Cuối năm đó, tôi mua vé tàu lửa về quê thăm mẹ. (Hình minh hoạ: Báo Phụ
Nữ)
Năm 1980 tôi được “xá chế,” nhớ
mẹ quá chừng mà không có tiền về thăm, tôi bán hai quyển sách cho mấy người
buôn sách cũ trên đường Cách Mạng Tháng Tám (Lê văn Duyệt). Một cuốn là “Chiến
Hữu” của E.M Remarque, một cuốn “Nạn Nhân Buổi Giao Thời” của Pearl Buck được
ba chục đồng. Tôi mượn thằng bạn thân 20 đồng, chị hai gởi 30 đồng là 80 đồng.
Cuối năm đó, tôi mua vé tàu lửa về quê thăm mẹ. Biết là không đủ tiền cho
chuyến đi và về, nhưng cứ về gặp mẹ rồi hãy tính sau.
Bốn giờ sáng vợ chở xuống ga
Bình Triệu mua vé tàu nhanh để về Đà Nẵng. Tàu nhanh chạy ba đoạn: Từ ga Bình
Triệu ra Nha Trang, Nha Trang ra Quy Nhơn và Quy Nhơn ra Đà Nẵng. Nói là tàu
nhanh nhưng chạy chậm như rùa, cũng ngừng những ga nhỏ để đón khách và chở hàng
hóa.
Lấn vào sắp hàng mua được tấm vé
rất trần ai, vì cuối năm bà con trở về quê quán ăn Tết và người đi buôn hàng
chuyến từ Sài Gòn ra miền trung tấp nập… Mua được vé rồi mà lên tàu tìm chỗ
ngồi lại càng khó hơn, vì trên ghế ngồi, lối đi chất đầy hàng hóa. Có lẽ kiểm
soát viên trên tàu và những người đi buôn ăn chia nên những người đi buôn xem
thường hành khách, chỗ nào trống là chất hàng. Tàu chạy khoảng mười phút thì
những hàng hóa để trên ghế được sắp xếp vào dưới ghế nên hành khách có chỗ
ngồi.
Lo lắng cho chuyên đi, và gặp mẹ
sau bao năm xa cách nên cả đêm tôi không ngủ được. Lên tàu vợ dặn cố gắng ngủ
cho lại sức. Có chỗ ngồi, tôi cố dỗ giấc ngủ, mỗi lần thiu thiu là khách bỏ
hàng lên xuống ồn ào như chợ chiều ba mươi Tết.
Tàu chạy đến tám giờ tối mới đến
Nha Trang. Những hành khách đi tiếp về Quy Nhơn hay Đà Nẵng ngủ tại ga để ngày
mai mua vé sớm tiếp tục cuộc hành trình. Tôi tìm một góc vắng dựa vào tường,
xắc tay mang theo ôm trước ngực, hành lý mang theo không có gì quý giá nên
chẳng sợ bị đánh cắp. Tôi ngủ được một giấc thì giựt mình thức dậy vì hành
khách đã sắp hàng mua vé. Tôi cũng sắp hàng và mua được vé. Đúng bảy giờ sáng
tàu khởi hành. Tàu từ Nha Trang chạy ra Quy Nhơn ít người đi buôn nên không ồn
ào như ở ga Bình Triệu. Tôi kéo mũ che mặt và cố ngủ một giấc để lấy lại sức.
Đang lim dim ngủ thì nghe một người hát dạo từ phía cửa trước lên xuống
nói thật lớn:
– Kính thưa bà con cô bác, kính chúc cô bác nhiều sức khỏe, thượng lộ
bình an, mua may bán đắt, gặp nhiều may mắn. Để giúp vui cho bà con đi đường
bớt mệt nhọc, tôi xin trình bày bản nhạc: Tàu Đêm Năm Cũ.
