
Hai tác giả Clive Hamilton và Mareike Ohlberg mới xuất bản một cuốn sách nhan đề “Hidden Hand”
 (Giấu Tay). Cuốn sách là một công trình sưu khảo công phu về những cuộc
 xâm lăng và khuynh đảo của Trung Cộng vào hệ thống chánh trị, kinh tế, 
khoa học, văn hoá, và truyền thông ở các nước phương Tây. Có thể xem đó 
là cuộc xâm lăng mềm, với tiền là phương tiện chánh. Đây là một cuốn 
sách hết sức thú vị, cung cấp rất nhiều thông tin mang tính mở mắt cho 
những ai quan tâm đến thời cuộc và sự ảnh hưởng của Trung Cộng trên 
trường quốc tế, kể cả Việt Nam. Bài điểm sách này sẽ điểm qua những nội 
dung chánh, và chia sẻ vài thông điệp chánh trong cuốn sách.

Ở Úc, tuần vừa qua xảy ra một biến cố chánh trị làm cho cuốn sách này
 trở nên tâm điểm của thời cuộc. Một thượng nghị sĩ Úc tên Shaoquett 
Moselmane (gốc Lebanon) bị cảnh sát xét nhà riêng sau một thời gian bị 
cơ quan tình báo Úc ASIO điều tra về những mối liên hệ giữa ông với đảng
 cộng sản Trung Cộng. Ông dân biểu đã là đối tượng được báo chí theo dõi
 về mối liên hệ giữa ông và đảng cộng sản Trung Cộng. Từ năm 2018, ông 
và người phụ tá là John Zhang (gốc Tàu) có những phát biểu ủng hộ nhà 
cầm quyền Trung Cộng và chỉ trích những chánh sách cứng rắn của Úc đối 
với Trung Cộng.
Báo chí Úc cho biết nếu chứng cớ từ cuộc điều tra 
đầy đủ, ông dân biểu này có thể bị truy tố ra toà về tội giúp cho thế 
lực nước ngoài can thiệp vào chánh trường Úc. Nếu bị truy tố thì đây là 
trường hợp đầu tiên trên thế giới về sự can thiệp của nước ngoài vào 
chánh trường địa phương. Những gì diễn ra trong trường hợp của vị dân 
biểu này có thể nói là rất phù hợp với những chiến lược gây ảnh hưởng 
của Trung Cộng trong các thể chế dân chủ ở phương Tây.
Chiến Tranh Lạnh
Từ
 điển tiếng Anh định nghĩa Hidden Hand là thế lực gây ra những tác động 
tiêu cực. Hidden Hand cũng có thể hiểu là những người ở vào vị trí quyền
 lực cao nhứt nhưng giấu mặt. Hidden Hand cũng có thể là một hội ái hữu 
kiểm soát một mạng hội kín, và những hội kín này thực hiện những mệnh 
lệnh của thế lực cấp trên. Thường, những người thực hiện mệnh lệnh không
 biết ai là người ra lệnh.
Có lẽ mượn ý nghĩa đó, nên hai tác giả 
Clive Hamilton và Mareike Ohlberg (H&O) đặt tựa đề cho cuốn sách mới
 là Hidden Hand [1] để mô tả những hoạt động của Đảng cộng sản 
Trung Cộng (CCP) nhằm lũng đoạn chánh trường phương Tây và thiết lập một
 trật tự thế giới mới theo ý tưởng của những kẻ điều hành CCP, mà người 
đứng đầu hiện nay là Tập Cận Bình.
Tại sao Hidden Hand? Thật ra, đây là cuốn sách nối tiếp cuốn Silent Invasion (Cuộc
 xâm lăng thầm lặng) công bố vào năm 2017 mà tôi có điểm sách [2]. 
Silent Invasion viết về những chiêu trò xâm lăng vào Úc của CCP, còn 
Hidden Hand thì viết về cuộc xâm lăng của CCP vào các nước phương Tây. 
Cuộc xâm lăng này diễn ra trên tất cả lãnh vực, từ chánh trị, kinh tế, 
khoa học – công nghệ, gián điệp, đến văn hoá.
Cứ mỗi lần Mĩ hay Úc
 nêu những hành động hung hãn của Trung Cộng ở Biển Đông (hay bất cứ nơi
 nào trên thế giới), thì phía Trung Cộng đều cho viên phát ngôn than 
phiền rằng Mĩ dùng ngôn ngữ thời Chiến Tranh Lạnh, là khơi dậy chủ nghĩa
 McCarthy. Mới đây, trong lúc mối quan hệ ngoại giao giữa Úc và Trung 
Cộng hơi căng thẳng, viên phát ngôn Tàu cũng nói rằng Úc hành xử như 
thời Chiến Tranh Lạnh.
