Tôi nhớ rất rõ chuyện xẩy ra rất lâu khi tôi gần tròn bốn tuổi.
Hồi đó, gia-đình tôi sống gần một làng chài ở Mỹ-khê, Đông-Giang thuộc quận ba thành-phố Đà nẵng.
Ba tôi phục-vụ trong quân-đội VNCH, đơn-vị đóng ngoài Quảng-Trị, cấp
bậc hạ-sĩ. Mẹ tôi bán cá ngoài chợ Sơn-trà. Mẹ tôi mua cá của những ghe
chài cập bến vào sáng sớm, để đem ra chợ bán. Một buổi trưa Chúa nhật,
hai anh em tôi chơi banh ngoài sân cỏ bên cạnh nhà, chờ mẹ về cho ăn
cơm. Anh tôi học lớp đệ thất trường Trung-học Đông-Giang, tôi học lớp
mẫu-giáo của một trường tư trong phường. Đang chơi, vô tình trái banh do
anh tôi đá quá mạnh, tôi đỡ không nổi nên bị trái banh trúng vào mặt.
Đau quá tôi khóc ầm lên, anh tôi chạy đến dỗ dành tôi, lấy tay lau nước
mắt cho tôi, xoa nhẹ vào má tôi, nơi bị đau. Vừa lúc đó mẹ tôi từ chợ
về.Thấy mẹ, tôi càng khóc lớn thêm. Khi biết được sự việc, mẹ tôi quơ
tay đập nhẹ mấy cái vào đầu anh tôi mắng: “Cha mi, làm em đau,” rồi vội
dẫn tôi vào nhà, lấy khăn ướt lau mặt cho tôi, để tôi vào võng đưa qua
đưa lại, dỗ dành: “Nín đi con, sau nầy đừng chơi banh nữa, tháng tới
sinh nhật con ba về mẹ nói ba mua cho con chiếc xe đạp nhỏ, con đạp đi
học giống như anh Hai của con.” Nói xong, mẹ tôi đi vào bên trong nhà
rồi trở ra, một lá thơ trên tay: “Đây là thơ của ba con gởi về hôm tháng
rồi” mẹ tôi đọc:
– Tháng tới, ngày 27 tháng 4 sinh-nhật của cu Tấn, anh sẽ xin phép về
vài ngày. Em xem mấy cửa hàng bên chợ Hàn nơi nào bán xe đạp vừa tầm cỡ
cu Tấn, anh về sẽ mua cho con một chiếc.
Nghe vậy, tôi ngừng khóc. Mẹ tôi ngồi vào võng, ôm tôi nằm sấp vào
lòng, vừa đưa võng vừa nói, “Bữa ni mới 10 tây tháng hai, còn hơn hai
tháng nữa ba mới về. Từ đây đến ngày đó, nếu con còn nhõng nhẽo không
nghe lời của mẹ và anh hai thì mẹ nói ba không mua xe đạp cho con đâu.”
Tiếng mẹ tôi nghe nhỏ dần, trong mơ tôi nghe tiếng ba tôi khen “Cu
Tấn đạp xe giỏi quá”, tiếng mẹ và anh hai: “Coi chừng té! coi chừng té”,
và tiễng vỗ tay của ba người.
***********
Một buổi sáng, tôi đã thức dậy nhưng còn nằm nuớng trên giường với
mẹ. Hôm đó biển động nên không có cá bán, mẹ ở nhà. Mẹ tôi ôm tôi: “Còn
gần một tháng nữa, ba con về phép mua xe cho con, con lớn rồi, bốn tuổi
đâu còn nhỏ nữa mà hở đâu khóc đó” Tôi mắc cở, dụi đầu vào lòng mẹ thì
nghe có tiếng đập cửa rất mạnh. Tiếng bác Hội hỏi lớn: “Thiếm Tiếng có
nhà không? thiếm Tiếng có ở nhà không? “Mẹ tôi vùng ngồi dậy, trả lời:
– Dạ, có tôi ở nhà, hôm nay biển động nên không có cá. Có chuyện gì không anh?
Mẹ tôi mở cửa. Tôi nghe tiếng bác Hội:
– Tụi Việt-cọng đã tấn công vào Quảng-trị. Kỳ nầy nghe đâu bọn nó tấn
công khắp nơi. Đơn vị của chồng thiếm bị tan hàng, một số bị bắt, một
số bỏ chạy, một số bị thương trước đó, được đưa vào bịnh-viện Huế. Chú
Tiếng, chồng thiếm nghe nói bị thương, đang nằm ở bịnh-viện Huế.Tin nầy
do thằng Báu vừa chạy về cho biết. Hai đứa nó cùng đơn-vị.
Mẹ tôi khóc. Tôi thấy mẹ tôi như tàu chuối héo, rũ người trên ghế.Tôi
và anh hai tôi sợ sệt, vội chạy đến bên mẹ trố mắt nhìn mẹ, không biết
nói gì. Nghe tiếng ồn ào, hàng xóm chạy qua, mỗi người một tiếng khuyên
mẹ tôi bình-tĩnh nhưng mẹ tôi vẫn khóc.
Hai ngày sau mẹ tôi đi Huế để tìm ba. Hai anh em tôi được mẹ nhờ bác
Hội trông nom săn sóc. Mẹ tôi mua một bao gạo và kho sẵn mấy nồi cá dành
cho hai anh em tôi ăn dần khi bà đi Huế.
Bác Hội là bạn cùng xóm với ba tôi. Nhà hai gia-đình sát vách nhau.
Hai người chơi với nhau khi cả hai còn chưa biết hổ thẹn khi chỉ mặc áo.