Tôi nhìn lên thì thấy một người
thương phế binh cụt hai chân, tóc dài ngang cổ, mặc áo rằn ri Biệt động quân,
đầu đội mũ đi rừng, ngồi trên một ghế thấp có 4 bánh xe phía dưới. Một thằng bé
khoảng mười tuổi đi trước, tay cầm một ca nhựa để xin tiền. Tôi đoán người nầy
là thương phế binh của Việt Nam Cộng Hòa.
Giọng ca của anh, trầm, buồn,
lưu luyến, tiếng đàn ghita đệm theo điệu bolero rất điêu luyện. Khi anh cất
giọng hát: Trời đêm dần tàn tôi đến sân ga đưa tiễn người trai lính về ngàn… Cả
toa tàu đang ồn ào chuyện trò, bỗng dưng im lặng để nghe. Có lẽ từ ngày 30
Tháng tư, 1975, Cộng sản chiếm miền Nam, tất cả những sách vở, báo chí… đều bị
tịch thu và đốt hết, nhạc vàng của miền nam cấm hát, ai hát sẽ bị bắt. Thay vào
là sách của Lenin, Kart Mart, Hồ Chí Minh… và hát nhạc miền Bắc. Bây giờ, nghe
lại một bản nhạc xưa do một người thương binh Miền Nam hát gợi lại nhiều kỷ
niệm, im lặng lắng nghe và nhớ những lần tiễn đưa cha, anh, chồng, em đi vào
chiến trường…
Tôi nhìn những hành khách trên
tàu phần đông là đàn bà. Có nhiều cô gái còn rất trẻ khoảng trên dưới hai lăm,
mặt mày sáng sủa, yểu điệu thục nữ nhưng ăn mặc xuề xòa, mộc mạc, trông có vẽ
khổ cực lam lũ. Những đôi mắt sáng nhưng có long lanh những buồn phiền…
Khi anh chấm dứt bài hát, bà con
bỏ tiền đầy ca nhựa cho thằng bé, anh lết gần đến trước mặt và hỏi tôi:
-Ông thầy mới gỡ lịch ra phải
không?
Tôi biết anh hỏi tôi mới ở tù ra
phải không, nhưng tôi giả vờ không hiểu và trả lời anh:
-Có lịch đâu mà gỡ, tôi về trung
thăm gia đình.
-Em đi trên tàu nầy hằng ngày em
gặp nhiều người mới ra tù, em đoán là trúng chốc ông thầy ơi!
Tôi thấy anh thương phế binh nầy
là người cùng một chiến tuyến không may bị thương tật cụt hai chân, tôi cảm
thấy xót xa thương cảm, tôi hỏi lại anh:
-Trước anh binh chủng Biệt động
quân hả và bị thương ở chiến trường nào?
-Dạ, bị thương năm 1972 mùa hè
đỏ lửa giải tỏa Kontum.
Anh trả lời tôi với giọng buồn
và chân thật:
Em gia nhập vào binh chủng Biệt động quân năm 1968, (Hình: wikipedia)
-Em gia nhập vào binh chủng Biệt
động quân năm 1968, năm 1970 em cưới vợ, vợ em làm thợ may và sinh được đứa con
trai. Năm 1972 em bị thương tàn phế, em được hưởng trọn lương và giải ngũ. Năm
1975 mấy ông nội nầy vào cúp hết nên rất khổ cực, vợ bỏ đi lấy chồng. Cũng may
em có biết đàn và hát nên hai cha con đi hát trên tàu, bến xe kiếm ăn qua ngày.
-Anh học đàn và hát bao giờ mà
đàn hay quá vậy? Tôi hỏi để biết thêm về anh.
-Dạ, em có một thằng bạn cùng
đơn vị, nhà ở Sài Gòn, có đi học đàn, buồn chuyện tình nên tình nguyện đi lính
Biệt Động Quân, hai đứa ở cùng một trung đội. Mỗi khi về hậu cứ dưỡng quân nó
dạy em đàn. Năm 1972 em bị thương cụt hai chân, nó tử trận.
-Con trai anh bây giờ ở đâu?