Ngoài miệng thì than phiền như thế, nhưng 
về thực chất thì Trung Cộng đã thực hiện Chiến Tranh Lạnh từ … 30 năm 
trước. Theo H&O, Trung Cộng sau thời chế độ Xô Viết sụp đỗ tự xem 
mình bị vây hãm bởi các kẻ thù, và những kẻ thù này cần bị đánh bại và 
vô hiệu hoá. Để đánh bại kẻ thù, CCP đã phát động một cuộc Chiến Tranh 
Lạnh từ thập niên 1990!
Trong Lời nói đầu, tác giả cho biết nhiều 
người trong giới trí thức ở phương Tây đánh giá thấp hay bác bỏ sự đe 
doạ của Trung Cộng đối với nền dân chủ phương Tây. Hai tác giả cho rằng 
đó chính là lí do tại sao họ viết Hidden Hand. Nói cách khác, tác giả 
muốn ‘giáo dục’ những ai còn ngây thơ với mối đe doạ từ Trung Cộng.
Sách
 bao gồm 13 chương, bàn những vấn đề về sự vận hành và tổ chức của CCP, 
cách thức mà nó tranh thủ vận động trong và ngoài nước qua mạng lưới 
công an và gián điệp, các biện pháp kiểm soát hệ thống truyền thông, các
 chương trình lũng đoạn thông tin ở phương Tây, và ý tưởng thay đổi trật
 tự thế giới. Nội dung chánh của sách chỉ chừng 270 trang, nhưng phần 
tham khảo và bị chú chiếm 130 trang, chứng tỏ tác giả đã đầu tư rất 
nhiều công sức và thời giờ vào việc soạn thảo cuốn sách.
CCP và những người bạn
CCP
 đã xây dựng hẳn một mạng lưới ảnh hưởng trên đất Mĩ từ thập niên 1970. 
Họ có khả năng và đã mua chuộc rất nhiều kí giả, nhà khoa học, học giả, 
thậm chí chánh trị gia và những nhà vận động làm việc cho họ. Cả Joe 
Biden và Donald Trump đều xem mình là “bạn” của Tập Cận Bình. Dưới thời 
Obama, Mĩ đã đứng khoanh tay nhìn Trung Cộng xây dựng những công trình 
quân sự trên Biển Đông, vì Obama cũng đánh giá thấp mối đe doạ của Trung
 Cộng. John Bloomberg, ứng cử viên phó tổng thống Mĩ, cũng có thể xem là
 một người bạn thân của Tập. Chẳng những các chánh khách, mà gia đình 
của họ (như gia đình của Donald Trump, con rể Jared Kushner và con gái Ivanka Trump) cũng là bạn thương mại với Trung Cộng. Trung Cộng đã có những người bạn như thế giúp cho họ đạt được những mục tiêu dài hạn.
Nhưng
 đừng tưởng rằng Trung Cộng xem mọi người bạn như nhau. Đối với CCP, cái
 gì cũng được phân nhóm, và bạn bè cũng được phân nhóm. Phân nhóm để có 
chánh sách đối phó và đối xử. Đối với người ngoại quốc, CCP chia thành 4
 nhóm như sau:
– Nhóm 1 là những người bạn. Đây là những 
người đồng ý với và ủng hộ chủ trương của CCP hết mình. Họ thường được 
trích dẫn trên hệ thống truyền thông của TC;
– Nhóm 2 là những người bạn có thể tin được. Họ thường là những người trong giới doanh nhân mà CCP có thể dựa dẫm vào, nhưng không thể tin tưởng;
– Nhóm 3 là những học giả và giới kí giả. Đây là những người yêu Trung Cộng, nhưng biết rõ những chiêu trò xấu và bẩn của cộng sản và CCP;
– Nhóm 4 là ‘kẻ thù’.
 Đây là những người yêu Trung Hoa và văn minh Trung Hoa, nhưng ghét cộng
 sản. Đây là những kẻ mà CCP sẵn sàng bôi nhọ mỗi khi có dịp;
– Nhóm 5 là ‘thờ ơ’. 
 Đây là những người không biết và không cần biết về Trung Cộng. Trong 
cái nhìn của CCP, đây là những người có ích và có thể gây ảnh hưởng bằng
 cách mời họ xuất hiện trong các dịp lễ lạc để tạo ra ấn tượng tốt.
Trong
 một chương viết về cách CCP lũng đoạn các quan chức ngoại giao nước 
ngoài, H&O cho biết các đại sứ khi mới tới Trung Cộng, họ trước hết 
bị ‘cách li’ với các nhân vật cao cấp trong CCP. Sau đó một thời gian, 
họ sẽ nhận được tin nhắn rằng một quan chức cao cấp trong CCP muốn gặp 
họ. Mục tiêu là làm cho người được mời đến gặp cảm thấy mình ‘đặc biệt’,
 được tin cẩn, và có thể tiếp cận những thông tin mà người khác không 
có. Tuy nhiên, đó chỉ là một chiêu trò tâm lí để khai thác đối phương!