Bác hơn ba tôi năm tuổi. Ba tôi rất thương bác Hội vì ba là con duy
nhất của ông bà nội. Bác cũng thương ba tôi như em. Sau nầy tôi được
biết bác đã muốn gã em gái cho ba tôi, nhưng tôi chuyện hôn nhân không
thành. Bác Hội thi tú tài không đậu nên bác tình nguyện xin đi học
Trung-sĩ để khỏi bị bắt làm lính khi đến tuổi thi hành quân-dịch. Bác
phục-vụ tại sư-đoàn 2 bộ-binh đóng tại Quảng- ngãi. Năm 1972, bác bị
thương, mất một chân và được giải ngũ. Ngày bác cưới vợ, ba tôi dự tiệc,
uống rượu rồi gây gỗ ồn ào với một ông khách tham dự lễ cưới. Cảnh-sát
quốc-gia can thiệp, bắt và chuyển ba qua Quân-cảnh tư pháp vì tội trốn
quân dịch. Ra tóa án quân-sự, ba tôi bị xử đi quân dịch. Ba tôi được đưa
đi huấn-luyện tại Trung tâm huấn luyện Hòa-cầm ở quận Hiếu-Đức,Tỉnh
Quảng- nam. Lúc đó ba tôi đã có vợ và anh Hai tôi độ chừng bảy tuổi. Ba
tôi đóng quân tại tỉnh Quảng-trị và hai lần được thưởng Anh-dũng bội
tinh tại mặt-trận. Bác Hội thường nói với anh Hai tôi:”Ba mầy hiền lành
như con gái nhưng ra ngoài mặt trận với địch quân, ba mầy gan dạ, không
biết sợ chết là gì, được gắn huy chương, được thăng cấp ngoài mặt trận,
còn bác chẳng được gì ráo, lúc nào cũng chỉ mang lon trung-sĩ quèn”.
Mẹ tôi đi Huế tìm thăm ba đã hơn hai tuần mà chưa thấy về. Ba nồi cá
kho ăn đã gần hết. Hai anh em tôi ngày nào cũng khóc vì nhớ mẹ. Buổi tối
bác Hội thường qua nhà ngồi chơi, an ủi hai anh em tôi đến khuya với về
lại nhà bác. Và từ đó hai anh em tôi không còn gặp lại ba và mẹ.
********
Một hôm, trong xóm bỗng nhiên tiếng chó sủa vang, tiếng người gọi
nhau inh-ỏi, tiếng súng nổ, lính tráng từ đâu đổ về đầy xóm, đầy bãi
biển. Xe cộ nối đuôi nhau nằm ụ hai bên vệ đường. Người dân đủ cỡ, đàn
bà con nít, ông già bà cả dìu dắt nhau đi, vừa hớt hãi chạy, vừa khóc,
tất cả dều theo huớng ra bờ biển.Trong xóm tôi, vài gia đình cũng bồng
bế nhau chạy ra bãi biển. Vài người gọi với vào nhà tôi: “Chạy đi,
cọng-sản sắp vào tới rồi!”. Hai anh em tôi đứng trong nhà nhìn đoàn
người lũ lượt đi..và nhớ đến ba mẹ, chỉ biết khóc.Tôi nghe tiếng bác Hội
nói với những người cùng xóm rũ bác đi lánh nạn: “Tôi chỉ còn có một
chân mà chạy đi đâu? ” Tối hôm đó bác qua nhà tôi bảo anh Hai tôi hạ cây
cờ vàng ba sọc đỏ xuống. Bác nói:
– Thằng Tấn anh, mày leo lên đem lá cờ xuống dấu kỹ một chỗ, sau nầy
dùng lại; nếu không, lũ khốn-nạn đó vào mà thấy được, chúng sẽ không để
yên cho sống đâu.
Anh hai tôi đem lá cờ xuống xếp nhỏ lại, rồi thoăn thoắt leo lên cột
nhà để vào chỗ nứt của đầu kèo nhà, nơi mà anh tôi hay giấu những đồ
chơi quý mà anh không muốn cho tôi phá vì sợ bị làm hư.
Rồi một ngày, đồng loạt tất cả nhà nhà trong xóm đều treo cờ đỏ sao
vàng. Anh em tôi được phát mỗi đứa một khăn quàng đỏ và ngày nào cũng
đi sinh hoạt thiếu nhi, có ngày mệt quá hai đứa tôi không ăn uống gì
hết, tối về đến nhà là lăn ra ngũ, quên cả khóc nhớ ba mẹ.
Ông thợ may đầu xóm thành ông tổ trưởng dân phố. Mấy con ông, cả
trai và gái đứa nào cũng có súng, đi lục soát từng nhà tìm bắt những
người đã làm việc cho “ngụy”. Tôi nghe bác Hội gọi lén lũ nầy là bọn “ôn
dịch”, “ăn cơm quốc gia thờ ma cọng-sản”. Cá kho hết, anh em tôi ăn cơm
với nước mắm. Hết nước mắm, anh em tôi ăn cơm với muối. Đến khi hết gạo
thì bác Hội cho tụi tôi ăn cơm độn khoai mì. Nhà bác Hội nghèo, có bác
gái và hai đứa con nên phần cơm chia sẽ cho anh em tôi không đủ no bụng.
Bác Hội giúp anh Hai tôi bán cái Radio, rồỉ đến chiếc xe đạp…rồi đến
một ngày trong nhà không còn gì để bán. Nhà bác Hội cũng không còn gì để
bán. Bắt chước mấy người trong xóm, hai anh em tôi đi khắp nơi lượm bao
nylon đem ra biển rửa sạch, phơi khô ,vài ba ngày gom lại đem bán lấy
tiền mua gạo.Những lúc phơi bao nylon trên bãi biển,tôi phải ngồi canh
chừng,nếu không kẻ khác lấy mất. Có lúc canh chừng mà tôi ngũ quên, kẻ
gian lấy hết. Anh Hai tôi không nói gì, nhưng nhìn thấy mặt anh buồn
thiu.
********
Bác Hội gái không còn đuợc cho đi dạy học. Bác chuyển sang mua cá
ngoài bến ghe chài đem bán dạo trong xóm. Nhớ trước đây mẹ tôi bán cá
trong chợ, tôi hỏi tại sao bác không bán trong chợ như mẹ tôi trước đây?
Bác nói “Bác không vào hợp tác xã nên không bán ngoài chợ đươc.” Bác
phải mua cá của những ghe chài bán lậu trước khi cập bến. Để tránh sự
dành giật nhau khi mua cá lậu, bác rủ anh tôi cùng phụ bác đi mua bán
cá. Khi ghe bán lậu cá còn xa bờ, anh hai tôi bơi ra ghe mua cá rồi đem
vào. Cá được cho vào một sô nhựa, bác Hội gái và anh tôi thay nhau xách
đi bán khắp nơi trong phường, khóm, có khi đi qua trung tâm thành phố.
