Hình minh họa
Hắn là sinh viên tốt nghiệp đại học,
thất nghiệp dài dài, bèn ra nghề chạy xe ôm gần cả năm nay để kiếm cơm sống qua
ngày. Nhưng, so với những quái xế chuyên nghiệp tại thành Hồ, hắn còn kém họ xa
lơ xa lắc về mặt kiến thức giang hồ mà họ tích lủy được ngoài đường phố; vì vậy,
có những trường hợp cần thỏa mãn nhu cầu của khách, nhứt là những khách ở tỉnh
khác lên Sài gòn, hắn đành chịu thua. Đôi khi hắn bị họ gọi ngược lại là “quái
xế Hai Lúa” thế mới đau chớ! Hãy nghe hắn tâm sự về nghề lái xe ôm.
Lái xe ôm là một nghề kiếm sống thật đơn giản, đổ mồ hôi để đổi lấy bát cơm
manh áo, sống một cách lương thiện. Xe ôm phân chia ra làm 4 giai cấp:
CÁ TRA: Những người lái xe ôm được rước khách ngay tại các bến xe
trong xa cảng miền Đông hoặc miền Tây, lực lượng nầy mặc đồng phục, áo thun màu
xanh hoặc màu vàng, có ghi ký hiệu đàng hoàng. Thí dụ tại bến xe Miền Đông:
“Tài đêm BXMĐ P…QBT” thu nhập của họ rất cao và chịu sự quản lý chặc chẽ của đội
bảo vệ xa cảng. Tập trung trước cổng số 2 là đội xe ôm “cá tra””.
CÁ CHỐT: Chỉ được phép đón khách ở ngoài cổng xa cảng.
CÁ LÒNG TONG: Là lái xe ôm hạng hành nghề tự do, chạy rong ngoài đường
phố để bắt khách, nên thu nhập rất thấp. Sau khi trừ tiền xăng nhớt cho chiếc
xe Suzuki cà tàng, cũng còn 5, 6 chục ngàn đủ tiền cơm, cà phê, thuốc lá cho một
ngày.
HOÀNG GIA: Còn đội siêu xe ôm “hoàng gia””, họ ăn mặc rất lịch lãm,
comlpe, cà vạt hẳn hoi, chơi toàn xe xịn đời mới như Honda, Dylan, Yamaha,
Suzuki Avenis… chuyên phục vụ khách đưa đón tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Còn tôi thuộc loại “cá lòng tong”, chuyên chạy rong ngoài đường phố bắt khách tự
do nên biết rất nhiều chuyện vừa mới xảy ra trong thành phố Sàigòn, như chuyện
buồn cười mới xảy ra ngoài hôm qua. Vào khoảng 10 giờ sáng, tôi đang xách xe
không, chạy cầu âu trên đường Cách Mạng Tháng Tám gần miệt Ngã Tư Bảy Hiền thì
gặp một thiếu phụ sồn sồn, béo tròn, vẫy tay gọi, nhờ tôi chở đi tìm mua “bánh
mì”. Tưởng thật, tôi mời bà ta lên xe, chạy một lèo ra Chợ Cũ Sài Gòn, vì bánh
mì ở đây thơm ngon nổi tiếng nhất thành đô. Đến nơi, tôi mời bà ta xuống xe thì
bà ta cười, nói: Chị muốn đi tìm “bánh mì”, nhưng không phải bánh mì loại nầy,
vừa nói bàn tay phải của bà ta di động mất trật tự xuống “vùng cấm địa” của tôi
rồi nói. “Chị muốn mua bánh mì loại nầy thôi hà!”
À, thì bây giờ tôi mới hiểu bà nầy thuộc loại bà già ham vui, tiếng lóng “bánh
mì” là ám chỉ mại dâm nam; còn “bành bèo” ám chỉ mại dâm nữ. Tiếng lóng nầy xưa
rồi, ít ai dùng tới. Tiếng lóng bây giờ, giới giang hồ dùng từ hiện đại hơn nhiều,
bọn “mãi dâm nam” thì họ gọi là “heo nọc””.
