1.Ngọn đuốc thiêng của dân tộc
Bạn có thể khiến mọi người rời bỏ quê
hương họ, nhưng bạn không
thể cướp mất quê
hương trong trái tim họ.
Dos Parsons (Mỹ)
40 năm qua, trong trái tim của hàng triệu người Việt, vì
tự do phải biền biệt lưu vong,
không ai mà lòng không quặn thắt khi nghĩ đến quê
nhà. Từ ngày
dựng nước đến nay, biết bao nhiêu
anh hùng không tên, không tuổi mà máu xương họ đã thấm sâu vào lòng đất Mẹ. Họ là ai? *Họ là
kẻ tự nghìn
muôn thuở trước – đã
phá rừng xẻ núi
lấp đồng sâu.
Họ là
những anh hùng
vô danh đã vì đồng bào
dân tộc mà
vĩnh viễn nằm xuống để làm
nên Tổ quốc.
Đằng Phương là một chiến sĩ tư tưởng, một chính
khách khoa bảng, một nhà
cách mạng lỗi lạc, bằng
hành động và ngòi bút, suốt đời ông đã
hy sinh cho lý tưởng tự do của dân
tộc. Các
sử gia, học giả, bình
luận gia đã
viết quá
nhiều về cuộc đời ông
.
Xuân về, lòng
người vọng về cố quốc, bùi
ngùi đọc lại những vần
thơ “Anh hùng vô danh của Đằng Phương -Nguyễn Ngọc Huy,” chúng ta
lại càng
thấm thía
thêm nỗi nhớ nước,
thương quê.
2.Anh
hùng vô danh là ngọn đuốc thiêng
không bao giờ tắt trên
quê hương đất Việt.
Từ những nắm tro tàn
của người chết làm
nên tổ quốc (Lamartine)
Có thể nói: Tổ quốc bất diệt. Dân tộc hiển linh là nhờ anh linh của biết bao nhiêu
thế hệ hiền tài,
và cùng hòa quyện với biết bao
tro tàn của anh hùng chiến sĩ vô danh.
Anh linh của anh hùng
đã cho ta niềm tin, sức mạnh;
cũng như bất hạnh của họ làm ta đau đớn xót xa.
Tất cả đã
nuôi dưỡng tinh thần và
lòng yêu nước suốt cả chiều dài
lịch sử của dân
tộc.
Họ là những anh hùng
không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng
tối mông
mênh
Không
bao giờ được hưởng ánh
quang vinh,
Nhưng
can đảm và
tận tình
giúp nước (*)
Những câu thơ xót xa trên đây là khởi đầu của bài
“Anh hùng vô danh” theo lối thơ tám chữ, là tên một bài
thơ trong tập thơ Hồn Việt
của Đằng Phương, xuất bản năm 1950, tại Paris. Trước 1975, bài
thơ được in trong sách
giáo khoa, để học trò
học, khoảng thập niên
50- 60 nhiều học sinh Trung
học đều thuộc. Đằng Phương tên thật Nguyễn Ngọc Huy, Ông
là một cựu chính
khách Việt Nam Cộng hòa,
một nhà
cách mạng mà
đức và
trí, cùng tấm gương hy sinh
cho đất nước đã lưu danh muôn thuở. Ông
nằm xuống trong luyến tiếc của
biết bao nhiêu người. Và để nhớ ơn ông, hiện nay từng lớp người đứng lên
làm tiếp những công
việc tranh đấu cho Tự do dân
chủ Việt Nam, mà
ông và những người đi trước
đã làm đang còn dang dỡ. Như nhà cách
mạng Phan Bội Châu,
thơ văn ông xuất phát
từ lòng
yêu nước, tư tưởng sâu
sắc và
nghệ thuật. Thơ văn đó
được gắn chặt vào
hành động cách
mạng và
đánh mạnh vào
cảm xúc
của người đọc.
Ông làm
thơ, không phải để than mây
khóc gió, và ông cũng không muốn người đời gọi ông là thi sĩ:
Tôi chẳng phải là
một nhà
thi sĩ
Dùng
thì giờ để thét
gió, gào mây,
Tiếc mảnh tình
tan vỡ, khóc
hơi may,
Thơ
chan chứa tuôn
thành muôn suối lệ (*)
Thơ ông thúc đẩy lương tâm người đọc, và
làm bùng vỡ lòng
yêu nước, để có
hành động cứu nước.