Công việc kéo dài được vài tháng thì bị công an phường cấm. Anh em tôi
không còn gì để ăn, tôi hay đói nên lúc nào cũng đòi ăn. Hàng xóm thương
tình, người cho củ khoai, người cho củ sắn nhưng không làm sao hết đói.
Rồi một buổi sáng sớm, anh hai tôi dắt tôi đến bịnh-viện, anh tôi bảo
tôi ngồi chờ anh trước cổng, anh đi vào bên trong.Tôi ngồi chờ lâu quá
nên tựa lưng vào tường ngủ gật. Khi anh đánh thức tôi dậy thì mặt trời
đã chiếu ngay trên đầu. Anh kéo tôi đi nhanh khỏi bịnh viên, anh nói:
“Tấn em chắc đói nhiều lắm rồi phải không?”.
Tôi chưa kịp trả lời anh rằg “từ hôm qua đến giờ em có gì để ăn đâu!
” thì anh nói tiếp: “Anh cũng đói lắm, hai ngày ni anh cũng chẳng có gì
để ăn hết….bây giờ anh em mình tìm gì để ăn.” Anh đi vào con hẻm bên
kia đường.Tự nhiên tôi đứng lại không chịu đi theo anh. Kéo mạnh tay
tôi, anh nói: “Vào đây anh em mình ăn bún.” Tôi lắc đầu: “Mình không có
tiền mà!”. Anh khựng lại nhìn tôi, hai mắt anh sáng lên, giọng anh như
reo vui: “Hôm nay anh có tiền!” Anh cho tay vào túi rút ra mấy tờ giấy
bạc cho tôi thấy, lúc đó tôi mới chịu đi theo anh. Gánh bún bên lề đường
đông người, hai anh em phải chờ khá lâu. Bụng tôi cứ vang lên tiêng
rột…rột..nước miếng cứ chảy ra. Hôm đó anh mua ba tô bún, mỗi người một
tô, tô thứ ba được chia làm hai, nhưng anh dồn hết phần thịt cho tôi,
anh chỉ lấy phần bún.
Ăn xong tôi theo anh vào chợ mua gạo khoai mì và nước mắm. Ngày hôm
sau anh thức dậy sóm, nấu cơm ghế khoai mì. Hai anh em ăn cơm ghế khoai
với nước mắm.
Bắt đầu một ngày mới. Hai anh em tiếp tục đi nhặt bao nylon.
Hai tuần sau, anh lại đưa tôi đến trước bịnh-viện, tôi đúng chờ trước
cổng, anh đi vào trong và khi anh trở ra anh lại đưa tôi đi ăn bún. Anh
cũng mua ba tô, mỗi người một tô, tô thứ ba chia hai, anh chia hết phần
thịt cho tôi.Từ hôm đó tôi cứ trông đến ngày anh hai tôi dẫn tôi đến
trước bịnh-viện, tôi sẽ đứng bên ngoài chờ, anh đi vào bên trong, lúc
trở ra anh lại đưa tôi đi ăn bún.
Lần thứ ba, anh hai tôi dẫn tôi đến bịnh-viện, tôi cũng đứng trước
cổng chờ. Lần này tôi nhìn thấy bác Hội từ bên trong bịnh-viện đi ra,
cùng lúc ấy bác cũng nhìn thấy tôi, bác hỏi: “Tấn em làm gì đứng
đó?”.Tôi trả lời: ” Con đợi anh hai con, anh ấy vào trong đó” tôi vừa
nói, vừa chỉ tay vào bịnh viện. Bác nói: “Anh hai con vào trong đó làm
gì vậy kìa? Nó có nói với con không?”.Tôi lắc đầu. Bác đứng lại với
tôi, lấy thuốc ra hút….Anh hai tôi từ trong bịnh-viện đi ra. Bỗng nhiên
anh đứng khựng lai, vẻ mặt sợ hãi, có lẽ vì nhìn thấy bác Hội? Cùng lúc
ấy, bác Hội hỏi:
“- Con vô đây làm chi rứa?”
Anh hai tôi không trả lời, mặt nhìn xuống đất, tôi nhìn thấy trong
mắt anh chớp chớp, như có những giọt nước. Bác Hội sẵng giọng:”Con vào
đó bán máu phải không?”. Anh tôi không trả lời, hai vai anh run nhẹ,
những tờ giấy bạc rơi lả tả xuống đất. Bác Hội lê bước tới nắm tay anh
kéo đi.Tôi lượm lại mấy tờ giấy bạc chạy theo. Đến một khoảng vắng, bác
vứt cây nạng gỗ xuống đất, bác kéo anh tôi vào lòng, bác khóc, anh hai
tôi khóc và tôi cũng khóc.
Về đến nhà, bác hỏi anh hai tôi ai chỉ vẽ cho anh đi bán máu, anh
nói:”Trong xóm mình nhiều người đi bán máu lắm, họ rũ con đi”. Bác thở
dài, lẩm bẩm: “Khốn nạn cho cái xã-hội mới nầy”!
*******
Một hôm trời mưa, hai anh em tôi không đi lượm bao nylon. Tôi qua
chơi với hai đứa con của bác Hội. Buổi trưa về, vừa mở cửa vào phòng,
tôi thấy tên công an Được đang ở trong nhà. Nó vứt mấy đồng bạc trên
giường và nói: “Giữ lấy mà mua gạo ăn!”. Tôi nhìn anh tôi dò hỏi nhưng
anh im lặng.
Từ đó, anh tôi không còn vui cười, mặt lầm lì, hay tránh mặt tôi. Vài
ngày sau, bác Hội đưa anh vào bịnh-viện vì anh bị đi cầu ra máu. Về
nhà, bác lẩm bẩm suốt ngày: “Tên khốn khiếp! có súng, tau bắn nát đầu
mầy”.