Khi
 cần đe doạ, Trung Cộng dùng ngôn ngữ mơ hồ, mù mờ, để cho đối tượng tha
 hồ đoán. Thật ra, đây là một chiêu trò của người cộng sản Tàu, vì sự mơ hồ có tác dụng gây sợ hãi nhiều người, và ai cũng có thể là những kẻ thù của chế độ.
Đảng và doanh nghiệp: hôn phối chánh trị
Trong
 chế độ Trung Cộng, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đảng là một cuộc 
hôn phối chánh trị. Mối liên hệ giữa các cán bộ cao cấp trong đảng và 
doanh nghiệp diễn ra 2 chiều: cá nhân và chánh trị. Các cán bộ cao cấp 
trong đảng hoặc gia đình của họ đều đứng đằng sau hay có quyền lợi tài 
chánh với doanh nghiệp, và họ hưởng lợi từ doanh nghiệp. Trong mỗi doanh
 nghiệp cấp trung và lớn đều có chi bộ của CCP, và chi bộ chính là nhóm 
người định hướng, thậm chí điều hành, doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có 
cán bộ của đảng ‘bảo trợ’ thường làm ăn khấm khá, và họ được ưu tiên 
nhiều lãnh vực, kể cả đóng thuế ít hơn các công ti ngoài đảng. Công cuộc
 chống tham nhũng mà Tập Cận Bình phát động thật ra chẳng có ảnh hưởng 
gì đáng kể đến các doanh nghiệp do CCP bảo trợ.
Có thể nói tất cả 
các nhân vật đứng đầu các tập đoàn lớn (như Alibaba, Baidu, Huawei, 
Tencent, v.v.) đều là đảng viên của CCP hay tỏ lòng trung thành tuyệt 
đối với CCP. Richard Liu (được xem là một Jeff Bezos của Trung Cộng) 
từng nói rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ thành hiện thực trong thế hệ này. Xu
 Jiayin, một đại gia bất động sản tuyên bố rằng “tất cả những gì tập đoàn sở hữu là do Đảng cho“. Đại gia kĩ nghệ nặng Liang Wengen thì cảm tính hơn khi nói “cuộc đời của tôi thuộc về Đảng“.
Trong
 quan hệ doanh nghiệp nước ngoài, CCP còn cài đặt người vào các thiết 
chế kinh tế của Mĩ và Âu châu. Một trong những thiết chế mà CCP nhắm tới
 để gây ảnh hưởng là Wall Street. Trong chuyến viếng thăm Mĩ, thủ tướng 
Trung Cộng không tới Washington trước, mà đến New York, nơi mà ông có 
những cuộc hội kiến bận rộn với các nhân vật trong hệ thống tài chánh 
Mĩ. Những sếp của các tập đoàn lớn như JP Morgan, Merrill Lynch, Morgan 
Stanley, Dow Jones, Goldman Sachs, Citigroup, Bank of America, v.v. đều 
được tiếp đón trọng thị. Sau lần tiếp đón là hàng loạt hợp đồng thương 
mại trị giá tỉ USD được kí kết.
Nhưng CCP còn nghĩ đến thế hệ 
tương lai, và các thiết chế tài chánh Mĩ là mục tiêu. Câu lạc bộ công tử
 và tiểu thơ (princelings – thái tử đảng) là một nhóm trong chương trình
 này. Chẳng hạn như tập đoàn JP Morgan có một chương trình có tên là “Sons and Daughters Program” (nhưng
 các tập đoàn Mĩ lớn đều có những chương trình tương tợ) nhằm nâng đỡ 
các con cháu của các cán bộ cộng sản cao cấp từ Trung Cộng. Chẳng hạn 
như Goldman Sachs chỉ riêng năm 2013 đã có 25 con cháu cộng sản, trong 
đó có cả cháu nội của Giang Trạch Dân (Jiang Zemin). Merrill Lynch và 
Citigroup cũng có nhiều nhân viên là các công tử và tiểu thơ của CCP, kể
 cả con dâu của Triệu Tử Dương (Zhao Ziyang). Morgan Stanley thì mướn 
con trai của Chu Dung Cơ (Zhu Rongji) và con gái của Chủ tịch của Ngân 
hàng Phát Triển Chen Yuan. Đây là những công tử và tiểu thơ đã hoặc đang
 theo học tại các trường hàng đầu của Mĩ. Có thể nói [chương trình] 
“Sons and Daughters Program” hoặc tương tợ là nơi ươm mầm cho thế hệ 
elite tài chánh tương lai của Trung Cộng.
Hoa kiều vụ
Hiện
 nay, có khoảng 50 đến 60 triệu Hoa kiều ở nước ngoài. CCP xem đây là 
một nguồn lực rất quan trọng trong chiến lược ảnh hưởng thế giới. Trong 3
 thập niên qua, Trung Cộng đã có nhiều biện pháp và chương trình nhằm 
kéo những Hoa kiều về ‘đất mẹ’ bằng cách này hay cách khác. Một trong 
những tổ chức quan trọng nhứt của CCP là “Mặt Trận Đoàn Kết” (United 
Front), với nhiệm vụ chánh là quản lí Hoa kiều và cái mà họ gọi là 
“qiaowu” (Hoa kiều vụ). Hai cơ quan phụ trách việc hiện các chánh sách 
là Cục Người Hoa ở Nước Ngoài, viết tắt là OCAO (rất giống với “Uỷ ban 
Người Việt ở nước ngoài” của Việt Nam). Tuy nhiên, mạng lưới tổ chức thì
 phức tạp hơn nhiều so với những gì tôi mô tả (có thể xem trang 124-125 
để thấy sơ đồ tổ chức nhằm khuynh đảo Hoa kiều).
