Wednesday, March 6, 2024

“Homeless” Ở Đại Lộ Bolsa - Thang Chu

Hình chụp trước cửa văn phòng Hội Thánh Tin Lành ngay kế bên cạnh BBQ Liên Hoa. Hình do tác giả cung cấp.

Tác giả tên thật Chu Toàn Thắng, sinh năm 1962 hiện là cư dân Garden Grove. Công việc: Minister at Community of Agape Love Church. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là “Chỉ Cần Một Tay” đã phổ biến đầu năm 2016. Bài viết thứ hai kể về những ngày cuối năm của một gia đình gốc Việt có người chồng, người cha từng là sĩ quan VNCH, cựu tù nhân, và có người con mất tích trên đường vượt biển tìm tự do. Bài mới nhất “Homeless ở Đại Lộ Bolsa” của ông phác họa những mảnh đời bất hạnh vô gia cư trên con đường Bolsa, ngay giữa lòng cộng đồng người Việt. Mong tác giả tiếp tục gửi bài.

***

Người Việt hải-ngoại hãnh-diện về “thủ-đô tỵ-nạn” Little Saigon. Sau 49 năm từ 1975 Miền Nam bị mất nước đến nay đã có 5.4 triệu Việt hải ngoại, trong đó 2.4 triệu ở Mỹ gồm 1.2 triệu ở California trong đó 300.000 quanh “thủ-phủ” Little Saigon gồm năm thành-phố Garden Grove, Stanton, Westminster, Fountain Valley, và Midway. 

Nghe Little Saigon là nghĩ ngay tới Bolsa Ave, một trong những đại lộ đông người Việt nhất Quận Cam, nhất là từ khúc đường Magnolia đến Brookhurst, và cũng lắm người Việt vô gia cư “homeless” nhất. 

Chúng tôi mới treo bảng God Is Love cho văn phòng hội thánh Tin Lành cạnh BBQ Liên Hoa đường Bolsa ngày 22/12/2023 mà đã chứng kiến nhiều cảnh đời “homeless” éo le vui buồn lẫn lộn.

Bề mặt trước văn phòng phân nửa là cửa kiếng, phân nửa là gạch, nên đứng ngoài nhìn vào ai cũng tưởng văn phòng này chỉ tính từ cửa kiếng, gây hiểu lầm văn phòng không có quyền gì phần sân trước tường gạch. Nên lắm ”homeless” tụ tập ở đây.

Theo tôi, có khoảng 50-70 người homeless sống quanh Bolsa Ave giữa Magnolia và Brookhurst.


Hường và Tâm 

“Chào anh, người Việt mình có phố Bolsa cũng đỡ cho người homeless như tụi em lắm,” người homeless lần đầu tiên tôi gặp khi mở cửa văn phòng mở lời gợi chuyện.

“Chào anh, tôi tên Thắng.  Anh tên gì?” Tôi trả lời.

“Em tên con gái, tên Hường.”

“Con trai cũng có tên đó mà,” tôi đáp đỡ lời anh. “À, mà Hường nói ‘phố Bolsa  đỡ cho người homeless’ là sao?”

“Thì tụi em không bị đuổi đi hoặc bị kỳ thị như ở các khu business khác,” Hường hí hửng nói khi thấy tôi dễ chịu.  “Ngoài ra tụi em còn được cho ăn nữa đó.  Có khi được tiền nữa.”

Rồi Hường tự nhiên kể về đời anh như đã quen tôi lâu lắm rồi.

Anh vượt biên qua Mỹ lúc 14 tuổi với bà dì định cư tại Iowa.  Rồi 18 tuổi anh ham chơi tụ năm tụ bảy với bạn bè toàn Mỹ Trắng đưa đến nghiện ngập rồi homeless.  Anh có hai con với một thiếu nữ Trắng, rồi bị bắt vì tội nhiều lần đốt thùng giấy để sưởi ấm đêm đông lạnh. 

Ra tù không nhà không cửa, không vợ không con, anh về San Jose, Cali, sống với bàn dì khi ấy là chủ nhà hàng.  Nhưng anh phải làm việc 14 tiếng một ngày để đổi lại free ăn và ở.