Bác Hội xin được cho anh hai tôi công việc gỡ lưới bắt cá trên một ghe chài của một người bà con bên vợ.
Hàng ngày tôi đi lượm bao nylon một mình. Buổi tối tôi ngủ một mình.
Anh hai tôi theo ghe chài hai ngày mới về bến một lần. Tôi ăn uống bên
nhà bác Lộc.
Một đêm, tôi đang ngủ, có cảm giác như có ai ôm mình vào lòng. Tôi
nghĩ chắc anh hai tôi đã đi biển về, tôi quay người lại nhưng cái cảm
giác chạm vào da thịt của anh hai tôi không giống như thuờng ngày, tôi
mở mắt, qua ánh sáng đèn từ ngoài đường chiếu vào, tên Được đang nằm bên
tôi. Tôi hoảng sợ, dùng hết sức mạnh hai chân đạp vào bụng tên Được rồi
nhảy xuống guờng chạy ra khỏi nhà. Tiếng tên Được gọi theo:” Đừng chạy,
tau bắt đưa về công an phường bây giờ”. Nhưng tôi vẫn chạy, chạy qua
bao nhiêu con hẽm trong xóm, chạy ra huớng biển và thẳng đến bến ghe
chài.
Tôi ngồi tựa lưng vào cái thúng chài trên bờ. Trước mặt tôi một màu
đen mênh-mông, tiếng gió hòa cùng tiếng sóng biển tạo ra một âm thanh kỳ
bí làm tôi sợ hãi. Tôi ngồi chờ anh hai tôi trở về bến. Tôi không dám
quay trở về nhà, tôi phải trốn tên công-an Được.
Bỗng có tiếng chân người đi ven mé biển trước mặt tôi, càng lúc càng
nhiều.Tiếng thì thầm thúc dục mà mang âm điệu sợ hãi. Tiếng trẻ con
khóc, tiếng “xuỵt xuỵt ” bảo im lặng. Tiếng gọi tên nhau thì thầm. Tôi
nghe tiếng máy nổ của một chiếc ghe từ xa càng lúc càng gần. Ở quanh
tôi, đám đông đã đi lên hết trên cầu tàu.
Chiếc ghe đã cập cầu bến cá. Mọi người lần lượt lên ghe…Tôi nghe tiếng một người đàn ông hỏi:
– Bà con lên hết chưa? Đếm xem đủ người của mình chưa? Nhanh lên! để
ghe rời bến, nhanh lên! nhanh lên! công an nó đuổi tới nơi bây giờ!” Tôi
bủn rũn khi nghe mấy tiếng “công-an đuổi đến bây giờ”, tôi nhớ đến lời
của tên Được: “Tau bắt đưa về công-an phường bây giờ! “Sợ hãi, tôi leo
nhanh lên cầu tàu. Một người chạy đến túm lấy tôi ném lên ghe: “Còn một
đứa nhỏ, con ai đây? ..xong rồi! mở máy cho ghe chạy đi, trời bắt đầu
sáng rồi.”
Trong ghe tối đen, tôi không nhìn thấy ai là ai. Một người lay tôi
dậy. Trời đã sáng. Mọi người ngồi ép vào nhau.Vài người lao nhao hỏi tôi:
“Cháu là con ai vậy? Tên là gì? Đi với ai?. Tôi chỉ khóc, không biết trả
lời như thế nào. Một bà dang tay ra ôm và an ủi tôi. Tôi nói với bà:
“Con chờ anh con đi theo ghe đánh cá trở về..rồi một người nào đó ném
con lên ghe này khi ghe bắt đầu chạy”.
Buổi chiều hôm đó, mọi người được chủ ghe cho phép lần lượt ra khỏi
lòng ghe để thở chút gió mát. Quanh tôi, biển mông mênh không thấy đâu
là bờ.Tôi nhớ đến anh hai tôi, nhớ ba mẹ tôi, nhớ gia đình bác Hội, nhớ
mọi người trong xóm.
Tôi nghe hai người đàn ông nói chuyện với nhau:
– Chuyến này như vậy là thành công, hai lần truớc bị bắt khi ghe vừa
rời bến, nhưng lần nầy thì mình thoát, ghe đang chạy vào hải phận quốc
tế rồi. ..”
Hai ngày sau ghe bị đột ngột chết máy, phải thả bồng bềnh trên biển.
Trong lúc nguy khổn, may sao ghe được một tàu hàng Do-Thái đi ngang cứu,
và chúng tôi được đưa đến trại tỵ nạn cọng-sản ở đảo Galang của nước
Nam-dương.
*********
Tôi được một gia-đình người Pháp gốc Do-Thái nhận làm con nuôi, định-cư tại Tel-Aviv sau mấy tháng sống tại tỵ-nạn Galang.
Hôm xuống tàu để sang Singapour, những người tỵ-nạn còn đang bị tạm
lưu lại đảo, tụ tập ngoài cầu tàu để tiễn những người được định cư, đi
đến các nước đã nhận cưu mang họ. Con tàu xa dần bến, người đưa tiễn
khuất dần trong tầm nhìn. Nỗi cô-đơn ngập trong tôi, tôi cảm nhận kể từ
phút đó, tôi mất tất cả những gì gọi là hình bóng Viêt-Nam.Tôi gục đầu
vào thành tàu, nghe những thổn thức tràn ngập trong lòng. Tôi khóc.
*******
Ba mẹ nuôi nguời Do-Thái của tôi không có con. Họ đã có hai người con
nuôi trước khi nhận tôi. Ba nuôi tôi có một nông trại trồng cam còn mẹ
nuôi tôi là một giáo sư ngôn ngữ học. Hai người anh của tôi là một người
da màu, gốc Madagascar còn nguời anh kia gốc Ai-cập.Trong ba người, tôi
nhỏ tuổi nhất, kém người anh cả tám tuổi, kém người thứ hai năm tuổi.
Chúng tôi được nuôi ăn học đàng-hoàng, sống rất hòa thuận và đều theo
Do-Thái giáo. Bà mẹ nuôi tôi hay than với tôi: “Đất nước của con sao mà
nhiều thống khổ quá! chỉ tội cho người dân. Con cố học hành và đừng
quên tiếng Việt, sẽ cần cho con sau nầy khi con muốn tìm về cội nguồn.”