Một số trong cộng đồng Hoa kiều ở nước ngoài trở thành không chỉ là những tiếng nói của CCP, mà còn một lực lượng đe doạ những ai dám thách thức sự đàn áp của Trung Cộng. Những thành viên của Pháp Luân Công bị xách nhiễu và đe doạ bởi những “Hoa kiều” ở New York là một ví dụ. Sinh viên gốc Duy Ngô Nhĩ nói về sự tàn ác của CCP cũng bị sinh viên Trung Cộng đe doạ. Một số Hoa kiều ‘độc lập’ (tức không dính dáng gì đến CCP) cũng bị đe doạ và cô lập. Ở Đức, sự lộng hành của các Hoa kiều thân cộng nghiêm trọng đến nỗi có Hoa kiều độc lập cho rằng họ xem Đức như là một sân vườn của đảng cộng sản Trung Cộng!
Một chiến lược của CCP và khuyến khích và hỗ 
trợ cho Hoa kiều tham chánh trong chánh trường địa phương, họ gọi chương
 trình này là “huaren canzheng” (Hoa kiều tham
 chánh). Qua chương trình này, CCP giới thiệu những ứng viên gốc Hoa 
nhưng thân cộng (dĩ nhiên) ra ứng cử cấp địa phương, bang, và thậm chí 
liên bang. Họ đã thành công đưa Hoa kiều vào những vị trí quan trọng ở 
Anh, Úc, và vài địa phương ở Mĩ.
Mạng lưới gián điệp: phi chánh thống
Các
 trung tâm gián điệp phương Tây thường chỉ tập trung vào những việc như 
đánh cắp tài liệu mật của chánh phủ và quân sự, bằng cách tuyển mộ những
 điệp viên hay cài điệp viên vào chánh phủ và cơ quan quân sự. Nhưng 
hoạt động gián điệp của Trung Cộng vượt ra ngoài biên giới truyền thống 
đó và bao gồm luôn cả đánh cắp thông tin mật từ các công ti kĩ nghệ, tập
 đoàn kinh tế, và cả tổ chức dân sự.
Hệ thống tổ chức gián điệp và
 tình báo của Trung Cộng phức tạp hơn nhiều so với các chánh phủ phương 
Tây. Ở cấp trung ương có 2 cơ quan tình báo quan trọng là Tổng Cục I 
(trực thuộc Bộ Công An) và Tổng Cục II (còn gọi là 2PLA, thuộc Bộ Quốc 
Phòng). Tổng cục I về chức năng thì tương đương với CIA và FBI cộng lại,
 nhưng còn có quyền lực chánh trị. Tổng cục II dùng nhà báo, học giả, và
 nhà ngoại giao làm bề mặt để hoạt động, và cũng có quyền lực chánh trị.
 Ngoài hai cục đó, Trung Cộng còn có những Cục khác như Cục 10 (lo các 
vấn đề ở nước ngoài), Cục 11 (liên quan đến các ‘think tank’, viện 
nghiên cứu), Cục 12 (lo về các vấn đề xã hội), v.v. Theo FBI, chỉ riêng 
Cục 12 đã thành lập hơn 3000 công ti làm bình phong cho những hoạt động 
gián điệp trên thế giới.
Các ‘ổ’ gián điệp Trung Cộng không chỉ 
tuyển dụng người trong nước, mà còn tuyển dụng người nước ngoài và áp 
dụng các thủ thuật tâm lí để gây áp lực đến nạn nhân. Vào thập niên 
1990, cẩm nang của MI5 (cơ quan tình báo Anh) dành cho các doanh nhân 
làm ăn ở Trung Cộng có cảnh báo rằng không nên nhận những món quà quá 
mức, và cảnh giác với những lời tâng bốc tận mây xanh. Chiến thuật của 
tình báo Trung Cộng là làm cho nạn nhân mang nợ bằng những món đắt tiền 
hay mĩ nhân kế, để nạn nhân tự cảm thấy có nghĩa vụ phải đáp nghĩa. Hình
 thức đáp nghĩa có thể đưa nạn nhân vào vòng tay của các ổ gián điệp 
Trung Cộng.
