Trời xám xịt màu mây, những hạt mưa nhỏ lắc rắc nhưng đủ thấm lạnh người phương xa khi chúng tôi không chuẩn bị nón và áo khoác cho một ngày ẩm ướt này.
Chuyến xe lửa đến rất đúng giờ, chúng tôi đứng dưới sân
gare Massy Palaiseau vùng ngoại ô của Paris, để chờ một bà đầm không họ hàng
nhưng vô cùng thân thiết, bà là vợ của ông anh chồng trước đây của tôi, anh Ba
du học từ năm 18 tuổi, rồi lấy vợ đầm và ở lại Pháp sinh sống làm việc hơn nửa
đời người, anh mới mất năm ngoái và đó là lý do chúng tôi muốn ghé thăm ngôi
nhà nhỏ nhưng rất ấm áp thân tình của anh chị.
Khi gọi phone để báo tin là chúng tôi sẽ đến, tiếng bà
cười khanh khách và giọng nói vang vang líu lo một tràng tiếng Pháp mà ông xã
nhà tôi phải ráng vận dụng thứ ngôn ngữ
Phú Lang Sa đã lâu không dùng của mình để hiểu rõ điều bà muốn nói, đại để là
bà sẽ đến sân ga đón chúng tôi, bà đã nhận ra chúng tôi là người Việt Nam,
người thân của chồng bà, bà sẽ chuẩn bị để tiếp chúng tôi tại nhà. Vì đã gặp
nhau vài lần trước đây khi chúng tôi qua Paris, nên tôi tin chắc mình sẽ nhận
ra bà sau mấy năm dịch bệnh ngăn cách. Vậy mà hơn một giờ rồi vẫn không thấy
bóng dáng bà đâu, đi tới đi lui trong sốt ruột trông ngóng, chúng tôi nhận ra
mình không nói rõ hơn với bà đầm vị trí của sân ga, nó còn có cái cổng ở phía
sau nữa, biết đâu bà ấy đang ở bên đó.
Quả thật là bà đầm đang chờ chúng tôi cũng cả tiếng đồng
hồ trong kiên nhẫn mưa lạnh, chúng tôi ôm nhau thật chặt, trong lúc tôi rưng
nước mắt vì xúc động khi thấy bà khòm lưng trong 2 cây gậy chống, thì bà lại cười
khanh khách vì vui mừng gặp lại chúng tôi.
Lên xe bà nói huyên thuyên mà không cần biết chúng tôi
hiểu được mấy câu, thỉnh thoảng bà lại thò tay ra sau để nắm lấy tay tôi thân
thiết, trong khi anh xã tôi thót tim mấy lần vì tay lái gan dạ của bà đầm gần
90 tuổi trên con đường chắc cũng quen thuộc với bà mấy mươi năm ở đây.
Xe ngừng lại ở một nghĩa trang nhỏ trên đồi, bà muốn
chúng tôi thăm mộ anh trước khi về nhà, nơi yên nghỉ của người đàn ông mà bà
dành cả đời để yêu thương chăm sóc, bà kể mỗi ngày bà đều đến đây, đi bộ khi
trời nắng và đi xe khi trời mưa, chúng tôi đứng im trước mộ anh để nghe bà đọc
một bài thơ(?) có tiếng bổng tiếng trầm, dĩ nhiên là không thể hiểu hết nhưng
câu cuối thì tôi biết .”.je t'aime pour toujours” tôi biết bà đã yêu anh ấy biết
bao nhiêu, một người phụ nữ tận tụy hết lòng cho người đàn ông mà mình yêu
thương. Thế mới biết tình yêu đâu có ranh giới của màu da, chủng tộc, hay rào
cản của tôn giáo hoặc phân biệt giai cấp xã hội như thói đời. Tình Yêu là đi
thẳng vào trái tim của người đồng điệu để rồi ở lại đó suốt đời. Bà Marie là
người như thế đó.
Đứng trên ngọn đồi, nhìn xuống cỏ xanh ngút mắt, thấp
thoáng mấy ngôi nhà trong tàng cây, ở đó có một mái ấm đã từng giữ một trời
hạnh phúc của bà, tôi ngậm ngùi nhìn chung quanh là những ngôi mộ hàng xóm của
anh và chắc chỉ có anh là người Việt Nam duy nhất. Buồn ơi, kiếp sống tha
hương.