Heo nọc được chia ra làm ba hạng: “heo độc”, “heo bầy” và cuối cùng là “heo 4
Đ”. Đây là một tệ nạn xã hội nhức nhối trong thời buổi “Kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN”. Món ăn chơi gì mà cánh đàn ông hưởng thụ được thì đàn bà cũng
đâu có chịu thua kém. Cụm từ “bán trôn nuôi miệng” dành cho giới chị em ta, còn
bọn mãi dâm nam bán cái gì nuôi miệng đây? Nghĩ hoài mà không ra, chẳng lẽ dùng
từ “bán … nuôi miệng” ? Mà “heo độc” khác với “heo bầy” và “heo 4 Đ” như thế
nào? Khách mua dâm, đa số là mấy bà sồn sồn tuổi từ 50 trở lên, phần đông từ miền
Tây lên Sài Gòn buôn bán chuyến, xa gia đình đi mua vui. Giới giang hồ đánh giá
và phân loại bọn mãi dâm nam như sau:
HEO ĐỘC là heo đực giống thượng thặng, hoạt động độc lập, rất đắc giá, thường
là các mệnh phụ phu nhân của “cán bộ gộc”, vợ các đại gia hoặc những tên tư bản
đỏ mới dám đụng tới. Họ là những thanh niên khỏe mạnh, vai u, thịt bắp luôn
luôn khoát lên mình bộ vó sang trọng, đắc tiền như: quần soóc, áo thun Adidas,
giày Nike, đồng hồ Omega hay Rolex và cái điện thoại I Phone di động đời mới
luôn luôn kè bên mình…. Bãi đáp thường trực của họ là mấy quán cà phê nằm trên
đường Phạm Ngọc Thạch, quận 3. Có vào thử nơi nầy mới biết hư thực ra sao.
Không phải những “heo độc” là những chàng vai thịt bắp đâu nghen! Nhưng, đấy
không phải là tiêu chuẩn cần thiết. Ngược lại, có những chàng đẹp trai, dáng
người mảnh khảnh thư sinh như Alain Delon, cái tướng trói gà không chặc, cũng đắc
khách như thường. Khi khách làng chơi là phụ nữ có tâm hồn lãng mạng, rất thích
hạng người nầy để nhớ lại cái phút ban đầu lưu luyến ấy…Còn những mệnh phụ có
máu Võ Tắc Thiên hay Từ Hy Thái Hậu thì khoái mấy anh chàng vai u thịt bắp như
võ sĩ đô vật bên Mỹ. Khi khách hàng có nhu cầu cần thiết là liên lạc với nhau bằng
điện thoại di động. Giá mỗi lần “xuất chuồng” đi nhảy sô có thể lên đến 4, 5 vé
(400, 500 USD), bèo lắm thì cũng được 1 hoặc 2 vé.
HEO BẦY là những mãi dâm nam hoạt động trong đường dây, có tổ chức hẳn hòi.
Theo sự đánh giá trong giới làng chơi phụ nữ thì “heo bầy” không thể nào so bì
được với “heo độc” về hình thức bên ngoài cũng như mức thu nhập. Giá mỗi lần đi
sô chỉ thu nhập được từ 6 xị (600.000 đồng) hoặc 1 chai (1 triệu). Hiện nay,
“heo bầy” thường tập trung tại nhiều tại các công viên nằm ở trung tâm thành phố,
các quán trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm quận 1. Điều kiện heo nào muốn nhập bầy
cũng dễ dàng thôi: phải chịu khoảng chi phí bắt buộc 20% trên “tổng doanh thu”
cho “tú ông”, số điện thoại di động, và hai tấm ảnh 10 X 15 cm để làm catelogue
có đánh mã số đàng hoàng. Có 3 loại mã số: Mã số đỏ là dạng “xông khói” (trẻ khỏe
mạnh). Mã số xanh là “loại nướng” (phải sử dụng thuốc kích thích). Mã số vàng
là “luộc” (cho mấy bà có thu nhập ít xài đở).
HEO 4 Đ là “điếm đực đứng đường”. Bãi đáp thường xuyên từ góc đường Lê Thánh
Tôn – Nguyễn Bỉnh Khiêm đến trước cửa Thảo Cầm Viên là “chợ tình” của họ. Hãy
nghe một đoạn băng ghi âm tiếp thị của bọn ma cô là đủ thất kinh hồn vía: “Xin
bảo đảm với quý bà, quý cô là hàng đúng tiêu chuẩn quốc tế không sida, sẵn sàng
phục từ A đến Z, không hài lòng không lấy tiền. Tụi nầy là con nhà đàng hoàng đấy,
vì ham vui nên ra đây chơi. Dùng thử một lần thì biết đá, biết vàng…” Bọn ma cô
rao hàng theo kiểu “treo đầu heo bán thịt chó”, bọn 4 Đ nầy là loại vào tù ra
khám như ăn cơm bữa, chớ con nhà đàng hoàng cái nổi gì chớ!