Được vài năm, anh không muốn chôn đời mãi không thấy cả mặt trời vì khi đi làm ông trời chưa thức, và khi về thì ông trời đã ngủ từ lâu, anh lại lang thang xuống Little Saigon phố Bolsa. 

“Ở đây tuy homeless nhưng em vẫn không đói, có tiền lai rai ngày vài đồng mua đủ bao thuốc lá, chỉ có ngủ thì hơi lạnh nhưng em cũng quen rồi.  Còn tắm thì cứ $25 một tháng membership ở gym 24 Fitness là êm thôi,” Hường tự tin kể lể, “Quan trọng nhất là tự do anh ạ.”

Đang dở dang câu chuyện thì một người homeless nữa đến.

“Anh tên gì?” Tôi mở lời.

“Tâm,” anh cọc lóc trả lời.  Rồi anh móc gói thuốc lá Denim made in Germany, hút hai điếu cùng lúc.

“Anh hút thuốc lạ quá,” tôi ngạc nhiên hỏi, “anh không sợ sặc sao?”

“Hút vậy mới đã anh.  Thuốc này cũng rẻ.  Em mua $2 một gói, bán lại $4,” Tâm huyên thuyên nói về đời anh mà không cần tôi hỏi.

“Ủa, vậy Tâm bán cho ai?”

“Cho mấy đứa bụi đời như em nè anh.  Đôi khi gặp khách các quán cafê em cũng mời mua.  Miễn bán một ngày 10 gói là ấm đủ tiền ăn sang rồi anh.”

“Vậy sao họ không mua thẳng giá $2?”

“Nó đâu biết chỗ gốc đâu anh.  Em nhờ Trời cho biết mánh chơi với đám Mỹ Đen vì nó tưởng em cũng Đen.”

“Vậy Tâm sanh ở đâu?” Tôi ngạc nhiên hỏi.

“Ở Long Xuyên anh ơi.  Mà em không biết má em.  Nghe nói má sanh em xong đem cho bà vú nuôi, tới giờ em chẳng biết má em và ba em là ai.  Chỉ biết em lai Đen rồi qua Mỹ với vú nuôi và em trai nuôi.”

“Mừng cho Tâm,” tôi an ủi anh, “Mà sống độc thân như Tâm cũng vui.”

“Đâu có.  Em có con vợ.  Mỗi tháng em cho nó $50 và con nó $50 để nó dẫn em đi bác sỹ hoặc đi đâu cần giấy tờ, vì em không biết chữ, không biết ký vào đâu.  Nói vợ cho oai chứ em với nó có chung nhà đâu,” Tâm vừa nói hăng say vừa cười hồn nhiên.

“Vợ không ở chung là sao?” tôi tò mò.

“Nó ở viện tâm thần, một tuần được ra ngoài đi chơi với em một lần.  Em đón nó bằng xe bus rồi hai đứa lang thang khu Bolsa đông người Việt cũng vui lắm anh ơi.  Mười mấy năm nay tụi em sống vậy rồi đó.”

Thế cũng hết một ngày vui suy gẫm chuyện đời ở Phố Bolsa với những người chân chất. 


Ngọc

Trời mưa liên tục bốn hôm thì thật lạ ở Phố Bolsa.  Lại thêm gió giật có khi lên đến 18 miles/giờ.

Thế mà chị Ngọc lang thang ướt nhẹp người đủ để cảm lạnh.

“Anh có khăn dư hoặc giấy chùi tay cho em xin lau người ạ,” chị tạt vào văn phòng tôi lúc xế chiều khi các tiệm đóng cửa gần hết.

“Chị ngồi đây sưởi ấm đi,” tôi lấy chiếc máy sưởi nhỏ đem lại để trước chị, “Chị tên gì?”

“Em tên Ngọc.  Em ở Texas, mới qua được hai tháng.  Con cháu nó đem em qua đây rồi bỏ em một mình.  Nó bay đi South Carolia làm nails rồi,” chị huyên thuyên, “Mà cũng có cái may, nhờ vậy em mới homeless, tháng kiếm được từ $1,000 đến $2,000.”

“Thế là chị giàu hơn tôi rồi.  Bệnh đã có Medical, SSI thì được thêm $1,100,” tôi nói đùa.

