“...Trời ơi!! Chúa
đâu? Phật đâu? Sao tôi khổ thế này!?”
Từ lưng đồi, trong cơn
mưa tầm tã, ông Trung Tá “bên thua cuộc” trượt chân, lăn nhiều vòng cùng khúc
cây, (chỉ tiêu lao động), đè ngang cổ. Dẫy dụa nhiều lần. Khi đứng dậy được,
hai tay giơ lên trời, ông gào thét như nỗi đau của một con thú rừng bị sập bẫy!!!
Bộ quần áo tù mỏng dính, ướt sũng, dán sát người ông. Từ một góc khuất trong
bụi rậm, tôi thấy rõ một bộ xương cách trí đang lơ lửng giữa trời.
Ôi! Còn đâu... “Vùng trời nào đó anh đã bay qua. Chỉ còn lại đây... rừng núi... bao la” và “tận cùng của nỗi tuyệt vọng.”
******
– Phạm văn Đồng: “Học
tập cải tạo… Những người này chúng tôi cho họ một cơ hội để trở lại làm người…”
– Đỗ Mười: “Giải phóng
miền Nam,chúng ta có quyền tịch thu tài sản, trưng dụng nhà cửa,hãng xưởng,
ruộng đất của chúng nó. Xe chúng nó ta đi. Vợ chúng nó ta lấy. Con chúng nó ta
bắt làm nô lệ. Còn chúng nó thì ta đày đi làm lao động khổ sai tại vùng kinh tế
mới hay nơi rừng sâu, nước độc. Chúng nó sẽ chết dần, chết mòn..”
– Dương Thu Hương:
“Ngày 30/4/1975, kẻ dã man thắng người văn minh.”
******
Hai bà mẹ già nhai
trầu bỏm bẻm, ngồi trên cái băng ghế của một kios báo bỏ hoang ở trước cổng
trường nữ trung học Lê văn Duyệt xem những thằng con lính bại trận trình diện
“học tập cải tạo.” Một bà kéo vạt áo lau nước mắt nói: “Tội nghiệp tụi bây
quá!!!”
Tôi cúi đầu lặng lẽ
bước vội trong âm thầm suy nghĩ:
“Anh trở về bại
tướng... cụt chân…”
******
“Còn chúng nó thì ta
đày đi nơi rừng sâu nước độc. Chúng nó sẽ chết dần,chết mòn..”
(Đỗ Mười)
******
– Thiếu Tá Đại... “ Em
ơi... con ơi... Đau quá... tôi chết mất...” Trước khi chết, ông lăn lộn gào
thét gọi tên vợ, tên con; Không gọi tên... Tổ Quốc!!!
“Còn đất nước thì còn
tất cả. Mất đất nước là mất tất cả!”
(Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu)
Ống quần tù mỏng dính
mắc kẹt vào miếng sắt đóng vào cái cột gỗ làm nấc thang leo lên tầng trên,
khiến ông té lộn ngược, đầu đập xuống sàn xi măng. Tôi nghe rõ âm thanh của một
trái dừa khô lột vỏ ném xuống trước chân tôi! Vỡ sọ!
Ông vật vã cuộn người
đau đớn. 42 tù nhân la vang trong phòng giam: “Cứu người. Cứu Người...” Toàn
thể trại tù im lặng rợn người ngoại trừ âm thanh của tiếng thìa, muỗng đập liên
tục vào song sắt cửa sổ. Cuối cùng, mãi tới nửa đêm, 2 tên cai tù xuất hiện
quát:
“Vần anh đó ra gần cửa
sổ này. Vạch mông ra.”
Một mũi kim qua song
sắt. Ông ngủ yên. Phòng giam trở lại im lặng lạnh người.
Cuối cùng, trời hừng
sáng, ánh nắng vừa lọt qua song sắt. Thiếu Tá Đại tắt thở, không kịp một lời
giã từ anh em... Ông “hối hả bay bổng tìm đường về Nam gặp lại vợ con!!!”
“Anh không chết đâu
em. Anh sẽ về gặp mẹ con em!!”