Hồi tháng trước, tôi đến “chợ tình” trước cửa Thảo Cầm Viên để chứng kiến hoạt
cảnh buôn bán thân xác của bọn 4 Đ. Không phải bà nào bà nấy da mặt dầy hơn gót
chân đâu nghen. Bọn đàn ông đi tìm hoa tương đối dễ dàng khi chọn bãi đáp.
Nhưng cánh mấy bà đều phải tuyệt đối kín đáo vì việc mua dâm của họ là chuyện
làm khó có thể chấp nhận, vì thế họ phải theo một quy trình khép kín. Đã vậy mà
quý bà còn phải hóa trang bằng cách đeo những mặt nạ, đeo kính đen như điệp
viên 007, khẩu trang… cho chắc ăn, rồi đi taxi đến chợ tình tha hồ chọn hàng vừa
ý.
Đêm đó, tôi quan sát một chiếc xe taxi màu xanh, chạy chầm chậm trước Thảo Cầm
Viên để tìm “bò lạc”, ngồi trong xe là một người đàn bà đội nón rộng vành màu
đen, kéo xệ xuống che gần hết khuôn mặt. Liền theo đó, một chiếc Honda màu đỏ
phân khối lớn chở một thanh niên ngồi phía sau, ăn mặc bảnh bao, tướng tá không
tệ lắm. Bà ta quay cửa xe taxi xuống để quan sát mặc hàng cho chính xác. Tôi liền
bám sát phía sau chiếc Honda, nghe bà ta hỏi:
-Bảo đảm hàng không có bệnh “sida” chớ?
Tên lái Honda, tôi đoán không lầm là “tú ông” nói:
-Bảo đảm với chị là hàng sạch!
-Giá phục vụ over night mấy xị? Bà ta hỏi.
Hắn trả lời:
-Giá gì bèo thế? Cho xin một chai mới đủ sở hụi!”
Bà ta nói:
-Được, chất hàng lên xe taxi đi! Nếu phục vụ đúng mức, chị “bo” thêm để bồi dưỡng.
Còn làng chàng là chị Hai “thiến” đó nghe!”
Thường la cà khu vực nầy, còn có mấy tên “gay” tới lui để bày hàng. Dưới chân cầu
Đồng Nai thuộc quận 9 thành Hồ, có một tiệm chụp hình thời trang, mấy bà mệnh
phụ phu nhân thường tới lui khu vực nầy để tìm “hàng son”, chọn mặt đặt hàng,
có khi phải order mất mấy ngày mới có đấy nhá!
Trong cái thế giới mãi dâm nam ở thành Hồ cũng có quy luật riêng của nó, đôi
khi cũng rất tàn nhẫn. Những chàng trai khỏe mạnh bán cái “vốn trời cho” không
phải là sức voi hoài đâu, xài hoài cũng cạn kiệt. Đó là những bọn “cave nam” mà
khách hàng của họ là những dân đồng tính nước ngoài giàu có như doanh gia, nghệ
sĩ…Ngoài cái khoảng tiền đi khách phải chia cho chủ khách sạn 50% (ngoài trừ tiền
bo), cave nam còn dành một khoảng tiền không nhỏ để tái tạo lại sức lao động, mới
đủ sức trường kỳ kháng chiến. Ngoài dân đồng tính, các bà sồn sồn từ 40 đến 50
tuổi cùng thường tới lui vũ trường để tìm bướm.
Hoàng Lao Ái, một tên cave nam chuyên nghiệp, thuộc dạng “heo độc”, tâm sự:
-Làm cái nghề nầy cũng cay nghiệt lắm, khi mà sức tàn lực kiệt sẽ bị đào thải
ra đứng đường không thương tiếc! Hắn than thở: Mỗi ngày phải “nhảy dù” 5, 7 sô
với mấy bà sồn sồn thì chỉ có nước từ hết xí quách đến…liệt như chơi! Gặp nhiều
bà chằng xấu như Chung Vô Diệm, cũng phải ráng nín thở qua sông.