Khi tôi lên trung học, mẹ nuôi tôi bắt đầu dạy tôi học tiếng Việt.
Trong những giờ dạy tiếng Việt, bà yêu cầu tôi kể những gì liên quan đến
gia đình tôi mà tôi còn nhớ được.Tôi kể bằng tiếng Việt gia đình và về
hoàn cảnh của tôi. Mẹ tôi đã ghi lại trên giấy và vào buổi cơm tối ngày
hôm sau bà đọc lại cho mọi người trong gia-đình cùng nghe bằng tiếng
Do-Thái. Sự việc nầy kéo dài hàng năm cho đến lúc tôi không còn nhớ gì
thêm để kể lại. Sau này những lúc chỉ có hai người, mẹ nuôi tôi thường
nói tiêng Việt với tôi. Bà bảo đã hai lần đi Việt-nam, tim đến những nơi
mà tôi đã kể cho bà nghe để tim tin tức gia-đình tôi nhưng vô hiệu. Có
lẽ tri nhớ và số tuổi nhỏ của tôi đã không kể lại đủ chuyện gia-đình
cũng như nơi chốn gia-đình tôi sinh sống trước đây cho bà nghe.
Sau khi tốt nghiệp đại-học, tôi được học bổng của trường đại học
Sorbonne Pháp để học tiếng Pháp tại Paris. Một hôm đang ăn trưa tại một
tiêm phở thuộc khu phố người Việt quận 13, một bác phục vụ nhà hàng lại
bàn nói chuyện với tôi. Bác hỏi thăm và cho biết bác cũng là người gốc
quận ba Đà-nẵng trước đây. Bác và gia-đình vượt biển sau khi thành-phố
Đà-nẵng bị mất vào tay Cộng-sản. Bác khoe có trở về Đà-nẵng vài lần, nên
bác cho biết các sự đổi thay và chỉ dẫn tôi cách tìm đường về nơi tôi
đã đuợc sinh ra và lớn lên. Bác khuyên tôi nên về Đà-nẵng một chuyến để
tìm lại gốc gác gia đình.
********
Tôi đi dạy dược hai năm thì cưới vợ và rồi có hai con, một trai một
gái. Khi đứa con trai đầu của tôi được tròn bốn tuổi, tôi mua cho nó một
chiếc xe đạp nhân ngày sinh-nhật của nỏ. Khi đem chiếc xe về nhà, kỷ
niệm của ngày xa xôi ở quê nhà trở về …tôi nằm trên võng nghe mẹ tôi đọc
lá thơ của ba tôi viết từ chiến trường…ba hứa khi về nhà sẽ mua cho tôi
chiếc xe đạp mừng sinh-nhật …nhưng rồi mơ uớc đó không bao giờ đến.
Nhìn con trai tập đạp xe, tôi ứa nước mắt, bùi ngùi nhớ lại tuổi thơ của
mình, tội nghiệp cho thằng bé là mình hai chục năm trước. Tôi tự hỏi
nếu ngày đó tôi có được chiếc xe, không biết tôi có những cử chỉ vụng
về, loạng quạng khi tập đạp xe như con tôi bây giờ?
Tôi hay nói với vợ tôi,”Cho đến tuổi nầy, anh chưa bao giờ bước lên
yên xe đạp”. Vợ tôi an ủi: “Anh lại trở về với quá khứ rồi, hãy quên
đi!”
Tôi chỉ biết thở dài…Làm sao mà quên được!
********
Mùa hè năm 2010, mẹ nuôi tôi khuyên tôi nên trở về Đà nẵng tìm thăm
tin-tức gia-đình. Nếu tôi tìm được, bà định sẽ đem hết đại gia đình cùng
đi với tôi trong một chuyến đi sau.
Tôi về đến Đà-nẵng. Theo lời hướng dẫn của cô tiếp-viên khách-sạn và
những chi tiết bác đồng-hương tại một nhà hàng bên Pháp cho biết năm
nào, tôi tìm đuờng ra bờ sông Hàn rồi tìm phà qua sông. Bến phà này mấy
mươi năm trước anh hai đâ đưa tôi qua lại mấy lần để đến bịnh-viện bán
máu lấy tiền mua gạo. Mọi vật đã đổi thay, phà đã ngừng đưa khách, chiếc
cầu mới đã được bắt ngang hai bờ sông. Bác xe ôm lớn tuổi chở tôi chạy
vòng qua bao nhiêu khu phố mà ở cái tuổi tôi thời ấy chưa có, bây giờ
các khu phố đã mọc lên che lấp những bờ dương và bãi cát cùng sóng
biển.Tôi ra đi ở cái tuổi lên năm, chưa có ý-niêm gì về tên làng, tên
xóm, tên phường, tên con đường hẻm chạy qua trước nhà….nên bao nhiêu năm
qua tôi không thể nào liên lạc đuợc về nhà cũ, quê hương dường như đă
chết trong tôi.Tôi nhờ bác lái xe ôm hỏi thăm và đưa tôi đến nơi có bến
ghe cá mấy mươi năm trước. Tôi hy vọng từ đó tôi sẽ tìm ra nhà cũ của ba
mẹ tôi. Bác lái xe ôm đã đưa tôi đến bến ghe cá cũ, nhưng nay chỉ còn
cái tên của ngày trước vì bến đã dời đi nơi khác, thay vào đó là một
khách-sạn đã được xây lên cùng những ngôi nhà cao tầng.Tôi hỏi thăm nhà
ba mẹ tôi, hỏi thăm nhà bác Hội, hỏi thăm tên anh hai tôi, mọi người đều
lắc đầu, trả lời với một giọng nói có âm sắc cao và sắc mà tôi chưa hề
được nghe khi còn thuở thơ ấu.