“Không, vì em không có giấy tờ gì cả.  Em mất hết tất cả giấy tờ, chỉ còn nhớ số security thôi,” Ngọc lại huyên thuyên, “Em lấy chồng Mỹ gốc Việt rồi qua Mỹ năm 2012.  Sáu tháng sau ly dị.  Em lấy chồng lần hai có một con gái năm 2014, rồi cũng bỏ nhau.  Đứa con gái thì chính phủ đưa cha mẹ nuôi vì lúc ấy em bị khủng hoảng rồi bệnh tâm thần luôn.  À không, chắc em bị tâm thần hồi ở Việt Nam sau cú té xe đập đầu xuống đất.  Em cũng không biết.  Nhưng chắc là em bị tâm thần.”

“Tôi thấy chị bình thường mà,” tôi an ủi Ngọc.

“Anh có miếng giấy và cây viết thì cho em mượn,” Ngọc trố mắt nhìn tôi nói như thể chị cần viết điều gì đó lắm, “Màu đen và màu đỏ càng tốt nha anh.”

Tôi làm theo yêu cầu Ngọc.  Ngọc cắm cúi viết tên chị, tên con gái, ngày sanh cả hai, ký tên, rồi cứ thế viết lại đầy cả hơn ba trang giấy.  Lạ là tên chị mực đen, tên con gái mực đỏ.

Nước mắt Ngọc bắt đầu lăn xuống quyện lấy những giọt mưa chưa lau ráo hết.  Phải chăng nước mắt Trời và nước mắt người đều giống nhau!

“Ủa sao tên em mực đen mà tên con em mực đỏ?” Tôi ngạc nhiên hỏi.

“Đời em đen quá anh ơi!  Em muốn đời con em số đỏ như Pechanga tiền vô như nước,” Ngọc mếu máo.

“Em hay đi sòng bài lắm à?”

“Không, nhưng em thấy xe bus Pechanga đỏ chét có hình mấy cô gái cười tươi lắm nên em nghĩ Pechanga hạnh phúc lắm.”

Rồi Ngọc cắm cúi viết tiếp với nụ cười thỉnh thoảng trên môi như đang đùa giỡn với những kỷ niệm cùng con gái.

Ngọc đứng dậy bất ngờ như khi mới đến. 

“Em muốn cúng tiền cho hội thánh,” Ngọc vừa nói vừa nhìn quanh tìm hộp lạc hiến, “Một tháng em cúng $500 đó anh.  Em cứ lang thang thấy đâu có hộp từ thiện là em dâng.  Của Trời cho em chứ có phải của em đâu!”

Lạy vài lạy trước hộp lạc hiến sau khi bỏ vài đô vô hộp, rồi Ngọc chậm rãi ra đi với thùng xe kéo đầy đồ đạc lủng củng.

Trời vẫn mưa lất phất phủ choàng lên áo len Ngọc như những giọt nước mắt không tan.

 

Trường và Long 

“Wow, lâu lắm mới gặp lại anh Thắng,” Trường reo lên khi gặp tôi, “Đã mấy năm rồi đó.”

“Ừm, gặp Trường vui quá,” tôi đáp, “Giờ ở đâu?”

“Em qua boarding care ở Chapman.  Đây là anh Long.  Anh Thắng nhớ anh Long trước ở với em ở Lampson không?  Anh Long giờ “homeless” rồi.”

“À, tôi nhớ anh Long lúc trước ở chung nhà Trường khi tôi ghé thăm.  Lâu lắm rồi đó.  Anh Long khoẻ không?” Tôi quay sang hỏi anh Long.

“Khỏe gì mà khoẻ.  Giờ “homeless” rồi anh ơi.  Tôi ở chung nhà mấy đứa đó méc sở xã hội tôi hút cần sa nên họ cắt tiền tôi rồi,” anh Long nhìn tôi rầu rầu nói.

Từ đó cứ mỗi sáng anh đều ghé văn phòng tôi xin ly cà-phê hoặc trà nóng rồi ngồi trước cửa văn phòng phía tường gạch. 

Nhưng không bao giờ anh uống.  Chỉ ngồi dăm phút rồi lững thững ra đi để lại đống ly và giấy chùi miệng.