Hắn còn cho biết, khu vực quanh Nhà máy Bia Sài Gòn, nhất là đường Nguyễn Kim
và Lý Thường Kiệt thuộc quận 5 và 10 là nơi làm ăn của giới nầy và tương lai của
hắn cũng sẽ ra đó kiếm sống.
Hiện tượng mãi dâm nam hay trai đứng đường có khuynh hướng phát triển “đại trà”
ở cấp quốc gia, báo động về sự suy đồi đạo đức tột cùng của chế độ XHCN hiện
nay. Nguyên nhân đưa đến tệ đoan xã hội nầy là do các phu nhân, mệnh phụ sồn sồn,
đẻ năm sáu lứa hay đào nhí của cán bộ CS có chức, có quyền hoặc mấy đại gia, tư
bản đỏ giàu có. Khi mà tài sản của họ lên đến hàng trăm triệu USD thì giàu đổi
bạn, sang đổi vợ là chuyện thường tình, mà trâu già lại thích gặm cỏ non. Quý
ngài thay đào nhí, người mẫu thời trang chân dài như thay áo, viện cớ đi họp Đảng
vắng nhà thường xuyên, đến mức các bà chịu hết nổi phải “vùng lên” đấu tranh,
ông ăn chả thì bà phải ăn nem. Đời là thế đấy!
Xin hãy lắng nghe tâm sự của một chàng “heo độc” trước khi chấm dứt phóng sự nầy:
“Tôi nhờ cái mã trời cho đẹp trai, nhờ vậy mà tôi trở thành “trai bao” cho một
số mệnh phụ phu nhân. Tôi sợ nhất là khi phục vụ cho mấy bà vợ sồn sồn của quí
vị lãnh đạo cơ quan nhà nước hoặc các đại gia uy quyền thuộc loại “3G”, mà quí
bạn có biết 3G là gì không? Đó là loại “gộc, già, giàu”. Mấy mụ nầy chuyên ăn
no rửng mỡ, sung sức quá mạng. Có một lần, tôi được gọi phục vụ cho một bà sồn
sồn, vợ của một đại gia khét tiếng ở Sài Gòn. Hôm đó, tôi chẳng may “khóc ngoài
quan ải”, làm bà ta nỗi trận lôi đình, hét tướng lên: “Tao trả tiền bo đẹp cho
mầy là để mầy làm cho tao sướng, chớ đâu phải tao làm cho mầy…sướng đâu hả? Đồ
mắc dịch! Trả tiền bo lại cho tao!”
Mắng xong, tiện tay bà ta vói tay lấy chiếc giày cao gót, nện vào đầu tôi mấy
quả đến phun máu… Làm đời trai bao, không phải lúc nào cũng được quý bà cưng
chiều đâu nghen bà con. Mình mà “hộc máu trước cửa thành” thì dễ bị mấy bả nổi
điên lên, giở trò bạo lực, nắm tóc, giựt chỏ, lên gối… sau cùng nện cho một trận,
quần áo tơi tả, phù mỏ như chơi…
oOo
Để tiết kiệm xăng dầu, hàng ngày tôi thường chạy xe Phố Tây Ba Lô, ghé một
trong những quán cà phê, ngồi nhâm nhi ly cà phê đá chờ đón khách, bắt được mối
nào thì chạy, còn hơn chạy rong suốt ngày ngoài đường phố, vừa tốn xăng dầu lại
vừa mệt thân. Khu Tây Ba Lô là một khu vực được giới hạn bởi 4 con đường: Phạm
Ngũ Lão, Nguyễn Thái Học, Bùi Viện và Đỗ Quang Đẩu thuộc quận 1 Sàigòn với hàng
trăm điểm dịch vụ du lịch thường mang tiếng Anh ngồ ngộ như: Go 2 eat, Bodhi
Tree, Zen, Shunshine Indian, Sahara Music, Good Morning Vietnam, Cyclo bar, Gun
& Roses Bar…
Phố Tây Ba Lô được xem là hình thành vào khoảng năm 1986, khi có một vài nhóm
du khách Pháp, Nhật, Mỹ, Pháp tình cờ tập trung về trú gụ tại nơi nầy. Lý do họ
tập trung về nơi nầy vì gần chợ Bến Thành, lại ở trung tâm thành phố nên tiện
việc đi lại dễ dàng. Tới năm 1993, khi khu Phạm Ngũ lão được nhắc đến trong tập
sách du lịch “Lonely Planet”, nhiều nhóm di lịch “BỤI” đến từ Nhật, Pháp, Úc,
Anh và đông nhất là dân đến từ Phi Châu… đã đưa họ vào điểm hẹn khi đến Sàigòn.
