(Hình:
Tổng thống Richard Nixon thăm Trung Quốc năm 1972.)
Việc
Trung Quốc tìm cách can thiệp chính trị vào Miền Nam Việt Nam ở giai đoạn cuối
của cuộc chiến tranh Việt Nam là điều không mới, nhưng một kế hoạch can thiệp ở
cấp độ “quân sự”, với việc tung vào hai sư đoàn Nhảy dù để đánh chặn Quân đội
Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, lại là điều ít người biết đến.
Bí mật lịch sử này lần đầu được Tiến sĩ sử học George Jay Veith tiết lộ trong phần “Tay chơi cuối cùng: Trung Quốc” (“The final actor: China”,) thuộc chương 24, “Ta sẽ tuốt gươm” (“I will draw out my sword”,) trong sách “Tuốt kiếm Viễn chinh” (Drawn Swords in a Distant Land) xuất bản năm 2021.
Cuốn
sách “Tuốt kiếm Viễn chinh” được Tiến sĩ Jay Veith phát triển từ luận án Tiến
sĩ sử học ông bảo vệ tại Monash University, Úc Ðại Lợi. Nhân dịp 30/4, RFA
phỏng vấn Tiến sĩ Jay Veith về bí mật lịch sử này.
RFA:
Trong sách “Tuốt kiếm Viễn chinh” (Drawn Swords in a Distant Land), ông đã
trình bày những tư liệu lịch sử chưa từng được ai công bố trước đây, thu thập
được từ cuộc phỏng vấn với nhân chứng Nguyễn Xuân Phong. Xin ông cho biết tại
sao lời kể của nhân chứng này lại quan trọng? Tại sao trước đây, ông Phong chưa
từng công bố điều này?
George
Jay Veith: Nhiều nhân chứng và nhà nghiên cứu đã nói về những can thiệp chính
trị của của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào Miền Nam Việt Nam ở giai đoạn cuối
của cuộc chiến. Nhưng trong các cuộc phỏng vấn của tôi với ông Nguyễn Xuân
Phong, bao gồm phỏng vấn trực tiếp và phỏng vấn qua email, ông ấy đã cung cấp
cho tôi một kế hoạch can thiệp ở cấp độ quân sự của Trung Quốc vào Nam Việt Nam
ở giai đoạn cuối của cuộc chiến.
Có
lẽ đây là lần đầu tiên điều này được tiết lộ bởi một nhân chứng lịch sử có thẩm
quyền. Ông Nguyễn Xuân Phong là một nhân chứng lịch sử. Ông ấy là Quốc vụ
khanh, Phó phái đoàn hòa đàm Việt Nam Cộng Hòa tại Paris từ 1968 đến 1975. Ông
ấy xác nhận với tôi việc Trung Quốc liên lạc với ông để xây dựng một kế hoạch
can thiệp trực tiếp bằng quân sự để ngăn cản Việt Nam thống nhất.
Ban
đầu, ông Phong miễn cưỡng kể cho tôi các câu chuyện lịch sử mà mình là nhân
chứng. Nhưng sau khi tôi tiếp tục gửi cho ông những tài liệu vừa được giải mật
trong khoảng thời gian đó, cuối cùng ông ấy đã đồng ý kể cho tôi câu chuyện.
Sau
1975, ông ấy bị đi tù. Những người Cộng sản Việt Nam không phải là không biết
gì về kế hoạch can thiệp của Trung Quốc. Họ tra vấn ông ấy về quan hệ giữa Việt
Nam Cộng Hòa và Trung Quốc.
Nhưng
ông không trả lời, và sau này cũng không nói gì về điều đó, vì muốn bảo vệ
những nguồn tin và nhân chứng liên quan. Ông ấy không bị tra tấn, nhưng họ từng
đánh ông trọng thương một lần vì ông chỉ nói ngắn gọn là không biết gì về điều
đó.