Cục tình báo Úc (ASIO) cũng hay cảnh báo giới ngoại 
giao và doanh nhân Úc về những chiêu trò theo dõi của an ninh Trung 
Cộng. ASIO khuyên tất cả các thành viên trong đoàn không dùng charger 
điện thoại của khách sạn, không dùng bất cứ USB nào được cho làm quà, 
không bao giờ để máy tính cá nhân trong phòng khách sạn, v.v.  Một hình 
thức hăm doạ khác là meinren ji, dùng hình ảnh của nạn nhân 
trong những tình huống khó xử (có khi là hình ảnh ghép, sửa) làm cho nạn
 nhân rơi vào vòng kim toả của gián điệp Trung Cộng.
Truyền thông: “Họ của chúng tôi là Đảng”
Chương
 9 của cuốn sách là một trong những chương thú vị, vì trong đó tác giả 
bàn về hệ thống truyền thông của CCP. Đây là chương ‘mở mắt’ cho nhiều 
người phương Tây, nhưng có lẽ chẳng làm ngạc nhiên ai đã quen với sự 
kiểm soát hệ thống truyền thông của đảng cộng sản. Nói ngắn gọn và ví 
von, tất cả nhà báo Trung Cộng chỉ có 1 họ duy nhứt: Đảng.
Ai cũng
 biết CCP kiểm soát hệ thống truyền thông một cách toàn diện, không chỉ 
trong nước mà còn ở nước ngoài. Sự trung thành của giới báo chí đối với 
CCP là tuyệt đối. Ban Tư Tưởng của CCP thường xuyên gởi chỉ thị cho tất 
cả các báo và đài mỗi tuần, hướng dẫn vấn đề gì cần được đề cập và đề 
cập như thế nào, ai cần được nhắc đến hay không nên nhắc đến, và hệ 
thống phải tuân thủ tuyệt đối; họ không có lựa chọn.
Nếu hệ thống 
truyền thông không tuân thủ, thì họ sẽ bị phạt. Hình phạt có thể chỉ là 
cảnh cáo, nhưng cũng có khi cả ‘sanh mạng chánh trị’. Chẳng hạn như năm 
2015, 4 kí giả Trung Cộng bị phạt vì họ đánh vần sai vài chữ trong bài 
diễn văn của Tập Cận Bình làm cho người đọc hiểu rằng Tập Cận Bình sắp 
từ chức. Trong cùng năm, một kí giả chuyên về tài chánh bị bắt vì anh ta
 công bố những con số thật (nhưng đối với CCP thì đó là những thông tin 
nguỵ tạo).
Ngay từ 1955, Mao Trạch Đông đã huấn thị cho Tân Hoa Xã rằng
 phải “quản lí toàn cầu”, và phải “làm cho cả thế giới nghe tiếng nói 
của Trung Cộng”. Thời của Mao thì Tân Hoa Xã tập trung vào việc tuyên 
truyền ở Á châu và Phi châu, nhưng dưới thời Tập Cận Bình thì cánh tay 
của Tân Hoa Xã vươn ra Âu châu và Mĩ châu. Tính từ năm 2009 đến nay, Tân
 Hoa Xã đã có 180 văn phòng ngoài Trung Cộng, với tổng hành dinh vùng 
đặt ở New York, Brussels, Hồng Kong, Moscow, Cairo, Vạn Tượng (Lào), và 
Mexico City.  Tư 2010, Tân Hoa Xã có hẳn một kênh CNC World (cạnh tranh với CNN?) truyền tin bằng tiếng Anh đến thế giới.
Ngoài Tân Hoa Xã, Trung Cộng còn có tờ nhựt báo China Daily (tiếng
 Anh). China Daily được thành lập vào năm 1981, với sự giúp đỡ của nhựt 
báo “The Age” của Úc và tài trợ từ Chánh phủ Úc. Tờ China Daily nhận chỉ
 thị từ CCP qua Cục Thông Tin Quốc Gia để quảng bá quan điểm của CCP và 
thông tin từ Trung Cộng đến thế giới.
CCP còn tích cực huấn luyện 
kí giả từ các nước đang phát triển. Theo “Reporters without Orders” hàng
 vạn kí giả từ các nước nghèo (như Việt Nam) được Tân Hoa Xã tài trợ để 
tham dự các lớp tập huấn do Ban Tư Tưởng của CCP tổ chức. Những kí giả 
này sẽ là những “sứ giả” cho CCP và qua đó phát huy ‘quyền lực mềm’ của 
Trung Cộng.
Một chiến lược truyền thông khác của Trung Cộng có tên là “Mua tàu đi biển” (Buying a boat to sail the sea). Theo
 chiến lược này, Trung Cộng tung tiền ra mua cổ phần những tập đoàn 
truyền thông nổi tiếng ở phương Tây. Nếu mua không được, họ áp dụng 
chiến lược “Mượn tàu đi biển” (“borrowing a boat to sail the sea”), mà 
theo đó,  Trung Cộng thương lượng với các tập đoàn truyền thông nổi 
tiếng ở phương Tây (như New York Times, Wall Street Journal, Washington 
Post, Daily Telegraph, Sydney Morning Herald, Le Figaro, El Pais) để 
thêm một phụ chương có tên là “China Watch” do China Daily sản xuất. 