Mộ anh chất đầy bình hoa tươi, không có di ảnh, chỉ có
hàng chữ nhỏ đề tên anh, họ Trần, không có tên Tây nào đính kèm như một số Việt
Kiều khác. Anh đã sống và chết như một người Việt, chỉ có điều anh không có cơ
hội để trở về quê hương chọn nơi yên nghỉ dưới bóng dừa xanh, con sông nhỏ nơi
anh đã sinh ra, khi mà thời thế đất nước có quá nhiều thăng trầm thay đổi,
trước lúc mất chắc anh buồn lắm khi không kịp nhìn quê hương mình thay đổi,
người dân mình thật sự hưởng hạnh phúc tự do, đó là điều anh đã từng mong đợi
cũng như bao nhiêu người yêu nước khác đau đáu trong lòng khi nghĩ về Quê Mẹ
điêu linh. Rồi ở một nơi nào mơ hồ sương khói, anh gặp lại tất cả những người
thân yêu trong gia đình, Ba Má, anh hai, anh chị năm, anh chị sáu, anh Tài. Mọi
người đoàn tụ có vui không?
Ngôi nhà im lìm lạnh ngắt khi bước vào, tôi hình dung
gương mặt của anh năm nào lúc ngồi trên chiếc xe lăn đón chúng tôi tận cửa, sự
trìu mến thân thương của ông anh cả dành cho những đứa em phương xa lâu ngày
mới gặp.. Cái bàn này anh đã ngồi với chúng tôi, nhìn chúng tôi nói cười rôm
rả, còn bây giờ anh nhìn chúng tôi bằng đôi mắt của khung ảnh trên bàn, cũng
dịu dàng mà sao buồn quá.
Bà đầm mở cửa cho chúng tôi vào phòng riêng của anh, cánh
cửa chắc cũng đóng kín từ khi anh mất trong nỗi buồn đau nặng trĩu, khung cảnh
thâm trầm âm u vì thiếu ánh sáng bỗng bừng lên khi tấm rèm được kéo qua, chút
nắng chiều lọt khe hở đọng lại trên tấm bản đồ Việt Nam mà anh đã đặt trân
trọng giữa phòng, lần đầu tiên tôi cảm nhận được điều gì đó thật thiêng liêng
khi nhìn thấy tấm bản đồ của đất nước mình được đặt ở một nơi xa xôi cách nửa
vòng Trái Đất, trong ngôi nhà của một người Việt Nam lưu lạc hơn nữa thế kỷ
trước.
Xin được cúi đầu ngưỡng mộ lòng yêu nước của anh, người
mà tôi hết sức kính yêu như người anh cả trong gia đình, chính anh đã viết
những bức thư đầy tình cảm, để xoa dịu nỗi buồn của tôi khi vừa mới ra khỏi
trại giam với những mất mát đớn đau và cũng chính anh đã giúp đỡ tiền bạc cho
tôi trong bước đầu của cuộc sống khó khăn vất vả ở quê nhà.Thật lòng nếu không
có sự vận động của các anh em chồng bên Pháp thì chưa chắc gì con trai tôi được
ra đi an toàn, để ngày nay cháu sống yên
ấm bởi lòng nhân ái của tổ chức thiện nguyện Thụy Sĩ chăm sóc đến suốt đời. Ơn
này cũng có anh trong đó.
Nhìn quanh quất trong căn phòng đầy sách vở của anh, bất
chợt tôi nhận ra cái ca nhựa đã phai màu thời gian của Tài được đặt kín
đáo trên nóc tủ. Ôi cái ca tầm thường
dùng để đựng cơm trong trại giam nhưng đối với anh em chúng tôi thì nó rất quý
giá, bởi vì nó là kỷ vật còn giữ lại sau cái chết oan nghiệt của anh ấy, trên
cái ca đã được Tài khắc hai bài thơ để tặng tôi, những dòng chữ sắc nét và đầy
khẩu khí của một tử tù chính trị, ngoài ra cũng có cả lời yêu thương mà tôi
dành cho Tài trong tháng ngày buồn hiu ấy.