Lòng nặng chĩu và thấy lạc-lõng, tôi rưng rưng muốn khóc. Cả buổi
trưa tôi lang-thang, từ khu nầy qua khu khác, áo đẫm mồ hôi, tôi đứng
tựa vào một tường nhà có bóng mát tránh nắng.Tôi đã định quay trở về
khách sạn nghỉ và sẽ tiếp tục trở lại khu nầy ngày hôm sau. Bỗng tôi
nghe có tiếng ve sầu vang lên đâu đây nghe thật buồn não. Ngày xưa trong
xóm chỉ có nhà tôi có cây phượng vĩ. Mùa hè hoa nở đỏ rực, lũ ve sầu từ
đâu đến buông tiêng kêu râm ran và rầu rĩ, như ru tôi ngủ trong những
buổi trưa hè nóng bức. Khi có cơn gió mạnh, những cánh phượng rơi lả tả
xuống sân nhà, mẹ tôi cầm chỗi quét. Một lần tôi nghe mẹ tôi phàn nàn
với ba tôi: “Anh ơi, hãy đốn cây phượng làm củi cho rồi. Ngày nào cũng
quét hoa và lá rụng, mệt quá”. Ba tôi cười trả lời: “Cây phượng nầy do
ông nội trồng để tưởng nhớ bà nội sau khi bà nội chết, bà nội mấy đứa
nhỏ tên Phượng, mình không đốn cây được đâu.” Tôi lần đi về hướng có
tiếng ve rên-rĩ..màu đỏ của hoa phượng chan hòa trước mắt tôi: một cây
phượng to lớn im lìm dưới nắng chói chang…Tôi dừng chân bên cây phượng
được trồng ngay bên cổng vào một căn nhà…
Tôi nhìn kỹ, hình ảnh ngôi nhà
xa xưa của tôi hiện ra rõ ràng trong trí nhớ. Tôi đã tim ra được nhà
tôi. Hàng hiên không có gì đổi thay, tất cả còn nguyên như cũ.Tôi lặng
nguời vì vui mừng. Lòng hồi hộp nhưng cố giữ bình -tĩnh, một lát sau,
tôi gọi vọng vào bên trong:
– Có ai trong nhà không, cho tôi hỏi thăm? ” Tôi gọi đến lần thứ ba
thì cánh cửa nhà hé mở, một đứa bé trai bước ra nhìn tôi rồi vội quay
vào đóng cửa lại.Tôi kiên nhẫn chờ. Cánh cửa lại mở, một người đàn ông
râu tóc bạc phơ chống nạng bước ra. Tôi nhận ra ngay bác Hội ngày xưa
của tôi. Bác già quá nhiều. Bác chống cây nạng gỗ mà người cứ run run.
Bác lấy tay che trán nhìn tôi. Tôi bồi-hồi, xúc-động nói lớn:
– Bác Hội còn nhớ con không? Con là Tấn em đây. Bác đi khập khiễng ra cổng, giọng lắp bắp:
– Tấn em hả? con còn sống hả? Trời ơi! con còn sống hả?.. Vào đi, vào đi con.
Hai bác cháu loạng choạng ôm nhau, cả hai cùng khóc, khóc vì mừng gặp
lại nhau và khóc cho thân phận của mỗi người và thân phận của nhau. Tôi
theo bác vào nhà, đưa mắt nhìn quanh, vội hỏi bác:
– Ba mẹ cháu đâu? anh hai cháu đâu bác?” Bác khựng lại rồi nói:
– Chuyện còn dài, rồi bác sẽ kể lại cho con nghe. Con ngồi nghỉ cho khỏe đã!
*********
Và bác kể:
“Ngày mẹ con đi Huế tìm thăm ba con bị thương ở Quảng-tri và được đưa
vào điều trị tại bịnh-viện Huể đến nay, bác chỉ nghe bạn đồng đội của
ba con kể lại. Khi mẹ con ra đến bịnh viện thì ba con đã bị chính quyền
mới của Cọng-sản đuổi ra khỏi bịnh viên cùng với các đồng đội khác cũng
bị thương. Những người thương-binh và các nguời nuôi bệnh cùng cảnh này
tụ-tập sống dưới chân cầu Tràng-tiền, nhờ vào sự giúp đỡ của dân chúng.
Sau đó họ dìu dắt nhau theo quốc lộ 1 trở về Đà-nẵng, ngày xin ăn, tối
ngủ bờ ngủ bụi. Khi đến Cầu-Hai thì ba con kiệt sức vì vết thương làm
độc nên chết tại đây. Sau khi được dân Cầu-Hai giúp chôn cất ba con xong
thì ngày hôm sau mẹ con, lúc đó cũng đau yếu, thất thểu đi một mình
trên đuờng vào Đà Nẵng. Rồi từ ngày ấy đến nay, không ai biết tăm tích
của mẹ con ở đâu nữa. Chắc là chết ở đâu rồi, vì nếu còn sống mẹ con thế
nào cũng tìm về nhà ở Đà nẵng với hai anh em con.”
Tôi gục đầu xuống bàn, thổn thức. Giọng bác đều đều:
” Khi con mất tích, anh hai con, gia-đình bác cùng bà con lối xóm
ngày đêm tìm kiếm hoài không ra. Anh hai con buồn lắm, sống như một cái
bóng thui thủi trong căn nhà này – bác nhìn quanh nơi bác và tôi đang
ngồi. Ba năm sau, anh hai con đến tuổi “thi hành nghiã vụ quân sự” thì
bị đưa qua chiến trường Campuchia. Chỉ sáu tháng sau, địa phương báo cho
bác biết anh hai con đã tử thương. Người ta hứa sẽ đưa xác về, nhưng đó
chỉ là lời hứa suông thôi, không bao giờ có xác về. Bác đã lấy một mảnh
đất sau vườn nhà con xây một ngôi mộ nhỏ, lập bia chung cho cả ba
người, ba mẹ con và thằng Tấn anh của con. Hằng ngày bác thắp nhang cho
linh hồn ba mẹ con và anh hai con khỏi lạnh lẽo. Còn riêng phần con,
bác nghĩ là con không chết, có lẽ con đã đi lạc đến một nơi nào đó, có
người đem về nuôi, một mai khôn lớn con sẽ tim ra gốc gác gia đình để
trở về.. Anh hai con cũng có ý nghĩ như bác nên trươc ngày bị đưa đi
Campuchia, anh con đã giao hết giấy tờ nhà đất cho bác giữ hộ và
dặn:”Nếu con có mệnh hệ nào thì xin bác giao lại cho thằng Tấn em con.”