RFA:
Ông Nguyễn Xuân Phong kể cho ông nghe về những sự kiện và hoạt động nào vào
cuối cuộc chiến? Những hoạt động nào trong số này có liên quan đến sự can thiệp
của Trung Quốc vào Miền Nam Việt Nam?
George
Jay Veith: Ông Nguyễn Xuân Phong cho biết vào những ngày cuối của cuộc chiến,
cả phía Bắc Việt và Trung Quốc đã liên lạc với ông.
Phía
Bắc Việt bắn tin cho ông, cho đại diện của Pháp (tướng Paul Vanuxem,) và một số
nhân vật khác, rằng nếu ông Dương Văn Minh không được đưa lên nắm quyền trước
ngày 26/4/1975, họ sẽ san bằng Sài Gòn bằng hai mươi ngàn viên đạn pháo.
Còn
phía Trung Quốc cũng cho người đến gặp ông để đưa ra một kế hoạch can thiệp
quân sự nhằm ngăn chặn Bắc Việt chiếm Miền Nam Việt Nam. Mục đích của Trung
Quốc là ngăn chặn một Việt Nam thống nhất.
Kế
hoạch của Trung Quốc, theo lời kể của ông Phong, là trước hết xây dựng một liên
minh giữa chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam. Sau khi có liên minh này, Tổng thống Dương Văn Minh sẽ
đưa ra lời thỉnh cầu quốc tế giúp đỡ.
Nhân
cơ hội đó, Pháp sẽ hồi đáp bằng cách đưa vào Miền Nam Việt Nam một “lực lượng
quốc tế” với danh nghĩa bảo vệ chính phủ mới, nhưng trong cái gọi là “lực lượng
quốc tế” này sẽ có “hai Sư đoàn lính Dù của Trung Cộng”. Hai sư đoàn Dù này sẽ
được thả xuống Biên Hòa.
Sau
khi nhận tin từ phía Bắc Việt, ông Phong đã trở về Sài Gòn gặp Tổng thống Trần
Văn Hương, người kế nhiệm sau khi ông Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21/4/1975,
để cố gắng ngăn chặn một cuộc chiến có khả năng diễn ra ngay tại Sài Gòn.
Sau
đó, ông Phong gặp ông Trần Văn Đôn (lúc đó là Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng
Quốc phòng,) ông Trần Ngọc Liễng (đại diện của ông Dương Văn Minh, và là một
tình báo của phía Bắc Việt, sau 1975 là Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam), và một đại diện của Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam để
bàn về giải pháp xây dựng một chính phủ liên hiệp giữa Chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
Ông
Phong cho biết trong cuộc gặp này, ông đã nói rằng Pháp và một số nước khác sẽ
hỗ trợ chính phủ mới. Nhưng ông không nói ra thông điệp mà Trung Quốc muốn ông
chuyển đến Sài Gòn.
Về
kế hoạch của Bắc Kinh, ông Phong giải thích trong lần tôi phỏng vấn ông năm
2006 và 2008 rằng Bắc Kinh cho ông biết họ cần bốn ngày để điều quân và đưa
quân đến căn cứ Không quân. Theo ông, tính toán của Bắc Kinh là họ không muốn
trực tiếp ra mặt, không muốn tạo ra hình ảnh mình là bên ngang nhiên mang quân
vào Miền Nam Việt Nam.
Trung
Quốc muốn tạo ra một vở kịch trong đó người Pháp mới là diễn viên chính can dự
vào đó. Pháp sẽ kêu gọi một quốc gia tham gia “lực lượng quốc tế” do mình đứng
đầu để “giúp đỡ” chính phủ liên hiệp giữa Việt Nam Cộng Hòa và Cách mạng Lâm
thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam còn Trung Quốc sẽ tham gia vào.
Trung
Quốc nói rằng họ cần đưa quân vào để ngăn chặn đà tiến công của quân đội Bắc
Việt nhưng cũng không thể đóng quân lại Miền Nam quá lâu, vì họ không muốn bị
buộc tội là có âm mưu chiếm đóng.