Đường đi của đồ vật coi rất đỗi tầm thường này cũng không kém phần ly kỳ, đầu
tiên ai đó cho tôi cái ca nhựa màu đỏ, tôi viết vào đó chữ “Tài yêu” và nhờ
người bạn tù chuyển vào phòng biệt giam cho anh, sau đó vài ngày thì nó được
trả lại cho tôi với những dòng chữ khắc chi chít trong đó, tôi nhớ rất rõ bài
thơ anh đã viết , nói lên tâm trạng của anh lúc bị gông cùm trong biệt giam “Hổ
kia sa cơ đành khuất nhục Kêu gào gầm thét thấu trời xanh Nay ta thất thế bị
giam cầm Cắn răng ngậm miệng nuốt hờn căm Một lòng vì nước vì dân tộc Thì có xá
chi chút ngục tù Chung thân,án tử cơn gió thoảng…”
Và còn nhiều nữa bài thơ anh tặng riêng cho tôi , những
dặn dò tha thiết mà mỗi chữ mỗi lời đã khiến nước mắt tôi rơi vì thương anh ấy.
Giữa bốn bức tường trại giam không biết cất giấu vào đâu
để cái ca tránh bị thu giữ, tôi bèn ném nó qua hàng rào kẽm gai cho một người
quen thân tin cậy vì anh ta sắp mãn hạn tù với lời nhắn gửi mang về Sài Gòn
trao tận tay anh chị chồng tôi, rồi không biết bằng cách nào anh chị lại chuyển
được nó qua Pháp, vì trong thời điểm đó sự qua lại Sài Gòn - Paris rất khó
khăn, và ông anh của Tài đã cất nó trên nóc tủ suốt 40 năm nay như giữ gìn
nguyên vẹn một kỷ vật của gia đình.
Bây giờ thì tôi đã nhìn thấy nó, để hăm hở bắt ghế leo
lên mang cái ca xuống, rưng rưng xúc động khi cầm nó, cảm giác giống như được
nắm cánh tay anh ấy ngày xưa, sao mà gần gũi thân thương quá đỗi.
Bằng thứ tiếng
Pháp Google, tôi giải thích với bà đầm về những dòng chữ kỷ niệm ghi trên đó và
xin bà cho tôi được giữ nó như một ân huệ cuối cùng mà tôi mong bà không từ
chối.
Marie trầm ngâm một lúc, bà rất yêu chồng và cũng muốn
giữ lại tất cả những gì thuộc về chồng của bà trong căn phòng riêng tư này,
nhưng bà cũng đồng cảm với tâm trạng của tôi, một người Việt xa lạ xuất hiện
trong ngôi nhà này, nhưng hình như đã gắn bó với nhau lâu đời cái duyên kỳ ngộ,
hai người đàn bà có cùng một nỗi đau mất mát khi người chồng thân yêu của mình
đã ra đi mãi mãi về cõi vĩnh hằng.
Bà tìm một bao giấy gói cái ca lại cẩn thận và trao nó
cho tôi, giống như nghi thức xếp cờ và trao cho người quả phụ có chồng đã hy
sinh ngoài mặt trận. Tôi mang ơn bà về nghĩa cử này như tôi đã từng mang ơn anh
ba, người anh đáng kính của Tài đã dành cho tôi mọi yêu thương trong suốt những
năm tháng đã qua Ra về mang theo ánh mắt dịu dàng của anh trên khung ảnh, mang
theo những cánh hồng đẫm nước mưa rơi rụng trước thềm nhà, mang theo gói quà
quý giá vừa được bà thương tặng Chúng
tôi ôm nhau từ giã, thân hình bà gầy gò yếu đuối trong lớp áo khoác, nhưng tôi
biết trái tim bà đã mạnh mẽ biết bao nhiêu khi phải sống trong ngôi nhà vắng
lặng này với bóng hình người chồng thân yêu lúc nào cũng như quanh quẩn đâu
đây. Thật lòng không biết lúc nào chúng tôi mới có dịp gặp lại bà khi khoảng
cách địa lý quá xa xôi, và với tuổi cao sức yếu của cả hai bên thì liệu bà có
thể đợi chờ để gặp lại chúng tôi lần nữa.?
Nghĩ như vậy thôi mà đã thấy buồn hiu hắt rồi
Ngọc Ánh
Paris tháng 9 /2022
No comments:
Post a Comment