Bác giữ đã lâu mà vẫn không có tin tức gì của con, bác sợ chính quyền sẽ
tịch thu căn nhà nên bác đã xoay sở sang tên ngôi nhà cho bác, nhờ vậy,
cái nhà vẫn còn. Nay con trở về, bác sẽ giao nhà lại cho con.
Tôi theo bác ra sau vườn, ngôi mộ nằm bên một góc vườn. Mộ bằng
xi-măng, sạch sẽ. Tôi đọc tên ba, mẹ và anh hai tôi ghi trên mộ bia. Tôi
quỵ người xuống, gục đầu vào thành bia, nước mắt trào ra. Lòng tê tái,
tôi đau đớn nghĩ đến cha mẹ, đến anh hai tôi và tự xót thuơng cho thân
phận mình mồ côi, cô độc, tìm ra gốc gác gia đình chỉ để nhận thêm một
sự thực rằng truớc sau gì tôi vẫn không còn cha mẹ, anh em, không có ai
là người ruột thịt…đến lúc bác Hội nắm tay kéo tôi đứng lên, đèn trong
nhà bác đã thắp sáng.
Ngày hôm sau, tôi vẫn giữ căn phòng ở khách-sạn nhưng về sống với
gia-đình bác Hội. Một hôm bác đưa tôi dạo quanh xóm cũ, phần lớn dân cư
tù nơi khác đến.Tình cờ ngang qua một tiệm sửa xe, tôi gặp Hiền, người
bạn cùng học lớp mẫu giáo với tôi ngày xưa. Hai đứa nhận ra nhau. Cả hai
bồi hồi, xúc-động. Bằng tuổi tôi nhưng Hiền mang dáng dấp của một ông
lão. Ba của Hiền, ngày xưa là Trung-úy của quân lực Việt Nam Cọng-hòa.
bị chính-quyền mới bắt đi tù cải-tạo ở Trung–phước rồi chết tại đó.Vì có
lý-lịch con của “ngụy” nên Hiền không tìm đươc công ăn việc làm, nên
đành lấy hiên nhà làm tiệm sửa xe từ mấy chục năm nay. Con cái học hành
không tới đâu, nhà quá nghèo.Vợ cũng phải phụ chồng sửa xe. Bất chợt cơn
mưa rào chợt đến. Hiền vội vã tìm thau và chậu đề hứng nhưng cả tiệm
sửa xe vẫn tràn đầy nước từ trên mái đổ xuống. Hiền nói: “Cái nhà đă
‘rệu’ từ chục năm nay, không tiền để sửa, bây giờ lo cái ăn cho gia-đình
khỏi đói là đủ mệt rồi”. Tôi nghe mà lòng bỗng dưng cồn-cào như bị cái
đói ngày xưa hành hạ, cái đói mà anh Hai tôi phải bán máu, chất dinh
dưỡng cơ thể để đổi lấy cái ăn mà sự dinh-dưỡng cơ thể đang cần…một cái
vòng lẩn quẩn khốn-nạn của nhu cầu sinh tồn.
Buổi chiều truớc ngày từ giả gia-đình bác Hội để về lại Do-Thái, bác
cùng tôi ngồi tâm-sự trong phòng khách. Bác kể lại tình bạn giữa bác và
ba tôi, kể đến đâu, bác thở dài đến đó, bác ngậm ngùi nhớ đến kỷ niệm
của một thời đă qua.Tôi tựa đầu vào thành ghế, tai chăm chú nghe nhưng
mắt lơ đãng nhìn lên trần nhà. Tôi hướng mắt về phía cái kèo nhà có cái
khe nứt, sực nhớ lại chuyện ngày trước bác Hội đã thúc hối anh hai tôi
tháo cờ ba sọc đỏ dấu đi….anh hai tôi đã leo cột nhà đem dấu vào chỗ khe
nứt đó…bỗng nhiên tôi đứng lên đi vòng vòng trong phòng khách, mắt cứ
nhìn chăm chăm vào khe nứt trên kèo nhà. Có lẽ bác Hội ngạc nhiên nên
hỏi tôi:
– Con tìm cái chi rứa? Tôi trả lời:
– Bác còn nhớ,ngày xưa khi cọng sản vào thành phố, bác thúc anh hai
con đem cây cờ ba sọc đỏ giấu đi và anh Hai con đã đem lá cờ giấu vào
cái lỗ đó”, tôi vừa nói vừa chỉ tay lên lỗ nứt trên kèo nhà. Bác Hội “ờ”
lên một tiếng rồi nói “thằng ni nhớ dai ghê, như vậy thì nó còn ở đó;
từ đó cho tới ni, chỗ đó không ai động đến, mà lâu quá không biết lá cờ
có mục có nát không?”
Nói xong bác tiến đến cửa lớn nhìn ra ngoài và nói với vẻ thận trọng:
– Sắp nhỏ chạy chơi đâu hết rồi, con muốn xem cái đó thì leo lên xem thử.
Nói xong bác khép cửa lại, gài chốt ngang.Tôi đã định xin phép bác
leo lên xem thử lá cờ còn đó không, thì nghe bác khuyến khích làm tôi
vừa sung-sướng vừa hồi hộp. Tôi đang loay hoay tìm cách leo lên cây cột
(nhà xây theo kiểu xưa, có nhiều cột) thì bác đẩy cái bàn đèn sát cây
cột nhà rồi để thêm cái ghế lên trên bàn, bác nói:
– Làm như thế ni leo dễ hơn!
Tôi thận trọng bước lên bàn, bước lên ghế, dùng hai tay đu lên sà
nhà. Tôi chợt nhớ đến anh hai tôi, hồi đó anh leo lên cột sao dễ dàng và
nhanh nhẹn như sóc vậy.