-Dạ, đi cùng em đó, nó gần mười
tuổi rồi, em cụt hai chân, nó giúp em nhiều việc, hai cha con sống đùm bọc lẫn
nhau cũng đỡ tủi thân.
-Bây giờ gia đình anh ở đâu? Tôi
hỏi để biết thêm hoàn cảnh của anh.
-Dạ, cha mẹ em ở Tuy Hòa, ông bà
mất để lại cho em một căn nhà nhỏ, cũng may có chỗ cha con trú ngụ cũng đỡ khổ.
Tôi thấy xót xa vời hoàn cảnh
của anh, tôi hỏi tiếp.
-Anh không cho thằng bé đi học
sao?
-Đi học làm sao theo em xin tiền
cô bác để cha con sống qua ngày. Thời bây giờ không học cũng làm đại úy ông
thầy ơi…
Anh nói mắt nhìn về đứa con trai
với chiếc áo thun và quần tà lỏn đã bạc màu, nón lưỡi trai đội ngược, đang đưa
ca cho bà con hành khách bỏ tiền vào. Nhìn hai cha con người thương phế binh,
tôi rất buồn và đau khổ. Chiến tranh đã qua rồi, nhưng để lại những đau thương
tan tác cho dân miền Nam, nhất là những người lính Việt Nam Cộng Hòa bị thương
tật tàn phế phải lê lết sống qua ngày.
Anh nhìn tôi với đôi mắt đượm
buồn và nói:
-Ông thầy cũng như em, thỉnh
thoảng nhớ lại những ngày đầu vào lính, em xin hát bài Biệt Kinh Kỳ để tặng ông
thầy, hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai ông thầy ơi.
Nói xong, những ngón tay phải
rảy nhẹ lên những dây đàn đệm nhạc và cất tiếng hát, mắt nhìn xa xăm ngoài cửa
sổ toa tàu: “Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly bôi, ngày mai tôi đã khoác chiến y
rồi, người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên, giã từ trường yêu với bao bạn hiền,
có về là khi nước non vui bình yên…”
Hành khách trên tàu cũng lặng
yên lắng nghe, khuôn mặt người nào cũng đượm buồn… Hát xong bản nhạc anh chào
tôi theo kiểu nhà binh và nhìn tôi nói nhỏ:
-Sau cơn mưa trời lại sáng, chào
ông thầy em đi kiếm cháo.
Ở tù mới ra, chưa có công ăn
việc làm, vợ con còn nheo nhóc, vay mượn được 80 đồng về thăm mẹ già nhưng tôi
cũng bấm bụng bỏ vào ca thằng nhỏ 5 đồng và tôi nói với anh:
-Tôi mới ở tù ra, nhưng tôi còn
lành lặn hơn anh, hai anh em mình cùng chiến tuyến, tôi biếu anh mấy đồng và để
kỷ niệm lần đầu gặp nhau, chúc cha con anh nhiều sức khỏe. Anh cúi đầu cảm ơn
tôi và lếch lần qua toa tàu khác.
***
Cha con người thương binh biệt động đi rồi, tôi nhớ lại bài hát Biệt
Kinh Kỳ mà anh vừa hát tặng tôi.
Năm 1968 tôi đang học ở Sài Gòn
thì thằng bạn ở Đà Nẵng đánh điện vào cho biết tôi đã có lệnh gọi nhập ngũ vì
tôi khai lược giải cá nhân ở nhà Lâm. Nhận được điện tín tôi không buồn cũng
không vui vì những năm chiến tranh ác liệt những người bạn từ giáo chức, hành
chánh, sinh viên đều gọi nhập ngũ.