Khi liệm ông, trong
túi áo của ông còn nguyên phần ăn: Hai mẩu khoai mì nấu chín cùng những mảnh vỏ
sống chưa kịp muối chua.
– Đại Úy Đức nằm cạnh
tôi không dậy nữa. Khi liệm anh, trong túi áo của anh có hai lát bí và cái đầu
gà toi đen thui.. “Cao lương này thay cho bát cơm cúng!!”
“Đúng là XãHội
ChủNghĩa.” Đức nói khi đám dòi ở dưới hầm cầu lổn nhổn chen chúc giành nhau phần “bo bo” do anh vừa thải ra. Phía bên
kia có người nghe được.
Đức bị cùm ngang ngực
bằng cái ách trâu, nằm trên một tấm ván suốt 45 ngày. Khi được thả ra, anh đi
không vững. Mình trần trơ xương. Cái áo tù không còn nữa. Nó đã được anh xé ra
nhiều lần để làm vệ sinh. Anh chết vì kiệt sức! Đức vĩnh viễn nằm lại ở núi
rừng Hoàng Liên Sơn!
Khi còn sống, Đức luôn
cay cú nói:
“Thêm 6 trái CBU nữa
thì ngày hôm nay bọn mình đâu như thế này.”
Đức đúng hay sai?
Tại quán phở 79 giữa
Thủ Đô Little Saigon, Tướng Đảo nói với tôi: “Cho qua thêm vài trái CBU. Qua
đánh tụi nó không kịp chạy về Bắc.”
– Đại Úy
Thịnh...“...Xin cho tôi nói..” Tên bộ đội tay nắm sẵn miếng giẻ vội nhào tới
nhét vào mồm anh. Một tên nữa vội quàng khăn bịt mắt anh lại, cùng 6 tên khác
xô đẩy anh loạng choạng, nghiêng ngả ra bãi bắn.
“Xin cán bộ cho tôi
tháo miếng vải che mắt và miếng giẻ ở miệng của anh ấy được không?”
Tên cai tù: “Để nguyên
vậy. Lấp đất.”
... “Con gởi về cho
cha một manh áo trắng.
Cha mặc một lần khi ra
pháp trường phơi thây!!..”
(Việt Dũng)
Thịnh bị tử hình chỉ
vì một mẩu giấy nhỏ viết vài chữ gởi cho vợ bị lọt vào tay chúng như sau:
“... Em hãy nhớ lời
anh dặn. Dù anh còn sống hay đã chết. Mình có hai đứa con gái, không bao giờ
cho nó lấy lũ cán ngố rừng rú. Ở đây anh trốn lúc nào cũng được. Anh là sĩ quan
Quân Báo tốt nghiệp ở Okinawa mà em.”
– Tướng Loan bắn thằng Bảy Lốp. Tên Việt Cộng
vừa tàn sát dã man cả một gia đình 5 người lớn bé vô tội. Máu ngập tràn mắt cá
chân.
Hành động nào là dã
man?!
– Đại Úy Kha trong khi
phát quang trên sườn đồi bị rắn cắn. Nọc độc chạy khắp mình anh. Khi ở đùi, khi
ở tay, khi lên má, khi xuống cổ v...v… Xin đi viện (bệnh viện) chữa. Chúng
không cho. Đúng 49 ngày sau anh chết!
Những ngày đầu của 49
ngày, chập choạng với thần chết, Kha sợ! Nhưng sau đó anh bình tĩnh lạ
thường...
Kha chưa lấy vợ. Mồ
côi cha từ bé. Anh có một em gái. Mẹ già thủ tiết nuôi con. Em gái báo tin mẹ
anh mới qua đời.
Kha kể: “..Ngày đi
trình diện "Học tập cải tạo", Mẹ anh nói: “Con mang làm gì nhiều thứ vậy? Học tập có 10 ngày rồi về... Nghe
đâu nhà hàng chở đồ ăn đến.”