Thơ Đằng Phương không phải để giải trí, trà
dư tửu hậu, mà
để nghiền ngẫm suy tư những gì
cần làm
cho tổ quốc cho dân
tộc. Thơ ông
để nhận thức về nỗi đau thương
cùng vận nước. Thơ xoáy vào tim, để tâm can nung nấu lòng báo
ân đối với biết bao anh hùng
tử sĩ vị quốc vong thân.
Đọc thơ ông
để không
thờ ơ, không
vô cảm trước vận nước Việt điêu
linh.
Cả một đời đấu tranh, nhưng đôi
lúc ông cũng có cảm giác
tủi hổ khi nhìn
gương tranh đấu của tiền nhân.
Tôi thấy mình
vô dụng, lấy thơ văn
Ghi nỗi tủi một cuộc đời trống rỗng.(*)
Qua con người cách mạng và những gì
ông viết trong “Thay Lời
Tựa” của Tập Thơ Hồn Việt, người đọc dễ dàng nhận ra “Tuyên
ngôn Thi ca” của Đằng Phương-
Nguyễn Ngọc Huy, Tuyên ngôn này đã được xác quyết trong đoạn thơ xé
lòng sau đây:
Tôi chỉ là
một người dân
nước Việt
Cảm nỗi lòng của kẻ mất quê
hương,
Nỗi nhục nhằn, nỗi khổ cực đau
thương
Của nòi giống nghẹt trong cùm
lệ thuộc.
Lúc đường sống mịt mù
chưa thấy được,
Tôi mượn thơ để tỏ nỗi căm hờn,
Nỗi u buồn chán nản kẻ cô
đơn (*)
…….
Và từ “Tuyên
ngôn Thi ca” này đã làm người đọc cảm lòng, ray rức xót xa
vì nỗi khổ cực, đau thương của dân
tộc, và
thúc đẩy đồng bào
cần phải làm
một cái
gì đó cho quê hương, cho Đất Mẹ đang bị đoạ đày.
Đằng Phương nói
ông không phải là
Thi sĩ, nhưng sự thật con người và
thơ ông là một, bình
dị, chân
thật rung động. Thơ ông
đầy tính
chuyên nghiệp chứ không
phải là
thơ tài tử. Từ cách
chọn chữ đầy thi tính,
nhịp điệu trong ngôn
ngữ réo
gọi lòng
người, nhất là
tính tư tưởng thâm
sâu, thơ chân thật bởi thoát
thai từ lòng
yêu nước thiết tha. Thơ
Đằng Phương tràn đầy xúc động và
dễ đọng lại sâu
kín trong lòng người đọc. Anh hùng
vô danh đã tác động sâu
sắc trong trái
tim của nhiều thế hệ. Đó
là bài học yêu
nước. Bài
thơ đã sống vượt thời
gian, tác động sâu và rộng, thì làm sao không thể nói Đằng Phương không phải là
một Thi sĩ tên
tuổi của đất nước; mà
đó còn là ngọn đuốc thi ca yêu
nước, thương nòi.
Dễ gì
một bài
thơ đã hơn sáu mươi bốn năm qua mà
biết bao thế hệ vẫn thuộc nằm lòng,
và mỗi lần đọc lên
càng sục sôi
trước hiểm họa mất nước. Và
trên hết, qua những dòng
thơ đó con cháu đã biết cúi
đầu tưởng niệm tổ tiên,
biết trân
quí và biết ơn các
bậc cha ông
đã hy sinh vô bờ bến để làm
nên Quốc Tổ. “Thông
điệp anh hùng
vô danh” thúc giục con cháu
đừng quên
ơn Quốc tổ và
đứng lên
bảo vệ đất Mẹ ViệtNam.
Họ là kẻ muôn
nghìn năm thuở trước
Đã phá rừng, xẻ núi,
lấp đồng sâu
Và làm
cho những đất cát
hoang vu
Biến thành
một giải sơn hà
gấm vóc.
(*)
Khi Tổ quốc gọi, họ đứng lên
đáp lời sông
núi. Đồng lòng
cùng đi hy sinh tiếc gì
thân sống, như tiếng
Quốc ca.