Tôi đến Air Việt Nam mua vé về
quê thăm cha mẹ và đi trình diện trại nhập ngũ số 1 ở Đà Nẵng cho kịp thời gian
đã ấn định trong giấy gọi. Tôi báo tin cho mấy thằng bạn chơi thân ở đường Hòa
Hưng: Giang, Châu, Định, Hùng và Henry (lai Pháp bạn bè hay gọi hắn là Henret,
vì có hai răng cửa bị sún). Ngày tôi về quê, đêm hôm đó mấy thằng bạn chung
tiền mua một két bia 33 và một con gà (tiền gà thằng Henry mua vì nó con lai
nên có tiền hơn mấy đứa bạn khác), lên căn gác của nhà Châu nhậu suốt đêm. Bia
đổ hết vào một thau lớn, một cái ly uống xây chừng, con gà trộn với rau răm và
củ hành đưa cay.
Vì thằng nào cũng học sinh, sinh viên tửu lượng ít, uống được ba tuần
bia thì ngà ngà say.
Thằng Henry ôm đàn ghita hát bài Biệt Kinh Kỳ tặng tôi, mấy thằng bạn gõ
đũa vào thau bia nhịp theo tiếng đàn và hát theo Henry. Henry xỉn xỉn cứ hát đi
hát lại bản nhạc. Hát một đoạn uống xây chừng một tua.
“Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi
Bạn ơi! hãy nói ‘khoác chiến y’ rồi
Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên
giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền
có về là khi nước non vui bình yên.”
Thau bia đã cạn, bạn nào cũng
say mềm và lăng ra ngủ khò. Đến sáu giờ sáng tôi giựt mình thức dậy và gọi
Henry chở tôi ra phi trường vì 7 giờ 30 máy bay cất cánh. Khi chia tay Henry
ngậm ngùi nói:
-Mày vào quân trường tau cũng về
Pháp, tau có quốc tịch Pháp bà già sợ chiến tranh lan rộng không yên ổn nên đưa
tau đi. Chúc mày thượng lộ bình an, vào quân trường vui khỏe và gặp nhiều may
mắn. Sẽ gặp lại nhau…
Henry bắt tay tôi và đi nhanh ra
nơi gởi xe, Tôi nhìn theo bạn lưu luyến ngậm ngùi…
*
Mãi nhớ chuyện xưa và nhớ bản nhạc Biệt Kinh Kỳ mà Henry hát trong đêm
chia tay, nhớ những thằng bạn từ thuở ấu thơ, những ngày sống ở Sài Gòn và
những ngày trong quân ngũ, tôi thiếp vào giấc ngủ chập chờn.
Đang lim dim ngủ, một người công
an đứng sát ghế ngồi, nhìn thấy công an tôi sợ quá, kéo mũ che mặt ngủ tỉnh bơ
như không để ý. Người công an lấy mũ che mặt đập vai tôi và hỏi:
-Ông thầy quên em rồi sao?
Bây giờ già rồi đầu óc lú lẫn
nên chẳng nhớ ai.
-Em là Dũng bóng làm trong phòng
siêu tần số với thượng sĩ Bàu.
Thật sự tôi nhìn lên tôi cũng
biết là Dũng bóng làm phòng siêu tần số dưới quyền tôi làm trung tâm trưởng.
Nhưng tôi trả lời:
-Dũng hả anh nhớ rồi, em vào
ngành công an lâu chưa?
-Em vào ngành công an cũng được
bốn năm. Ông thầy vẫn khỏe? Gặp và thấy ông thầy khỏe mạnh em mừng lắm. Em đi
kiểm soát trên tàu hằng ngày mà em chưa gặp một người bạn cùng đơn vị, hôm nay
em găp ông thầy và thấy ông thầy mạnh khỏe em rất vui. Xin phép ông thầy em đi
làm nhiệm vụ, em đợi ông thầy ở ga Quy Nhơn, thầy trò mình nói chuyện nhiều.
Nói xong Dũng đi lần qua toa tàu
khác.