Ngay cả tập san khoa học lừng danh Nature cũng có phụ chương chỉ dành 
cho Trung Cộng.
Trong khi Trung Cộng nâng cao nỗ lực quảng bá quan
 điểm của CCP ra nước ngoài, thì cái cơ chế này lại hạn chế, thậm chí 
ngăn chận, luồng thông tin từ ngoài vào Trung Cộng. Từ năm 2009 Trung 
Cộng đã chận hầu hết các mạng xã hội từ phương Tây (như facebook, 
google, twitter). Chỉ có mạng LinkedIn của Microsoft thì không bị chận 
vì LinkedIn sẵn sàng theo đường lối hay làm theo chỉ thị của CCP.
Nhưng
 CCP lại dùng mạng xã hội phương Tây để quảng bá các tin giả (fake 
news). Theo H&O, Trung Cộng có hẳn một đội quân dư luận viên (có tên
 là “Đảng 50 xu” hay “50 cent Party) vốn là những nhân 
viên trong hệ thống chánh quyền của Trung Cộng. Đội quân dư luận viên 
này chỉ có một nhiệm vụ duy nhứt là tung tin giả, đe doạ, và khủng bố 
những người nào có quan điểm khác với CCP. Mỗi năm, đội dư luận viên này
 tung ra 450 triệu bình luận trên các mạng xã hội phương Tây, với đa số 
là nguỵ biện và chửi bới, hay nói chung là ‘misinformation’. Đối tượng 
của họ là Đài Loan, Tây Tạng, người Duy Ngô Nhĩ, Đức Đạt Lai Lạt Ma.  
Năm 2019, Twitter phải khoá hơn 1000 tài khoản, và sau đó hơn 200,000 
tài khoản mà họ nghi là do nhà nước Trung Cộng bảo trợ.
Chánh trị hoá văn hoá
Đối
 với CCP, văn hoá là một mặt trận, nên Trung Cộng rất quan tâm đến việc 
chánh trị hoá văn hoá. Tập Cận Bình không giấu diếm gì khi muốn CCP là 
chủ nhân, là bảo hộ nhân văn hoá Trung Hoa. Đảng cộng sản tự cho mình 
cái quyền phán xét cái nào là văn hoá chánh thống, và cái nào không phải
 là văn hoá Trung Cộng. Một ví dụ tiêu biểu là áo sẩm (qipao hay 
cheongsam) vốn được xem là trang phục truyền thống của phụ nữ Trung Hoa,
 nhưng thật ra nó có nguồn gốc từ Mãn Châu và được phụ nữ Trung Hoa mặc 
lần đầu vào những năm 1910. Trong thời Mao, áo sẩm được xem là trang 
phục của giới tư sản, nhưng gần đây thì nó được xem là một biểu tượng 
văn hoá của Trung Cộng. Và, CCP nhứt định dành quyền quảng bá áo sẩm, 
không có bất cứ một tổ chức tư nhân nào liên quan.
Dĩ nhiên, trong
 một xã hội mà CCP kiểm soát tất cả lãnh vực, thì văn học cũng không thể
 thoát khỏi vòng kim toả. Một ví dụ tiêu biểu là chủ trương và tầm nhìn 
của Hội Nhà Văn Trung Cộng. Hội này tuyên bố nhiệm vụ số 1 là “tổ
 chức các nhà văn học tập về chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng của Mao Trạch 
Đông, và lí thuyết của Đặng Tiểu Bình, và học tập đường lối chánh sách 
của đảng.” Thỉnh thoảng cũng có nhà văn tự trọng xin ra 
khỏi Hội, nhưng đa số nhà văn thì muốn lưu lại trong Hội để hưởng phước 
lợi và có dịp đi nước ngoài để ‘giao lưu’ cùng các đồng nghiệp phương 
Tây.
Năm 2011, CCP lưu hành một tài liệu nhan đề “Culture Going 
Global”, mà trong đó họ vạch ra những chiến lược để quảng bá văn hoá 
Trung Cộng đến thế giới, và CCP muốn dùng văn hoá để kết nối tất cả Hoa 
kiều ở nước ngoài. Một tập đoàn có tên là “Poly Culture” được ra đời vào
 năm 2000, và nhanh chóng trở thành một ‘thương hiệu’ trong giới elite 
phương Tây. Theo đánh giá của các chuyên gia phân tích, Poly Culture có 
giá trị 140 tỉ USD. Poly Culture còn là sân chơi của các công tử và tiểu
 thơ đỏ, là con cháu của các cán bộ thượng tầng trong CCP.