“Anh Long uống xong nhớ vứt ly vào thùng rác nha.  Đừng đổ nước đầy sàng rồi xả rác đó rồi đi.  Tôi dọn mệt lắm nha,” tôi nhẹ nhàng nhắc anh.

Tết là lần cuối cùng tôi hết kiên nhẫn với anh khi anh vào ngồi ghế văn phòng đúng lúc bữa ăn trưa Tết mùng hai. 

“Chúc năm mới Giáp Thìn anh Long tìm được chỗ ở nha.  Anh ăn gì không?” tôi vồn vã tiếp anh.

“Yes, cho tôi chén cơm thịt kho Tàu với hai quả trứng đi,” anh Long điềm tĩnh nói.  Anh lúc nào cũng điềm tĩnh.

“Đây, mời anh.”

Anh ngồi nhìn thức ăn phút chốc rồi bật dậy bỏ đi không nó một lời, không ăn một miếng. 

Chắc anh nghĩ, “Đây là thuốc độc.”  


Lân

“Anh có thể giúp tôi giúp em Lân “homeless” này cai nghiện được không?” cô Bạch gọi phone tôi hỏi.

“Được nếu người đó chịu theo chương trình Celebration Recovery,” tôi trả lời liền.

Lân theo cha mẹ qua Mỹ diện H.O. năm 1992 khi em mới 2 tuổi.  Lân rất gần gũi mẹ đến tận năm 12 tuổi thì mẹ mất gây cú sốc khủng hoảng cho Lân, khiến Lân trầm cảm và sa vào nghiện thuốc theo toa.

Vừa xong high school thì Lân bắt đầu bỏ nhà đi lang thang dù không theo bè kết đám nào cả. 

Lân cao 5’9, đẹp trai, trông rất giống trai Nam Hàn, lúc nào cũng ăn mặc tươm tất. Tâm thì rất thiện, không làm phiền hoặc hại ai bao giờ.  Thật không thể ngờ Lân lại thành “homeless” vì nhớ mẹ, không muốn ở nhà mà chỉ muốn lang thang.

“Chú có gì cho con ăn không?” Lân đến văn phòng tôi đêm chúng tôi họp mặt tất niên.

“Có nhiều lắm, nào cơm chiên, gà nướng, gỏi, và nhiều nữa.”

“Cơm chiên đi chú,” Lân vừa nói vừa run tay mở nắp hộp thuốc theo toa rồi nốc liền ba viên mà tôi không biết thuốc gì.

Sau khi no nê cả thức ăn, Lân trút đổ tâm sự.

Ba Lân là sỹ quan Việt Nam Cộng Hòa bị tù cải tạo tám năm đủ tiêu chuẩn qua Mỹ diện H.O. Lân là út trong nhà cách người anh kế đến 15 năm, nên bao nhiêu tình thương gia đình dành hết cho Lân, nhưng cũng không đủ giúp Lân thoát cuộc tìm lãng quên bằng thuốc theo toa.

 

Bo 

Anh Bo bước vào văn phòng tôi với thùng loa karaoke khổng lồ đủ loại dây nhợ và microphone.

“Mời anh ngồi.  Sao anh biết đây mà đến?” Tôi hỏi anh.

“Em ngồi ăn ở Phở Lover, thấy cái bảng God Is Love nên lấy làm lạ vào hỏi thăm xem là gì,” Bo ôn tồn nói. 

Rồi Bo tự dưng kể về đời gian truân của anh từ tiểu bang lạnh mấy chục năm qua, lần đầu về sống ở Bolsa vì nghe nói “đất lành chim đậu” ở đây.  Rồi chuyện tù tội oan đến chuyện lang thang hát vỉa hè các khu chợ Việt Bolsa.

“Để em thử hát cho anh nghe nha,” Bo vừa nói vừa cắm điện máy karaoke.

Giọng anh hay và khỏe lắm, có lẽ nhờ anh lai Đen.  Phải công nhận thế giới phải biết ơn người da Đen về đóng góp thể thao và âm nhạc của họ. 

Một người, rồi hai người, rồi nhiều người thập thò trước văn phòng tôi nghe anh hát.

“Em kiếm được vài chục đô-la một ngày đó anh.  Có người cho $100 luôn đó,” Bo ôn tồn nói.  Bo có điểm đặc biệt đó: rất ôn tồn.