Những khách du lịch nầy đeo ba lô hành lý gọn nhẹ trên lưng đi lòng vòng tìm chỗ
nghỉ ngơi, ăn uống vừa túi tiền, thấy vậy người dân ở đây bèn gọi họ là “Tây Ba
Lô”.
Từ đó đến nay, khu phố Tây Ba Lô đã phát triển rầm rộ, nhất là các dịch vụ
khách sạn, quán ăn cửa hàng để phục vụ cho họ từ sáng sớm đến nửa đêm. Ở khu phố
nầy có hàng chục chiếc xe hơi mang dòng chữ “Open tour” tấp nập đón khách đi,
thả khách xuống. Những chuyến xe nầy không chỉ chạy trong thành phố mà còn bao
cả các tuyến đường đi Củ Chi, Tây Ninh, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Vũng
Tàu, Nha Trang…
Theo UBND phường Phạm Ngũ Lão, riêng tại khu vực nầy có khoảng 250 cơ sỡ lưu
trú như khách sạn, phòng cho thuê, có khoảng 70 công ty du lịch và hơn 300 cơ sở
dịch vụ phụ trợ khác như: cửa hàng ăn uống, quán bar, cà phê, karaoke, của hàng
Internet, băng dĩa, cửa hàng bán đồ lưu niệm. Phần lớn người dân ở đây đều nói
được tiếng Anh. Đặc biệt đối với khách du lịch “Bụi” không khá giả, đi lẻ và
chi tiêu rất tiết kiệm nên khu phố nầy đã có đủ loại dịch vụ giá hạ, từ ăn uống,
cắt tóc, cho thuê xe 2 bánh, quán nhậu bình dân, quán bar giá rất hạ. Mỗi ngày
tại Khu phố Tây Ba Lô có từ 3.000 đến 4.000 khách quốc tế đến và đi, họ ăn mặc
rất thoải mái, quần short, áo thun, đi giày thể thao hoặc dép Nhật. Sàigòn còn
có khu vực phường Bến Nghé. Ở khu phòng Bến Nghé tập trung những khách sạn 5
sao, quán cà phê lớn và sang trọng. Nơi đây dành cho Tây giàu hay Tây thương
gia làm trong những cao ốc sang trọng. Vào một buổi xế chiều, tôi đang ngồi ở
quán Sinh Cafe chờ khách thì tôi bất ngờ gặp lại Hoàng Lao Ái đi lang thang
trên đường. Tôi mừng quá gọi:
-Ê, anh Hoàng Lao Ái vô đây uống càfe!
Anh ta nghe tôi gọi, giật mình ngó dáo dác xem ai gọi. Thấy tôi đang ngồi nhâm
nhi bên ly cafe đá trong quán, hắn vội vàng bước vào, chào tôi:
-Chú mầy đang làm gì ở khu Tây Ba Lô nầy?
-Chạy xe ôm mà, anh quên rồi sao? Chạy vòng vo ngoài đường phố hoài vừa mệt, vừa
hao xăng. Vô đây kiếm khách, chờ gần một tiếng đồng hồ mà chưa thấy thằng Tây
Ba Lô nào đi lạc cả. Còn anh đi đâu lang thang ở đây?
-Tao vô đây cũng kiếm khách sộp, tao đi hồi sáng tới giờ mà chẳng được mối nào
để phục vụ. Mấy con mụ trước đây lần lượt bỏ tao đi theo trai Tây Đen. Dạo nầy
mốt của mấy bà vợ đại gia, vợ cán bộ lãnh đạo “ghiền” chơi với Tây Đen. Mấy mụ
nầy quan niệm: “Tắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranh”, miễn sao nó làm cho mấy bả
phê là được rồi! Hoàng Lao Aùi than đứt ruột: Nghề làm “trai bao” giờ cũng cạnh
tranh khốc liệt để sinh tồn, tụi tao khó lòng mà cạnh tranh cho lại mấy thằng
Tây Đen, “của trời cho” của mấy thằng Tây Đen, thằng nào cũng “quá cở thợ mộc”
thấy mà ớn xương sống!
-Anh uống gì, tôi đãi.
Hắn gọi người phục vụ:
-Cho tôi ly café đá cho ít đường thôi nghe!