Hoạt 
động của Poly Culture rất đa dạng. Họ tổ chức hàng loạt chương trình hoà
 nhạc tại các hí viện lừng danh nhứt và lớn nhứt ở Pháp, Ý, Tây Ban Nha,
 v.v. Họ bảo trợ các cuộc triển lãm tranh ảnh về Trung Cộng, và thiết 
lập các viện bảo tàng quảng bá văn hoá Trung Cộng tại các nước phương 
Tây. Nhưng thay vì hoạt động văn hoá thuần tuý như là một phương tiện 
ngoại giao, thì Poly Culture lại đem chánh trị vào văn hoá và gây áp lực
 lên những nhóm mà họ bảo trợ. Ở Canada và Âu châu, họ ép buộc ban tổ 
chức triển lãm không được dùng hình ảnh của Pháp Luân Công, và những 
hình ảnh mà họ xem là có yếu tố chánh trị. Thế nhưng trớ trêu thay, họ 
lại chánh trị hoá triển lãm bằng những hình ảnh của Tập Cận Bình!
Khoa học và công nghệ
Có
 lẽ lãnh vực khoa học và công nghệ là món mà CCP thèm thuồng nhứt. Điều 
này cũng dễ hiểu, vì để hiện đại hoá đất nước, Trung Cộng cần đến nhân 
tài “knowhow” về khoa học và công nghệ. Để thu hút nhân tài, CCP đề ra 
kế sách “Ngàn Nhân Tài” (Thousand Talents Plan). Theo kế sách TTP, nhà 
khoa học sẽ được cung cấp tài trợ và cơ sở vật chất để làm nghiên cứu 
tại Trung Cộng. Số tiền tài trợ rất hấp dẫn, và dễ làm xiêu lòng những 
nhà khoa học đang bị khó khăn về tài trợ ở các nước phương Tây. Do đó, 
Trung Cộng đã thu hút hàng vạn nhân tài từ các nước phương Tây. Đa số 
những người tài này là các nhà khoa học gốc Hoa, nhưng chương trình 
Thousand Talents Plan còn tuyển cả giới khoa học không phân biệt quốc 
tịch.
Không chỉ tuyển dụng nhân tài về Trung Cộng, CCP còn tích 
cực đánh cắp kĩ thuật và dữ liệu khoa học từ các nước phương Tây, đặc 
biệt là Mĩ. Ỡ Mĩ, có khá nhiều nhà khoa học gốc Hoa, và một số giữ những
 vị trí quan trọng trong hệ thống khoa học. Chẳng hạn như Bộ Năng Lượng 
(Department of Energy) có đến 35,000 nhà khoa học nước ngoài đang làm 
việc tại các trung tâm nghiên cứu (kể cả nghiên cứu về vũ khí), và trong
 số này có chừng 10,000 người gốc Hoa hay từ Trung Cộng. Qua các chương 
trình giao lưu, CCP dùng các nhà khoa học gốc Hoa ở Mĩ để thu thập dữ 
liệu khoa học đem về Trung Cộng.
Một số nhà khoa học đã trở thành 
nạn nhân của ‘chương trình’ đánh cắp khoa học này. Năm ngoái, trung tâm 
nghiên cứu và điều trị ung thư MD Anderson (Mĩ) phát hiện một số nhà 
khoa học gốc Hoa chuyển tài liệu cho Trung Cộng, và những người đã bị sa
 thải. Năm nay (2020), một nạn nhân nổi tiếng khác là Giáo sư Charles 
Lieber (Đại học Harvard) bị FBI bắt vì có cáo buộc rằng ông được tuyển 
vào chương trình Thousand Talents Plan và nhận lợi lộc (lương 50,000 USD
 mỗi tháng [?] và chuyển giao công nghệ cho Đại học Công nghệ Vũ Hán) 
nhưng ông không khai báo với phía Mĩ về những hoạt động đó. Nhưng trong 
thực tế thì có hàng trăm vụ đánh cắp khoa học khác ít khi nào được đề 
cập trên báo chí.
Nhiều nhà khoa học Trung Cộng mang chức danh 
khoa học (giáo sư) sang các nước phương Tây để hợp tác nghiên cứu, nhưng
 trong thực tế họ là những sĩ quan quân đội cao cấp. Theo Alex Joske 
(một chuyên gia nghiên cứu về Trung Cộng), tính từ 2007 đến nay (2020), 
quân đội Tàu đã gởi ra nước ngoài hơn 2500 nhà khoa học nhưng thực chất 
là những sĩ quan cao cấp. Họ hợp tác tại các đại học hàng đầu của các 
nước phương Tây. Ở Úc, hai trường đại học được đề cập đến là Đại học New
 South Wales và Đại học Công nghệ Sydney.
* * *
Trong khi 
các chánh khách phương Tây đặt câu hỏi có phải họ đang ở vào thời Chiến 
Tranh Lạnh với Trung Cộng, thì Trung Cộng đã có câu trả lời từ 30 năm 
trước. Không chỉ có câu trả lời mà họ còn chủ động phát động một cuộc 
chiến tranh như thế dưới nhiều hình thức khác nhau. Qua Hidden Hand,
 bạn đọc có thể thấy rõ những lãnh vực mà Trung Cộng dưới sự điều hành 
của CCP đã xâm nhập vào hệ thống các thiết chế chánh trị, kinh tế, khoa 
học và công nghệ, truyền thông, và văn hoá của các nước phương Tây. Gần 
như các nước giàu có như Mĩ, Đức, Anh, Pháp, Ý, Canada, Úc, v.v. đều 
không ‘thoát’ khỏi sự xâm nhập của CCP. Do đó, câu chuyện về ông dân 
biểu Úc được đề cập trong phần đầu của bài điểm sách này chỉ là phần nổi
 của một tảng băng chìm.