Cứ vài ngày là Bo ghé thăm tôi.  Có khi chỉ xin gói mì, hoặc ly coffee.

Tình cờ hôm đó ông Michael ghé văn phòng tôi để vận động tranh cử Supervisor OC và gặp Bo.

“Xin giới thiệu anh Michael đây là Bo có giọng hát như ca sỹ pro.  Anh có cần ca sỹ hát giúp vui ngày mai trong cuộc vận động tranh cử của anh không?” Tôi chụp lấy cơ hội để giới thiệu Bo.

Thế là ông Michael và Bo sáp lại sôi nổi lên chương trình văn nghệ.

Ba tuần sau, Bo ghé lại gặp tôi để nói tạm chia tay về Việt Nam lấy vợ.

“Ồ, chúc mừng Bo,” tôi ngạc nhiên, “Sao quen hay thế!  Bo đi bao lâu?”

“Dạ, năm tháng,” Bo hớn hở nói, “Tất cả là ơn Chúa.  Thank you mục sư giúp em những ngày qua.”

Thật không gì là vô ích khi người Việt dành thì giờ giúp đỡ nhau.  Đạo Phật gọi là “duyên.”  Đạo Chúa gọi là “tình.”

 

 

Ít người “homeless” như anh Tí được diễm phúc ngủ trên xe như là “phòng” riêng.  Tí được thiện cảm với mọi chủ tiệm khu này, có lẽ nhờ anh hoạt bát, lanh lẹ, và dễ kết bạn.

“Anh đừng sợ gì nha, có em lo cho,” Tí thì thầm với tôi khi tôi đứng trước văn phòng mới mở này.

“Anh xem clip này nè, đứa nào lạ mặt lảng vảng đây cách khả nghi là em đuổi nó liền,” Tí vừa nói vừa cho tôi xem video clip trên điện thoại Samsung của anh. 

Mà quả thật vậy, hôm đó tôi đến văn phòng để cầu nguyện 3:30 sáng.  Trời lạnh 430 F.  Một ông cao, to, râu ria, nên không chắc chắn không phải người Việt, trùm kín chăn, đẩy xe shopping đi vòng vòng bãi đậu xe. 

Có người theo sau ông khoảng cách năm mét, cũng trùm kín từ đầu đến chân, nhỏ con hơn nhiều nên tôi tưởng là cô nào đó đi theo như đôi bạn.

Bất ngờ “cô” đó đổi hướng, tiến về tôi vẫn đang ngồi trên xe đã tắt máy.  Tôi hơi run.  Rút sẵn chai xịt “pepper spray” để tự vệ.  Tôi định nổ máy chạy đi nhưng cố xem “cô” đó muốn gì.  Tôi kéo kiếng xe xuống vì hình như “cô” muốn nói gì.  Hai bên cách nhau năm mét thì tôi nhận ra “cô” chín là anh Tí với con dao nhọn dài một feet trong tay.

“Có phải Tí không?” Tôi la lớn, “Làm gì cầm dao ghê thế?”

“Thằng này nó ở đâu đến rất khả nghi,” Tí đáp lớn, “Nó cứ đi lòng vòng nãy giờ.  Anh ra phụ với em một tay đi.”

Tôi bước xuống xe, đứng tại chỗ.  Tí tiếp tục theo sau gã khổng lồ đó.

“Get out of here!  Get out of here!” Tiếng Tí vang lớn trong đêm khuya lạnh giá nghe càng lạnh thêm.

Gã khổng lồ chậm rãi đổi hướng khi Tí vẫn theo sau lập lại mấy câu đó cho đến khi gã khổng lồ khuất bóng.

À, tất cả sự vật đều có ích lợi theo công dụng của nó mà ta không bao giờ hiểu hết.

  

Alex 

Alex không bao giờ nhìn tôi, cũng không bao giờ nói chuyện với tôi, dù Alex đến ngồi trước cửa căn phòng tôi nhiều lần.

“Good morning.  Anh tên gì?” Tôi niềm nở hỏi anh.

“Alex,” anh trả lời vẫn không nhìn mặt tôi.