-Tụi Tây Đen ở nước nào mà qua xứ mình đông quá vậy anh? Tôi hỏi.
-Theo ghi nhận của quý bà nghiện trai Tây Đen, sành của ngoại cho biết, tụi nó
thường là những gã thanh niên thất nghiệp ở đất nước họ, đến Việt Nam theo con
đường du lịch. Nhưng sau đó họ họ tìm cách ở lại, bám trụ khu Tây Ba Lô, hành
nghề “trai bao” chuyên phục quý bà ăn no rửng mỡ, bán “của trời cho” để nuôi
thân, ăn no bò cỡi lại có thu nhập cao và đôi khi bao cả những cô vợ hờ “chân
dài” của những cán bộ cao cấp “3G” hoặc các đại gia.
-Đúng là của lạ xuyên quốc gia, quý bà có cơ hội đổi món ăn chơi vừa sướng mà
giá cả cũng phải chăng, đúng không? Tôi hỏi.
-Đúng vậy! Đa số những khách “du lịch” Tây Đen thường từ các nước nghèo ở châu
Phi như Ma rốc, Alger, Nam Phi, Bờ Biển Ngà… thất nghiệp dài dài. Sau đó, nhờ
những người đi trước hướng dẫn bằng internet, video… nên họ ồ ạt tìm mọi cách
du lịch sang Việt Nam hành nghề “trai bao”, vì đàn bà Việt Nam đẹp hơn đàn bà bản
xứ rất nhiều. Thường những trai bao Tây Đen là những người nhập cư trên một
năm, nói tiếng Việt khá sành sỏi và biết mọi ngóc ngách của Sàigòn. Các đối tượng
nầy thường ngày rong ruổi khắp nơi, kiếm quý bà, quý cô để phục vụ kiếm thu nhập.
Tối về ở các quán bar, nhậu nhẹt, hút ma túy. Ngày nào cũng như ngày nấy thì
cũng có ngày cũng cạn kiệt xí quách…
-Đến lúc đó thì họ làm gì để sinh sống?
-Về sau, khi hết tiền hoặc “hết xí quách”, họ kiếm các nhà trọ rẻ hơn và có khi
phải nằm ngủ ngoài công viên, cuối cùng là trở về nước của họ, Hoàng Lao Ái hỏi
tôi: Tối nay, mầy có muốn theo tao xem sinh hoạt của khu Tây Ba Lô về đêm
không?
-Ờ, đi thì đi! Sợ gì mà không dám đi chớ!
Chờ khi màn đêm buông xuống, khu vực nầy lên đèn là chúng tôi lên đường. Thường
các “trai bao” Tây Đen tụ tập thành từng nhóm đứng ngồi trong công viên 23/9 hoặc
đường Phạm Ngũ Lão, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Nghĩa… trên địa bàn Quận 1, vì
khu vực nầy thường là tập trung giới thượng lưu hoặc trung lưu, có tiền dư bạc
để.
Khoảng 8 giờ tối, tôi đã thấy những gã “trai bao” Tây Đen ăn mặc chải chuốt xuất
hiện, đi trên những chiếc xe tay ga lượn lờ hoặc đứng ngồi chờ khách. Thiên hạ
cứ tưởng trai bao chỉ cần đứng đó chờ khách đến ngã giá, kiếm nhà nghỉ thế là
xong. Nhưng, Hoàng Lao Ái tìm hiểu qua các tay cò mồi thì mọi việc không hề đơn
giản như vậy; đôi khi rất phức tạp tùy theo từng đối tượng mà họ phải phục vụ.
Thậm chí, trong giới “trai bao” Tây Đen có cả một đường dây môi giới, và dĩ
nhiên, người đứng đầu tổ chức môi giới “trai bao” Tây Đen nầy là người Việt
Nam, phần đông xuất thân của họ là dân giang hồ, đâm thuê chém mướn.
Nếu khách hàng cho biết dịch vụ cần kín đáo thì người môi giới làm theo yêu cầu
của khách đã chọn bãi đáp trước và theo giá cả đã thỏa thuận như: tiền phòng
khách hàng chịu chi và chia cho cò 30%. Thường mỗi cuốc là từ 7 – 800 ngàn đồng
tiền thuê, phi vụ nguyên đêm khoảng 2 triệu, nếu quý bà hài lòng thì “bo” thêm.