Thời gian 10 ngày thì
mẹ anh sai. Nhưng nhà hàng sang chở thức ăn đến thì đúng, nhà hàng Caraven. Một
tên bám bên cửa xe mình mặc áo trắng, đầu đội mũ trắng, tay đập ầm ầm vào thành
xe dẹp đường. Chạy nhiều vòng quanh phố, sau đó vào thẳng cổng trường. Bà con,
cô bác hai bên đường nói: “Sướng quá...”
Trong xe, một sọt bánh
mì cộng một nửa thùng phi canh rau.
Những ngày cuối Kha
thường nói: “Ngoài Bắc này nhiều chim bìm bịp quá!!!”
Khi liệm, không thấy
vết tím trên mình anh. Tôi đoán nọc độc đã chạy vào nội tạng.
Đài BBC bình luận:
“... Trong lịch sử
chiến tranh của nhân loại. Lần đầu tiên những bại binh tình nguyện đi vào tù!”
(Chiêu lừa Học Tập Cải
Tạo)
– Đại Úy Cát ngồi bất
động trong một bụi rậm, hai mắt nhìn chăm chăm qua bên kia bờ suối. Hai vợ
chồng và một đứa con trai cộng thêm một con chó đang ăn một rổ khoai lang. Họ
chuẩn bị lên núi hái măng vầu... Những mẩu đầu khoai lang được ném xuống đất. Con
chó táp vội rồi nhả ra. Người và chó vừa rời khỏi chỗ, khuất xa ở lưng núi, Cát
phóng qua, vội nhặt những mẩu khoai, bỏ vội vào miệng nhai ngấu nghiến.
Cát là tiểu đoàng
trưởng Địa Phương Quân. Anh thường kể cho tôi nghe những ngày, tháng vàng son:
Lính của anh làm đồ nhậu sau mỗi khi hành quân trở về hậu cứ. Cái món làm tôi
thèm chảy nước dãi là món chim sẻ chiên giòn chiêu với
rượu huyết chim. Cát cũng giống như Đức, Kha. Cả 3 người đều vĩnh viễn
nằm lại ở rừng Hoàng Liên Sơn.
Cát và một người bạn
không cầm cự được với trái độc. Hai người làm một bụng đầy. Mạch máu vỡ tung,
da thịt tím bầm. Chết ngay dưới gốc cây cổ thụ. Đám cỏ nơi hai người chết nằm
dạt, chứng tỏ họ đã vô cùng đau đớn lăn lộn nhiều lần.
Tên trưởng trại để xác
hai người trên một cái chõng tre. Tuyên bố:
“Mặc dầu hai anh này
có vi phạm nội quy là cải thiện linh tinh. Nhưng trong quá trình cải tạo có lao
động tốt, nên tôi nhân danh Đảng và Nhà Nước cho hai anh được phục hồi quyền
công dân!!??”
Trong những ngày tháng
lao động khổ sai cùng nhau, tôi thường nghe Cát hát:
“... Tới trước ngõ cũ
nghe kể rằng
Giặc tràn qua thôn
xóm.
Gieo bao đau thương,
bao điêu tàn
từ ngày anh vắng
xa...”
Cát xem ra luôn hãnh
diện, hào hứng với cuộc đời “Chinh chiến điêu linh” đã qua của anh.
“... Ta sống mãi trong
tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành, hống
hách những ngày xưa
... Nay sa cơ bị nhục
nhằn tù hãm
Khinh lũ người kia
ngạo mạn, ngẩn ngơ…”
(Thế Lữ)
– Đại Úy Cư... Sợi dây
thừng vòng qua cổ. 2 tên bộ đội kéo xác anh đi vòng sân của khám Chí Hòa. Máu
từ tim vẫn chảy ra vẽ thành những vòng tròn trên mặt gạch...
Đoàn xe chở tù về tới
ngã Sáu đường Lê văn Duyệt. Khi gần tới cổng Biệt Khu Thủ Đô, xe chạy chậm. Cư
bất thần đạp một tên vệ binh lộn xuống đường. Tên thứ hai bị Cư ném một nắm
muối vào mặt. Hắn bóp cò, viên đạn bắn trượt vào mâm bánh xe phụ sau lưng Cư,
vòng ngược lên xuyên ngay tim anh. Cư chết tức thì! Những “phạm nhân”
trên cùng xe kinh hoàng!