Tôi thọc tay vào khe hở bên kèo nhà, tay chạm vào một vật mèm mềm,
kéo ra, một cuộn vải màu vàng đã phai màu..Tôi nói với bác Hội:
– Nó còn đây bác ơi!. Tôi ném cuộn vải màu vàng xuống cho bác. Bác
nhặt cuộn vải lên, mở ra, tay giũ giũ mấy lần, lá cờ ba sọc đỏ hiện ra
trước mắt tôi…tôi nghe bác nói:
– Còn nguyên si, chỉ bạc màu chút thôi. Tôi tuột xuống đứng bên bác.
Bác trùm lá cờ lên đầu bác. Tôi nghe bác hít…mấy cái rồi bác lặng yên,
chừng một phút sau bác lấy lá cờ ra khỏi đầu. Tôi nhìn thấy hai mắt bác
đỏ và long lanh nước. Bác trao lá cờ cho tôi giữ và mở cửa đi ra ngoài
rồi quay lại với một lọ thủy tinh trên tay, bác nói với tôi:
– Con cuộn lá cờ lại bỏ vài cái lọ ni, đem ra chôn bên mộ của ba con,
ba con chết không có ai phủ cờ, mình nay đem chôn cạnh ba con như rứa
ba con cũng ấm lòng.
Tôi cuộn lá cờ cho vào lọ, đậy nắp lại. Bác và tôi cùng đi ra ngôi mộ
sau vườn. Bác dùng con dao chẻ củi đào một cái lỗ trên đầu mộ, tôi để
cái lọ vào đó và bác lấp đất lại.Tôi nghe giọng bác thì thào như nguời
tâm sự:
– Tổ quốc chưa kịp ghi ơn em thì Tổ quốc đã mất.Tổ quốc chỉ còn một
chút nầy, em mang theo để sống với kỹ niệm của một giai đoạn lịch-sử…và
biết đâu Tổ quốc sẽ sống lại với con cháu của chúng ta sau nầy.
Chiều hôm đó tôi từ giã gia-đình bác Hội.Trên đường đi từ trong nhà bác ra đường lớn đón xe để về khách-sạn, bác nhắc tôi:
– Con nhớ đừng quên giúp đỡ Hiền, thằng bạn của con. Nó cần sửa lại
căn nhà dột nát của nó, không biết cả đời nó có tiền sửa được không. Tôi
nói:
– Bác yên tâm, con sẽ giúp tận tình, con sẽ chuyển tiền về cho bác để bác đưa cho Hiền. Nếu không đủ con sẽ chuyển thêm cho đủ.
Tôi lại nói với bác:
– Dường như cả đời, bác đã lo hết cho gia đình ba mẹ con và anh em
con, con nhớ ơn bác vô cùng. Nay bác có tuổi rồi,bác nên quan tâm cho
sức khỏe bác nhiều hơn”.
Bác nắm chặt tay tôi hỏi:
– Còn ngôi nhà của ba mẹ con, con tính sao đây? Nay con còn đó, bác
tiếp tục giữ nhà thì lòng bác ngại quá..! Tôi trả lời trong nghẹn ngào:
– Tình cảm và công ơn bác dành cho gia-đình con như trời biển, có một
trăm ngôi nhà như vậy cũng không thấm vào đâu đối với tấm lòng của bác…
Con chưa bao giờ có một ý nghĩ nào về ngôi nhà đó là của ba mẹ con hay
của con. Nó là của bác… nó là của bác. Bác nên lo cho Bác nhiều hơn!
********
Thay vì đi máy bay từ Hà-nội thẳng về Do-thái, tôi đổi vé đi Paris.
Nước Pháp có vài ngôi chùa Việt-nam còn bên Do-thái không có.
Tôi tìm đến một ngôi chùa ở ngoại ô Paris để xin lập bài-vị thờ ba mẹ và anh hai tôi theo như lời bác Hội khuyên.
Vị-sư trụ trì chùa tiếp tôi sau chánh điện, hỏi:
Anh cho biết tên thân-sinh của anh.
Tên cha?
Đoàn-minh-Tiếng.
Ngày và năm sinh?
Dạ, thưa thầy con không biết.
Ngày và năm chết?
Dạ, thưa thầy con không biết.
Pháp-danh?
Dạ, thưa thầy con không biết.
Vị sư trụ trì nhìn tôi với đôi mắt khác thường, rồi lắc đầu:
Ngày sinh, tháng đẻ của cha anh mà anh không biết, lạ thật!
Vậy tên của mẹ anh là gì?
Nguyễn-thị kim Ngân.
Ngày và năm sinh?
Dạ, thưa thầy con không biết.
Ngày và năm chết?
Dạ, thưa thầy con không biết.
Pháp-danh?
Dạ, thưa thầy con không biết.
Vị sư trụ trì đứng dậy đi tới đi lui rồi nhìn tôi với đôi mắt nheo
lạỉ như nghi ngờ như tôi đang đùa với ông một cách không nghiêm chỉnh.
Sư lại ngồi xuống, hỏi tiếp:
Anh còn muốn lập bài vị cho ai nữa không?
Dạ, còn người anh.
Tên gì?
Đoàn-tấn Anh.
Ngày sinh và năm sinh?
Da, thưa thầy con không biết.
Ngày chết và năm chết?
Dạ, thưa thầy con không biết.
Pháp-danh?
Da, thưa thầy con không biết.
Thầy trụ trì ném cây bút xuống bàn rồi niệm Phật:
“Nam mô A-di-Đà-Phật”
Thầy thở dài hỏi tôi:
Anh muốn lập bài vị để thờ người thân trong chùa mà không nhớ ngày
sinh tháng đẻ, ngày chết, Pháp-danh thì chùa làm sao cúng kiến cầu siêu
được?
Dạ thưa thầy, con lạc gia-đình cha mẹ và anh con từ lúc năm tuổi nên
con không biết ngày sinh tháng đẻ, ngày chết cũng như Pháp-danh của họ.
Sư trù-trì nhìn tôi, chấp hai tay lại niệm:
“Nam-mô A-di-Đà-Phật.”
Tôi gục đầu xuống bàn.
Một bàn tay của thầy để trên vai tôi.
Nguyễn đại Thuật
Viết trong tháng tư buồn.
https://vietbao.com/a280433/su-con-mat-cua-mot-nguoi-em
No comments:
Post a Comment