*
Đơn vị tôi là một trung tâm truyền tin diện địa đồn trú trong bộ tư lệnh
quân đoàn 2. Truyền tin là mạch máu của quân đội, chịu trách nhiệm các đường
dây liên lạc, công văn, công điện trong vùng 2 chiến thuật và điện thoại các
phòng ban trong bộ tư lệnh và tiểu khu Pleiku…
Trung tâm gồm có các ban: siêu
tần số, tổng đài, viễn ấn tự, mật mã, điều chỉnh, giai tần đơn, quân xa, máy
điện, đường dây cáp điện thoại. Làm việc theo ca, chia làm 3 ca trực ngày và
đêm.
Nguyễn Anh Dũng cấp bậc hạ sĩ
nhất, độc thân, người hiền lành, nước da trắng trẻo thư sinh, ăn nói nhỏ nhẹ,
làm việc chăm chỉ, tới phép thường niên 15 ngày là xin về thăm gia đình. Bạn bè
thấy Dũng giống con gái nên gọi Dũng bóng.
Binh chủng truyền tin điều chuẩn
an ninh rất kỹ. Sáu tháng là ban an ninh đơn vị gởi giấy điều chuẩn an ninh về
địa phương ký xác nhận gia đình, cha mẹ, anh chị em, bà con họ hàng có theo
Cộng sản hoặc liên hệ với Cộng sản. Nếu có thì cho làm những công việc không
quan trọng hoặc đổi ra tác chiến. Hồ sơ an ninh của Dũng rất trong sạch không
có liên hệ với Cộng sản thế mà sau 1975 lại được vào ngành công an.
Tôi nghĩ Dũng là Việt cộng nằm
vùng khai man lý lịch trà trộn vào lính truyền tin chờ cơ hội đặc chất nổ phá
hoại trung tâm. Nếu trung tâm mà bị đặt chất nổ hư hỏng là tôi sẽ bị ra tòa án
quân sự bị tử hình hoặc ở tù rục xương.
Mãi suy nghĩ tàu đã đến ga Quy
Nhơn, tôi bước xuống và đi vào sân ga thì thấy Dũng đứng chờ tôi. Gặp tôi Dũng
nói:
-Thiệt tình em gặp lại ông thầy
em mừng lắm, bây giờ cũng đã tối rồi, em mời ông thầy đi ăn cơm với em.
Tôi nói với Dũng:
-Bây giờ thầy trò gì nữa, gọi
anh em với nhau cho thân mật.
-Ông thầy cho phép em mới dám
gọi. Mời anh vào tiệm cơm bên kia đường.
Vào tiệm cơm Dũng gọi hai phần
cơm 2 người, hai chai bia. Và Dũng tâm sự:
-Chắc thấy em đi công an anh
ngạc nhiên và không thích phải không?
Tôi nói đãi đưa với Dũng:
-Anh biết ngành công an phải lý
lịch trong sạch, gia đình tham gia cách mạng… mới được tuyển vào. Anh rất mừng
cho em.
Không phải vậy, trường hợp em là
khác. Dũng kể:
Năm 1970 quốc lộ 19 do sư đoàn
mãnh hổ Đại Hàn kiểm soát an ninh, mỗi sáng đi mở đường, nếu có du kích Việt
Cộng nấp những làng hai bên đường bắn sẻ một người lính chết là tràn vào làng
kéo thanh niên, thanh nữ ra bắn hết. Em có một thằng em cũng bị Đại Hàn bắn
chết. Năm 1975 mấy ông nầy về, những gia đình có người bị bắn chết được cấp
giấy gia đình liệt sĩ.
-Nhờ gia đình liệt sĩ em được
vào ngành công an phải không?
-Dạ, đầu năm 1977 ở tỉnh Bình
Định tuyển công an em lấy giấy gia đình liệt sĩ làm đơn xin vào.
-Anh nghe nói ngành công an kiếm
chát cũng khá hả em?