Anh đến tôi không biết.  Anh đi tôi không hay.  Nhưng anh luôn để lại trên đất mấy tờ truyền đạo đơn mà tôi treo trước cửa văn phòng.

Và tôi khám phá, Alex lấy truyền đạo đơn để lót đít ngồi.  Ít nhất ba lần như vậy.

“Alex có ngồi đây thì đừng lấy truyền đạo đơn này lót đít nha,” tôi ôn tồn nói lần thứ tư gặp anh, “Công trình tôi viết rồi in ấn tốn tiền nha anh.  Thank you.”

Sáng hôm nay Alex đến hồi nào tôi không biết, đang ngồi trên chiếc ghế giống y ghế văn phòng tôi đặt gần cửa ra vào.

Để chắc ăn mình không lầm, tôi quay vào văn phòng để so sánh cục cao su lót chân ghế Alex và ghế văn phòng.  Giống y chang.

“Good morning Alex.  Có phải anh lấy ghế văn phòng tôi không?  It’s OK nhưng anh nói tôi một tiếng nha.”

Tôi vừa dứt lời, Alex bật dậy khỏi ghế, rút dao bấm cầm trong tay với thế cầm dao xả xuống, xông vào tôi.

“Đ. M. muốn kiếm chuyện nữa hả!” Alex hét lên.

Tôi lùi lại nhiều bước thủ thế tự vệ.

Alex dừng tay, bỏ đi.

Lúc ấy tôi mới kịp lấy phone quay, thì Alex quay lại và xông vào tôi lần nữa tuy không rút dao.

“Đ. M. mày muốn tao lấy phone mày không,” nó hét to.

Tôi vẫn không nói, chỉ vừa tiếp tục quay vừa lùi thủ thế tự vệ.Nó bỏ đi lần nữa.

Tôi gọi cảnh sát đến lập biên bản.

“Anh muốn bỏ tù nó không?” Cảnh sát viên hỏi.

“Không, lần đầu tôi tha nó.”

“Nếu điều tra viên Quận Cam thấy nghiêm trọng thì anh phải ra toà buộc tội nó đấy.”

“O.K.,” tôi trả lời.

Thật là một ngày nắng đẹp mà lòng u ám quá!

 

Hảo

Thật khó đoán tuổi chị vì nước da ngâm đen sương gió lẫn những nét đẹp lạ lùng.  Chắc chị tuổi 40. 

“Anh cho em xin vài đồng,” cô gái ngồi bệt dưới đất trước cửa văn phòng tôi cất cao giọng.

“Tôi không cho tiền.  Nhưng nếu chị muốn ăn thì tôi mua cho.  Đây sẵn có BBQ Liên Hoa, chị muốn ăn gì không?” Tôi trả lời.

“Anh mua gì cũng được,”

“À, mà chị ngồi xích vô chứ không xe đụng chết.”

“Không sao.  Em ngồi vậy người ta mới chú ý.”

“À, chị tên gì?”

Vừa lúc đó người “homeless” khác tên Trung, thỉnh thoảng đến đây, bất ngờ đến.

“Nó tên Hảo.  Lúc trước nó đẹp lắm, làm đĩ nổi tiếng ở đây,” Trung to tiếng.

“Ấy chết.  Anh đừng nói vậy trước mặt người ta,” tôi giật mình kêu lên.

Hảo vẫn ngồi yên như nhận lấy tất cả những chua chát cuộc đời.

“Hảo qua Mỹ năm nào?” Tôi vừa đưa khay gà hấp muối mời Hảo vừa hỏi.

“Em vượt biên theo mẹ năm 1985 đến Mỹ lúc em tám tuổi,” Hảo nói nhỏ, giọng nghèn nghẹn, “Được vài năm thì mẹ em chết.  Chính phủ đưa em cho bà dì nuôi, nhưng em không thích nhà dì nên được vài năm em đi bụi luôn.”

Hảo không ăn nhưng gói khay gà với bánh hỏi lại bỏ vào bao.

“Giờ em đi xe bus thăm con em.  Đồ ăn này em đem cho nó,” Hảo nói mà không nhìn ai cả.

Con của Hảo ở với ai?  Tên gì?  Việt hay lai?  Tôi không dám hỏi.