Ông
Nguyễn Xuân Phong cho tôi biết là Trung Quốc, mà cụ thể là phái viên của Chu Ân
Lai, lần đầu tiếp xúc với ông vào tháng 12 năm 1970.
Theo
tôi, kế hoạch can thiệp quân sự của Trung Quốc mà ông Nguyễn Xuân Phong tiết lộ
trước khi qua đời năm 2017 là một trong những bí ẩn. Bí ẩn này sẽ được làm sáng
tỏ hơn nữa nếu các nhà nghiên cứu tiếp cận được những tư liệu lịch sử chính
thức mà các chính phủ liên quan công bố.
(Ảnh:Lực
lượng Nhảy dù của PLA trong lễ kỷ niệm 10 năm chiến thắng 1949-1959. Lực lượng
này được Đặng Tiểu Bình và Lưu Bách Thành thành lập năm 1947.)
RFA:
Làm thế nào để kiểm tra tính chính xác của những câu chuyện ông Nguyễn Xuân
Phong kể lại?
George
Jay Veith: Hiện tôi chưa có nhiều tư liệu chính thức của các bên để xác minh
thêm những gì ông Phong nói với tôi. Nhưng có nhiều người đã kể những câu
chuyện liên quan về việc Trung Quốc cố gắng thuyết phục Tướng Dương Văn Minh
trong những ngày cuối cùng là hãy yêu cầu sự giúp đỡ của Trung Quốc để cứu Miền
Nam Việt Nam.
Tôi
tin rằng điều đó đã xảy ra. Tuy nhiên, ý định thực sự của Trung Quốc là gì vẫn
còn là một bí ẩn. Có vẻ như Hà Nội cũng đã tin rằng Trung Quốc có một kế hoạch
như vậy. Họ đã tra khảo ông Phong về điều đó.
RFA:
Trong sách “Tuốt kiếm viễn chinh”, ông có nói Trung Quốc còn tiếp xúc với cả
ông Nguyễn Cao Kỳ và tìm cách tiếp xúc với ông Nguyễn Văn Thiệu nữa?
George
Jay Veith: Không rõ chính xác thời điểm Trung Quốc tiếp cận ông Nguyễn Cao Kỳ
vì ông ấy không nói cụ thể lắm. Đại khái vào tháng 9 năm 1975, ông Nguyễn Cao
Kỳ trả lời phỏng vấn William Buckley trên tờ Firing Line, kể rằng Trung Quốc đã
cử đặc vụ đến tận nhà ông tại Sài Gòn vào khoảng cuối năm 1972.
Họ
đề nghị ông ấy đảo chính ông Thiệu rồi “tuyên bố Miền Nam Việt Nam trung lập,
không thân Mỹ cũng không thân Nga”.
Theo
ông Kỳ kể lại, Trung Quốc “không muốn bị hở sườn phía Nam, vì bị Bắc Việt, một
vệ tinh của Nga trấn giữ”. Rồi đến tháng 12 năm 1975, ông Kỳ cũng kể lại lần
nữa chuyện này trong một bài phát biểu ở Mỹ, được tường thuật trên tờ Baltimore
Sun, ngày 6 tháng 12 năm 1975.
Nhưng
tôi không hiểu tại sao ông Kỳ không nhắc đến vụ này trong sách của ông.
Ngoài
tìm cách tiếp xúc với ông Kỳ, Trung Cộng còn tìm cách tiếp xúc với ông Nguyễn
Văn Thiệu. Sau khi đánh chiếm Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974, họ trao trả tù
binh Việt Nam Cộng Hòa qua ngả Hồng Kông và gửi thông điệp qua Tổng Lãnh sự
Việt Nam Cộng Hòa ở Hồng Kông tới Tổng thống Thiệu, yêu cầu thu xếp một cuộc
hội đàm bí mật.