Khách làng chơi có hai hạng:
“”MỐI RUỘT” đa số là những bà đã bỏ chồng hoặc góa chồng hay thuộc dạng trả thù
đời, vùng lên “ông ăn chả, bà ăn nem”. Họ thường xuyên tới đây tìm trai bao khi
có nhu cầu mà không ngại ngùng. Còn hạng thứ hai là “MỐI QUA ĐƯỜNG” là những bà
mệnh phụ, phu nhân của các đại gia, cán bộ cao cấp gộc, giàu và già gần hết xí
quách, không thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi của quý bà lúc lên… giường nên thích đi
tìm của lạ “xuyên quốc gia”, xong qua một đêm bay bổng, các bà ít khi quay lại
chốn xưa…
Làm trai bao vừa có tiền vừa sướng, họ trở thành cái cối “làm
tình” cốt thỏa mãn cho đối tượng là có thêm tiền “bo” bỏ túi. Như chàng trai
tên Abu gốc Nam Phi, thân người khá cao lớn, sang Việt Nam gần 3 năm rồi. Ở Nam
Phi, Abu chỉ là người chào hàng, nhưng khi nghe mấy người cùng quê giới
thiệu đi du lịch Việt Nam rẻ, nhiều phong cảnh đẹp nên Abu lên đường cùng nhóm
bạn bè sang Việt Nam một chuyến. Sau khi sang Việt Nam được hơn tháng thì Abu cạn
tiền, định trở về nước.
Nhưng, khi thấy những người cùng màu da với mình vẫn sống phây phây với nghề
“trai bao” nên Abu xin theo học nghề …mỗi đêm thu nhập vài triệu bạc tha hồ ăn
chơi trác táng. Abu cho biết, đối tượng của mình phần lớn là quí bà khoảng U40
mà vẫn còn khát tình. Abu bỏ ý định về nước và nghề trai bao vì nghề nầy vừa dễ
dàng, vừa nhẹ nhàng, vừa sướng và vừa có thu nhập cao, mỗi tháng rủng rỉnh bỏ
túi khoảng 5 chục triệu đồng sau khi trừ hết mọi chi phí.
Hoàng Lao Ái dẫn tôi đến một quán bar trên đường Đỗ Quang Đẩu thuộc quận 1, là
một trong các tuyến đường thuộc khu phố Tây tại Sàigòn, nơi tập trung nhiều
quán bar nhỏ mang tên ngoại: R. café,J. Star café… chúng tôi choáng ngộp với những
màn ăn chơi về đêm của giới nầy, nơi tụ tập để nhảy thoát y táo bạo, dùng cả
thuốc lắc, ma túy, rượu mạnh đủ loại. Hoàng Lao Ái thấy thấp thoáng một bóng hồng
quen quen, liền dẫn tôi tới gạ chuyện:
-Hello, Loan lâu ngày không gặp! Bà lượn lờ tới những quán Bar nầy làm gì vậy?
-Biết rồi còn phải hỏi làm chi vậy, cha nội! Tui đang kiếm bắt bồ với khách du
lịch nước ngoài. Hy vọng câu trúng một thằng “Tây trắng” nào đó, rồi giục nó
mau chóng làm giấy đăng ký kết hôn để được bảo lãnh qua bển. Còn không, nó cũng
giúp mình đi theo dạng du lịch mà hễ đi qua bển được thì mình kiếm cách ở lại.
Thông thường mấy thằng Tây Ba Lô sang đây vốn lạ nước lạ cái, nếu được cô gái
Việt Nam chủ động đến bắt bồ, đa số họ đều nổ banh nhà lồng chợ. Ở bên Mỹ làm bồi
bàn nhưng sang tới đây thì khoe là Giám đốc nhà hàng. Còn mấy thằng làm công
nhân xây dựng thì khoe là Kiến trúc sư. Xạo bỏ mẹ!
Loan móc một gói lá 3 số trong bóp ra, mời Hoàng Lao Ái và tôi mỗi người một điếu,
rồi bật quẹt lửa đốt, phì phà một vài hơi, nói tiếp:
-Chị Oanh, chủ một cửa hàng trên đường Phạm Ngũ Lão nói rằng, hồi trước nhà ai
có con gái cặp bồ hoặc có chồng Mỹ, thì họ gọi mỉa mai là “Me Mỹ”, đi ra đường
mắc cở với thiên hạ, chẳng dám nhìn mặt hàng xóm. Bây giờ thì khác xưa khi thế
giới hội nhập, kinh tế thị trường, chuyện yêu đương với nước ngoài là chuyện
bình thường; thậm chí, có lắm cô còn hãnh diện cặp bồ với một ông Tây đáng tuổi
bố mình đi tung tăng ngoài phố.
