữu đã chia sẻ, dù chỉ là kỹ niệm buồn, đong đầy máu xương...ĐCL

    ReplyDelete