Năm
2007, tôi phỏng vấn ông Jim Eckes, một bạn thân của ông Nguyễn Xuân Phong và là
Giám đốc một hãng hàng không ở Sài Gòn lúc đó. Gia đình ông Jim sống ở Hồng
Kông và ông ấy đi lại giữa Hồng Kông và Sài Gòn thường xuyên.
Do
đó, Tổng Lãnh sự Việt Nam Cộng Hòa ở Hồng Kông nhờ Jim chuyển thông điệp của
Trung Quốc về cho ông Thiệu. Ông Jim Eckes kể tôi nghe là ông lại chuyển thông
điệp cho Graham Martin, Đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam Cộng Hòa, và thông điệp “nằm
chết” tại đó.
RFA:
Tại sao Trung Quốc hỗ trợ Bắc Việt trong suốt cuộc chiến nhưng không muốn Bắc
Việt chiến thắng? Các nhà nghiên cứu trước đây đã nói gì về điều này?
George
Jay Veith: Trung Quốc muốn Việt Nam bị chia nhỏ ra. Họ muốn Bắc Việt không quá
mạnh, vì lúc đó họ nhìn thấy Việt Nam và Liên Xô có thể sẽ ký một Hiệp ước liên
minh.
Kosal Path, Phó Giáo sư sử học tại Trường Đại học Brooklyn (Brooklyn College), nhận định rằng “giới nghiên cứu chia sẻ một nhận định chung là các nhà lãnh đạo Trung Quốc vào năm 1973 đã càng ngày càng lo ngại việc Hà Nội nghiêng về phía Mạc Tư Khoa”.
Lo lắng này của Trung Quốc hình thành trong bối cảnh cuộc cạnh tranh giữa hai cường quốc Trung Quốc và Liên Xô trong khối Cộng sản trở nên khốc liệt từ thập niên 1960s. Hai cường quốc Cộng sản này đã giao tranh dọc biên giới vào tháng 3 năm 1969.
Đến tháng 5 năm đó, Ấn Độ và Bắc Hàn đã đồng ý tham gia liên minh với Liên Xô chống Bắc Kinh. Trung Quốc lo ngại họ sẽ nguy hiểm về an ninh nếu có thêm Bắc Việt Nam ở phía Nam của họ tham gia liên minh này. Do đó, việc Bắc Việt Nam lấy thêm được Nam Việt Nam sẽ đi ngược lại lợi ích của họ.
Nhà báo Nayan Chanda trong cuốn sách “Người anh em thù địch” (Brother Enemy: The War After the War,) xuất bản năm 1986 cũng viết rằng Bắc Kinh đã “thực thi một cách nhất quán chính sách duy trì tình trạng chia cắt của Đông Dương bằng mọi giá.
Họ
cũng ngăn chặn các cường quốc khác hiện diện. Để làm điều này, họ thực thi thủ
thuật “ngoại giao thầm lặng”, cố gắng gây ảnh hưởng kinh tế, và tất nhiên,
không loại trừ sức mạnh quân sự”.
Khi
tiếp xúc với Đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ Alexander Haig để tiền trạm
cho chuyến thăm tới Trung Quốc của Tổng thống Nixon tháng 2 năm 1972, Chu Ân
Lai đã làm cho Haig sửng sốt khi khẳng định rằng:
“Các
ông đừng thua ở Việt Nam”, và rằng Trung Quốc “xem việc Hoa Kỳ thất bại và rút
quân khỏi Đông Nam Á là nguy hiểm đối với Trung Quốc”.
RFA:
Xin cảm ơn Tiến sĩ George Jay Veith đã dành cho độc giả của chúng tôi cuộc
phỏng vấn này.
Chuyện nghe cho vui thôi, lính Trung Quốc không có khả năng và phương tiện di chuyển xa như thế, nếu động binh tràn qua biên giới Việt Trung đang được Bắc Việt bỏ trống thì Bắc Việt sẽ hoảng hốt rút quân về phòng thủ phía bắc, thì hợp lý hơn.
ReplyDelete