“Chắc Hảo được thăm con mỗi tuần vài tiếng ở Family Center là chỗ dành cho cha mẹ ruột thăm con ở với cha mẹ foster,” tôi quay sang hỏi Trung.

“Nó có nhiều con lắm, em không biết nó thăm đứa nào,” Trung thản nhiên nói.

 

 Michael

Hình 1

Hình: tác giả cung cấp. 

Có lẽ Michael đặc biệt nhất phố Bolsa vì đàn ông mà lúc nào cũng kẹp nách con búp-bê nhỏ bằng một rưỡi gang tay người lớn.

“Cho xin ly nước trà nha,” Michael hỏi nhưng không cần câu trả lời.

“Tôi gặp anh mấy lần rồi, lúc nào cũng thấy anh ôm con búp-bê.  Anh có gì kỷ niệm à?” tôi hỏi.

“She’s my older sister.  I love her.  Cho đỡ buồn,” Michael lanh lẹ nói.  Cách nói chuyện tiếng Việt của anh là vậy, không chủ từ, nhanh, gọn, cọc lốc nhưng giọng rất vui vẻ.  Hình như Michael qua đây từ nhỏ vì nói tiếng Việt lơ lớ trộn lẫn tiếng Mỹ.

Một tuần sau tôi mới gặp lại Michael cùng một bà đến văn phòng tôi.

“Mặt Michael sao bị trầy sướt ghê thế?” Tôi ngạc nhiên hỏi.

“My sister té.  Phải nhảy vào cứu nên đập mặt xuống đất,” Michael vừa đáp vừa lục tìm gói trà.

“Kể tôi nghe về chị của Michael đi.”

“Ôi, nó thương chị nó lắm ông ơi,” bà lão cướp lời Michael, “Hồi ở Việt Nam ba nó chết trận vì bị trúng pháo kích của Việt Cộng.  Cảnh mẹ góa con côi, tôi phải đi buôn bán ở Vũng Tàu.  Chị nó thay tôi nuôi nó nên nó thương chị nó lắm ông ơi.  Tôi gom hết tiền rồi bán thêm căn nhà nữa để mua vàng cho chị em nó vượt biên.  Chị nó bị hải tặc bắt, nó thì tám tuổi lúc đó bị chấn động tâm lý đến giờ luôn.  May là nó bảo lãnh tôi qua được rồi lâm bệnh nặng tới giờ.  Tôi phải chăm nó mệt quá vì nó cứ bỏ nhà đi làm “homeless”, nói rằng đi tìm chị nó.  Có khi nó đi cả tuần.”

“Chị đây nè,” Michael vừa nhìn bà nói vừa chìa búp-bê ra.

Hai hàng lệ long lanh trên mắt bà.

Và cũng trên mắt tôi.

 

oOo 

Phố Bolsa là biểu tượng của tự do cho người Việt ly hương tỵ nạn cộng sản khắp năm châu bốn bể. 

Nơi đây người Việt hãnh diện về những người cha mẹ đi làm cực khổ nuôi ăn học thành những bác sỹ, kỹ sư, khoa học gia, và những nhân tài cho Hiệp-Chủng-Quốc Hoa-Kỳ. 

Nhưng cũng lắm cảnh đời bất hạnh vì những cú sốc quá nặng vì tội ác chiến tranh do cộng sản Bắc Việt gây ra, vì cơn hãi hùng vượt biên liều chết tìm tự do, vì nước mất nhà tan, vì gia đình ly tán.

Chính phủ Mỹ đã tốn $17 tỷ đô-la từ 2018-2023 cho quỹ “homeless” nhưng tình hình tệ hơn.  Riêng California tốn hàng tỷ đô-la nhưng vẫn bất lực và vẫn là tiểu bang nhiều dân “homeless” nhất nước. 

Phải chăng những cuộc đời vô gia cư này cần nhiều tình người hơn mới giải quyết được.

Dù gì, những cuộc đời bất hạnh “homeless” này cũng được an ủi phần nào nhờ tình đồng hương như lời anh Hường ở đầu bài nói với tôi, “Chào anh, người Việt mình có phố Bolsa cũng đỡ cho người homeless như tụi em lắm.”

 

Thang Chu

Bolsa những ngày đầu xuân

No comments:

Post a Comment