-Dạ, khá lắm, nhưng đối với em
là khác. Dù sao em cũng ở trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, có giáo dục nhân
bản, thương dân mình bây giờ đang đói khổ, nhất là những vợ của lính cùng chiến
tuyến với mình, bị đi ở tù, hoặc đi kinh tế mới, em không dám tìm cách bắt chặt
những người đi buôn phải đóng chịu hằng ngày không biết hàng hóa nhiều hay ít,
như những thằng công an ngoài Bắc ăn tàn nhẫn lắm.
-Em không ăn tiền đâu mà nộp lên
trên.
Tôi hỏi Dũng để biết thêm về
ngành công an mà dân ai cũng ghét.
-Bởi vậy nên em nghèo hơn tụi
Bắc kỳ. Chắc em làm một thời gian nữa em xin đổi qua ngành khác, để lấy đức cho
vợ con.
Nhắc đến vợ con, tôi hỏi để biết
hoàn cảnh Dũng.
-Bây giờ vợ con em đang ở đâu và
làm nghề gì?
-Dạ, nhà em ở thành phố nầy. Em
cưới vợ năm 1978, nhân viên bán vé tàu ở ga Quy Nhơn và sinh một cháu trai được
ba tuổi. Em dành dụm mua được căn nhà nho nhỏ để cho gia đình trú ngụ.
-Như vậy em cũng yên ổn rồi, anh
rất mừng cho em.
-Thú thật với anh em cũng không
muốn vào ngành nầy nhưng đổi đời không biết làm nghề gì nên phải chấp nhận.
Tôi nói với Dũng:
-Em có ý định chuyển ngành thì
rất tốt, giữ phúc đức cho con cháu sau nầy.
Dũng nhìn tôi hơi rụt rè và nói:
-Gặp anh em mừng lắm, nhắc lại
cho em những kỷ niệm thời còn bạn bè, công việc làm, em rất buồn biết bao giờ
tìm lại. Anh mới ra tù còn vất vả lo cho vợ con, em xin biếu anh một ít tiền
làm lộ phí và em đã mua vé cho anh về Đà Nẵng.
Dù sao, với nhân cách của người
sĩ quan quân đội miền nam, tôi từ chối và cảm ơn Dũng. Nhưng Dũng nài nỉ và
nói:
-Anh nhận cho em vui, xin anh cứ nghĩ em là lính của anh như ngày xưa,
không thay đổi gì.
Nghe Dũng nói rất chân thật, hơn nữa tôi mới ở tù ra cũng thiếu tiền cho
chuyến đi. Tôi nói với Dũng:
-Anh nhận số tiền nầy, sau nầy anh khá lên anh sẽ gởi lại cho em. Cảm ơn
em rất nhiều.
Tôi nhìn Dũng rất vui, tôi nói tiếp:
-Thôi em về kẻo vợ con trông. Hy
vọng chuyển vào anh sẻ gặp em, sẻ ghé lại thăm vợ con em. Anh em mình tâm sự
nhiều.
Tôi bắt tay Dũng và chúc Dũng
nhiều sức khỏe và gặp nhiều may mắn.
*
Dũng đi rồi, tôi lang thang vào ga tìm một chỗ ngủ. Mãi suy nghĩ về Dũng
mà tôi cứ thao thức không ngủ được.
Cộng Sản đã xâm chiếm miền Nam, tất cả sĩ quan bị đi ở tù không biết
ngày về, những người có chút học thức tham gia chế độ miền Nam không bị ở tù
thì đày đi kinh tế mới, nhưng cái tình của người miền Nam vẫn còn thương yêu
nhau, đùm bọc lẩn nhau… Nhất là những người lính huynh đệ chi binh.
Khi còn tại chức trước năm 1975, người sĩ quan QLVN phải làm đúng bổn
phận, trách nhiệm của người sĩ quan chỉ huy. Tôi cũng làm đúng bổn phận và
trách nhiệm. Nghiêm khắc, la rầy, phạt trọng cấm, cúp phép… Tôi cứ nghĩ một
người sĩ quan thất cơ lỡ vận bị Cộng Sản tuyên truyền, lính sẽ thù hận nhưng
không ngờ vẫn còn kính nể, thương yêu nhiều hơn xưa.