Cư còn độc thân có
bằng Cao Học Hành Chánh. Võ Sư Việt Võ Đạo. Tốt nghiệp Hòa Âm trường Quốc Gia
Âm Nhạc Sài Gòn. Gốc Cục Tâm Lý Chiến, Biệt Phái Bộ Canh Nông. Sau 30/4/1975,
anh thuộc sự “quản lý” của Ủy Ban Quân Quản ViệtCộng. Sau khi “học tập” ít ngày,
chúng điều anh vào “Camp David” trong Tân Sơn Nhứt dịch tài liệu. Một
thời gian sau, Cư bỏ trốn lên Ngã Ba biên Giới toan tính vượt biên. Anh bị bắt.
10 năm sau, tôi ghé
thăm nhà gọi người em út ra quán cóc cà phê nơi đầu ngõ kể cho em nghe về cái
chết của Cư.Em cho tôi biết người anh thứ hai Thiếu Úy Luật Sư đi “cải tạo”
cũng mất tích.
Nhà có cha mẹ già và 3
con trai. Nay còn lại một người. Tôi khuyên em đừng cho bố mẹ biết tin này.
Nửa năm sau, tôi ghé
nhà em. Tôi được biết thân mẫu em chờ hoài không thấy con về nên bà héo hắt mà
chết. Còn thân phụ em thì sáng nào cũng cái ô cắp nách, lên xe lam đi tìm...
hai đứa con trai. Có khi trưa thì về, có khi tối mới về. Kể cho tôi mà em khóc
nức nở. Còn tôi thì nghẹn ngào uất hận.
“... Ta về cúi mái đầu
sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng
đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ
loi...”
(Tô thùy Yên)
Lỗ Trí Thâm
Thủ Đô Little Saigon
Chắc đôi khi nợ máu phải trả bằng máu. Cộng sản là bọn dòi bọ lớn lên từ đống phân và rác rưởi cuộc đời.
ReplyDeleteBạn Lỗ Trí Thâm và tôi (dân Bắc”ri cư”54) dù khổ sở đã có ngày đến nước Mỹ vì nhờ có người nói:
ReplyDelete” Không có hoa nào đẹp bằng Hoa kỳ.- Không có nước nào đẹp bằng nước Mỹ” mà nị .
Chẳng nói đâu xa ngày xưa các bậc thức giả đã ca tụng nước Hoa Kỳ quá cỡ thợ mộc như:
Xem trong thế-giới xưa nay,
Cộng-hoà chỉ có một tay Hoa-kỳ
(Phan Châu Trinh, Giai nhân kỳ ngộ, Lê Văn Siêu bình giải và chú thích, Hướng Dương, 1959, tr.25).
Rốt cuộc, đèn Hoa Kỳ là đèn Việt Nam, làm bằng sắt Pháp, được hãng dầu Mỹ mua tặng khách hàng Hà Nội. Lí lịch rất… trong sáng!
Từ nay trẻ con trong Nam ngoài Bắc có thể rủ cả người lớn cùng rước đèn, ca hát líu lo :
Cái gì be bé xinh xinh
Nhờ tay thợ khéo xe tình chúng ta?
Điếu reo, khói toả… Thế mà
Mơ màng chàng ngỡ em là… Cờ hoa!
Nguyễn Dư
Theo Chim Việt Cành Nam
Bây giờ mỗi khi đến ngày tang thương 30 tháng Tư tụi mình lại cùng nhau ca bài hát : Khát vọng hòa bình của người lính VNCH qua ‘Đêm Nguyện Cầu’ của Lê Minh Bằng :
…………………………………
“Thượng Đế hỡi có thấu cho Việt Nam này/ Nhiều sóng gió trôi dạt lâu dài/ Từng chiến đấu tiêu diệt quân thù bạo tàn/ Thượng Đế hỡi hãy lắng nghe người dân hiền/ Vì đất nước đang còn ưu phiền/ Còn tiếng khóc đi vào đêm trường triền miên.”