-Bà có mặc cảm với xã hội khi bà lấy chồng Tây không? Hoàng Lao Ái hỏi.
-Mặc cảm gì cha nội! Tôi mà cặp bồ được với ông Mỹ già là phước đức ba đời rồi,
vẫn còn hơn mấy cô muốn lấy chồng Hàn, Đài Loan, Singapore được mối lái tập
trung tại một điểm bí mật nào đó, phải cởi truồng 100% cho tụi nó sờ ngực, sờ
mông …để chọn vợ. Tính đến cuối năm 2013, anh có biết bao nhiêu cô gái Việt Nam
lấy chồng Đài Loan và Hàn Quốc không? Loan hỏi.
-Làm sao tôi biết được chớ! Hoàng Lao Ái nói.
-Vậy mới nói, anh chỉ biết phục vụ mấy bà chân dài, vợ nhí của mấy đại gia và tụi
cán bộ “3G”, ngoài ra anh có biết con mẹ gì đâu! Loan nói: Đã có trên 120.000
phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan và khoảng 40.000 lấy chồng Hàn Quốc thông
qua hoạt động môi giới bất hợp pháp. Điều nầy khiến hàng vạn phụ nữ sau khi kết
hôn theo chồng về Đài Loan và Hàn Quốc đa số lâm vào cảnh sống vô cùng khó
khăn, bị ngược đãi, bị buôn bán với mục đích mại dâm, bị chồng đánh đập tàn nhẫn
dẫn đến thương tật suốt đời hoặc tử vong; thậm chí, những phụ nữ còn khỏe mạnh
thì bị chồng đem bán cho các “lò mỗ người” để lấy nội tạng đem bán cho những ai
có nhu cầu với giá cao; thỉnh thoảng, người ta phát hiện những xác chết mất hết
nội tạng của thiếu nữ Việt Nam xấu số bị vất dưới chân núi hoặc trong rừng để
phi tang.
-Thôi, bây giờ chúng tôi còn đi tham quan vài nơi khác, Hoàng Lao Ái nói: Tôi
chúc bà gặp nhiều may mắn lấy được một ông Tây trắng như mong ước để đổi đời với
thiên hạ.
Sau đó Hoàng Lao Ái dẫn tôi tham quan một vài địa điểm ăn chơi thác loạn của
quý bà sồn sồn ăn mặc diêm dùa, lòe loẹt đi săn tìm mấy “phi công Tây Đen” vừa
trẻ, vừa khỏe, vừa kinh nghiệm sẵn sàng phục vụ quý bà thừa tiền, thiếu tình từ
A tới Z. Vì vậy, xu hướng đàn bà Việt Nam mê mệt trai bao Tây Đen ngày càng gia
tăng nhanh chóng. Mấy bà quan niệm: “Tắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranh” cũng
đúng thôi!
Nếu như Đảng và Nhà nước ta không có biện pháp kiểm soát chặt chẽ thành phần
dân Tây Đen cư ngụ bất hợp pháp tại Sàigòn thì có ngày phu nhân và con gái của
các ngài lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta cũng “ghiền” trai bao Tây Đen mà quý vị
không hề hay biết… cho đến khi phu nhân và các tiểu thư mang bầu rồi sanh cho
quý vị một hoàng tử hoặc một thằng cháu ngoại “ĐEN THUI” như cục than hầm, đến
lúc quý vị mới tá hỏa tam tinh thì đã muộn….
NGUYỄN VĨNH LONG HỒ
https://baovecovang2012.wordpress.com/2014/10/10/phiem-trai-bao-sai-gon-nguyen-vinh-long-ho/
Ở Việt Nam có cả trăm thứ nghề mà trên thế giới này không có, chỉ tại dân Việt Nam khinh chê nghề buôn bán nên đã để cho người Tầu nắm hết huyết mạch kinh tế rồi sống vất vả chẳng đâu vào đâu, khi nào người Việt biết trọng nghề buôn bán như người Mỹ, Do Thái, Nhật Bổn, Nam Hàn và Trung Hoa thì dân Việt Nam mới bớt khổ .
ReplyDelete