Đối với chúng ta, người Việt Nam, đọc 
cuốn sách này rất ‘thấm’ và học được rất nhiều điều. Nhìn những nước 
phương Tây bị ảnh hưởng, thì câu hỏi Việt Nam có bị ảnh hưởng hay không 
là câu hỏi thừa thải. Thỉnh thoảng người nước ngoài đọc báo chí Việt Nam
 bắt gặp những danh từ mới như “Thế lực thù địch”, “Quyền lực mềm”, 
“Trỗi dậy trong hoà bình”, hay tên của những cơ quan như “Tổng cục II”, 
“Mặt trận đoàn kết”, mà không biết đến từ đâu, thì cuốn sách này cho 
chúng ta một câu trả lời về xuất xứ: Trung Cộng.
Trong phần mở đầu
 sách, Hamilton và Ohlberg quan sát rằng giới kí giả và học giả khi mới 
tới Trung Cộng (qua những chuyến đi do CCP tài trợ) thường có ấn tượng 
rằng đó là một đất nước phát triển thần kì, với tốc độ phát triển kinh 
tế cao nhứt nhì thế giới. Họ kinh ngạc trước những công trình kì vĩ, 
những công nghệ chẳng thua kém gì so với phương Tây. Tuy nhiên, họ quên 
rằng các nước khác cũng phát triển như vậy, thậm chí còn cao hơn Trung 
Cộng. Họ cũng quên rằng CCP chính là thế lực làm cho Trung Hoa lạc hậu 
cả 1 thế kỉ. Họ ca ngợi rằng 700 triệu người Hoa đã thoát khỏi cái 
nghèo, nhưng họ quên rằng từ 1949 đến nay, chính CCP là thủ phạm làm cho
 hàng trăm triệu người Hoa nghèo đói. 
Tóm lại, Hidden Hand là một
 cuốn sách hay và đáng đọc như cuốn trước (Silent Invasion). Có thể xem 
cuốn sách là một cảnh báo — có lẽ hơi muộn — về mối đe doạ của Trung 
Cộng đến trật tự thế giới do phương Tây lãnh đạo. Chiến lược “Một Vành 
Đai, Một Con Đường” mà Trung Cộng đang quảng bá, khi đặt trong bối cảnh 
chung, có lẽ chỉ là một con ngựa Troia mà thôi. Trong khi nhiều người 
vẫn còn rơi vào những “bẫy mật” của Trung Cộng, thì cũng có nhiều người 
trong giới trí thức phương Tây đã ngộ ra mối đe doạ và có những hành 
động ngăn chận. Cuốn sách này có lẽ sẽ giúp cho những ai còn thờ ơ (nhóm
 5, theo cách phân loại của CCP) hiểu được những hình thức xâm lăng mềm,
 và hi vọng sẽ không rơi vào những cái “bẫy mật” được trải thảm bằng 
tiền.
Nguyễn Văn Tuấn
Tham khảo:
[1] Sách Hidden Hand của
 Simon Hamilton và Mareike Ohlberg, do Nhà xuất bản Hardie Grant phát 
hành vào tháng 5/2020. Sách có 402 trang, bao gồm 270 trang nội dung 
chánh và 132 trang bị chú và tài liệu tham khảo.
Tác giả Simon 
Hamilton là giáo sư về đạo đức công chúng (Public Ethics) thuộc Đại học 
Charles Sturt (Canberra). Tiến sĩ Mareike Ohlberg là một nhà nghiên cứu 
gốc Đức chuyên nghiên cứu về các chánh sách và ảnh hưởng của Trung Cộng.
Nguồn: https://vietluan.com.au/nhung-cuoc-xam-lang-mem-doc-sachhidden-hand-cua-clive-hamilton-vamareike-ohlberg/
 
Ông N V Tuấn này cũng thường xuyên về VN tham dự những hội nghị y khoa và hợp tác với nhiều trường đại học của cộng sản VN. Tôi đọc nhiều bài viết từ ông này, tôi hiểu được ông ta là người như thế nào, ít ra khuynh hướng và những suy nghĩ của ông ta. Tôi đồng ý với nhiều bài viết của ông, nhưng không thích cách làm của ông vì ông ta nói và viết 1 đàng nhưng hành động thì ngược lại. Nói tóm lại là : NO COMPLETELY TRUST BUT VERIFY.
ReplyDeleteKính chào chị Người Phương Nam, Xin cho tôi đăng lại bài này ở:
ReplyDeletehttps://nuocnha.blogspot.com
Cám ơn chị nhiều