Lang man suy nghĩ, có vé tàu Dũng đã mua, tôi không lo thức sớm để sắp
hàng mua vé, và có uống một chai bia, tôi thiếp vào giấc ngủ mặc dù nhiều hành
khách đi lại nói chuyện ồn ào. Sáu giờ sáng thức dậy, mua một ổ bánh mì điểm
tâm và lên tàu với tâm hồn nhẹ nhàng, vui tươi.
Có tiền của Dũng đến ga Quảng Ngãi tôi mua một con gà luộc (ga QN bán gà
đa luộc chín rất ngon) và kẹo mạch nha về làm quà cho mẹ.
***
Tôi về ăn Tết với mẹ được một tháng vào lại Sài Gòn tìm việc làm nuôi vợ
con. Khi vào tôi mua mè xửng Huế và bánh đậu xanh để làm quà cho Dũng, người
thương phế binh và vợ con. Buổi tối nghỉ lại ga Quy Nhơn tôi đi lang thang hỏi
thăm Vợ chồng Dũng không ai biết, có lẽ buổi tối nhân viên nghỉ hết. Trên đường
tàu chạy vào Tuy Hòa tôi hỏi mấy anh công an kiểm soát họ trả lời là Dũng đã
chuyển ngành và không biết ngành gì.
Khi nghe tin Dũng đã chuyển
ngành tôi rất vui và mừng cho Dũng đã giữ đúng lời hứa. Ít ra người quân nhân
miền Nam cũng phải có bản lĩnh như vậy.
Trên đường từ Tuy Hòa vào Nha
Trang tôi cũng không thấy cha con người thương phế binh hát dạo, tôi hỏi hành
khách trên tàu đi buôn hằng ngày họ trả lời cũng không thấy hai cha con người
thương phế binh hơn nửa tháng rồi. Tôi rất buồn, không biết có mệnh hệ nào cho
hai cha con… Anh lê lết trên tàu, bến xe hát những bản nhạc vàng của miền Nam
như một cái gai trước mắt bôi bác chế độ họ muốn nhổ đi cho khuất mắt. Tôi
thương và buồn vô cùng cho hai cha con người thương phế binh phải gánh chịu
những tai ương sau chiến tranh điêu tàn…
Chuyện đã xảy ra trên bốn mươi
năm rồi, tôi vui, buồn mỗi khi nhớ lại…
Bạn ơi! quan hà xin cạn chén ly bôi
Ngày mai tôi đã đã đi xa rồi
Thành đô lưu luyến chắn bước chân tôi
trước giờ chia phôi mấy ai không bùi ngùi
kỷ niệm buồn vui mãi ghi trong lòng tôi.
Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi
Bạn ơi! hãy nói “khoác chiến y” rồi
Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên
giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền
có về là khi nước non vui bình yên.
Nhớ lúc lên đường đưa tiễn chân tôi,
Thương lên khoé mắt mẹ nhắn đôi lời,
Diệt thù lập công cho xứng tài trai,
Sắt son ghi lòng chớ phai.
Ai đi chinh chiến xây đắp tương lai,
Con đi chinh chiến để nước yên vui
Lời mẹ hiền khuyên nguyền khắc trong tim
bao giờ dám quên.
Bạn ơi! khi nào ai hỏi đến tên tôi
Đời tôi lính chiến cánh chim tung trời.
Ngày nào khi đất nước hết binh đao
giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu,
trở về thành đô nắm tay ta mừng nhau.
Người đi chiều ấy áo nhuộm bụi đường
Chiều nay về giữa kinh kỳ say hương.
Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi
Bạn ơi! hãy nói “khoác chiến y” rồi
Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên
giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền
có về là khi nước non vui bình yên.
May 25,
2024
Trần Thế
Phong
https://www.nguoi-viet.com/ban-doc-viet/tren-chuyen-tau-cuoi-nam/
No comments:
Post a Comment