Họ là kẻ không
nài đường hiểm hóc,
Không
ngại xa, hăng hái
vượt trường sơn
Để âm thầm chuẩn bị giữa cô
đơn
Cuộc Nam Tiến mở giang sơn lớn
rộng (*)
Thơ ông là Hùng Ca Sử Việt, là chính
khí ca, mãi mãi nằm sâu
trong lòng mọi người con dân
bất khuất. Chính
khí ca khơi lên ngọn lửa hồng yêu
nước. Bất cứ quân
xâm lược nào
cũng thất bại trước lòng
yêu nước. Yêu
nước là
yêu Đất Mẹ. Đừng quên
rằng mỗi người chúng
ta đều có
hai người Mẹ. Một người
mẹ sinh ra ta, và người Mẹ kia là Đất Mẹ, là
Tổ Quốc. 90 triệu người Việt là
con cùng một bọc Mẹ Âu
Cơ. Mẹ Âu
Cơ đã dạy con rằng: Gà
cùng một Mẹ chớ hoài
đá nhau. Nhưng thật đau đớn trong
lịch sử Việt, con Mẹ đã xẻ da thịt Mẹ, đã chém
giết đồng bào
để mưu bá
đồ vương. Đau đớn nhất và
ngập tràn
bất hạnh là
con của Mẹ nhưng lại mang chủ nghĩa
vô thần về chém giết anh em, đồng bào mình.
Con của mẹ nhưng lại cắt đất, tùng
xẻo thân
Mẹ để bán
cho giặc ngoại xâm.
Không
có người Mẹ Việt Nam vĩ
đại thì lấy đất nào cho chúng ta sống, nhưng khi Mẹ bị quân
xâm lược Bắc phương hiếp
đáp, thì một số con Mẹ quay lưng không
hành động gì
để cứu Mẹ, kể cả không
nói lên được một tiếng căm
thù quân bán nước và xâm lược. Chúng ta lưu vong vì chúng ta mất Đất Mẹ nên đã tứ tán
khắp nơi. Đàn
con Mẹ xa lìa
tổ, và
bơ vơ trên đất khách
quê người. Đời sống dù
có thành đạt sung sướng
nhưng đàn con Mẹ Việt Nam vẫn có cảm giác bơ
vơ vì đứng ngoài
Tổ quốc. Tổ quốc đã
bị đọa đày
dưới ách
cọng sản nên
con Mẹ phải lià
xa. Thật đau đớn, sống
thì ly cách quê hương, nhưng khi chết, nắm xương tàn
vẫn hoài
vọng về cố quốc, nắm xương, và
cả tro tàn
vẫn muốn nằm sâu
trong lòng Đất Mẹ, thì
phải biết Đất Mẹ thiêng
liêng cở nào.
Marie
Curie (Pháp) nói:
Tổ quốc quan trọng hơn sinh
mệnh, là cha mẹ của chúng ta,
là đất đai của chúng
ta.
40 năm
người Việt lưu vong, chúng
ta có nỗi đau chung là
đang xa Mẹ ViệtNam, đang
mất Mẹ ViệtNam. Có người biết Mẹ mất nhưng vẫn quay lưng và
còn thông đồng với kẻ bán
đứng Mẹ. Nhưng Tổ Quốc vẫn còn
may mắn, đất nước vẫn còn
những người con ngày
đêm vẫn miệt mài
hành động cho dân
tộc.
Tổ quốc vẫn còn những người con của Mẹ biết
sống.
Những người sống là
những người biết
sống;
Là những người không
chịu đứng khoanh tay
Phó đời mình
cho cuộc thế dần xoay;
Là những người không
để ngày
mình trống,
(Tâm sự Tố Như. Đằng Phương)
Đàn con Mẹ vẫn còn biết bao nhiêu người vẫn ray rức khôn
nguôi và luôn luôn nghĩ:
Dù tôi
không làm gì cũng luôn nghĩ, nếu tinh thần và sức lực cho phép, tôi
chỉ muốn phục vụ cho tổ quốc mình
trước tiên.
Pavlov (Nga).
Người biết sống là
lòng son không biến chuyển. Tấm lòng
son thủy chung với nước.
Từ nỗi lòng đau khổ của kẻ mất quê hương, khi nòi giống nghẹt trong cùm
nô lệ, bằng hành
động cứu nước họ xông
vào vòng khói lửa. Không
thành công cũng thành nhân. Anh hùng vô danh đã ngẫng cao đầu, cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan, dẫu
phải thịt nát xương tan, khi sa cơ thất thế.
Họ là kẻ khi quê
hương chuyển động
Dưới gót giày
của những kẻ xâm
lăng
Đã xông
vào khói lửa quyết liều thân
Để bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc
Trong chiến đấu, không
nài muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan,
Người thất cơ thành
thịt nát
xương tan
Nhưng kẻ sống lòng
son không biến chuyển. (*)
Lòng son không biến chuyển vì
thương Đất Mẹ, vì
Đất Mẹ là
máu huyết tâm
can của mình.
Mảnh Đất Mẹ dù
khô cằn sỏi đá
nhưng trong cuộc Nam tiến biết
bao người đã hy sinh. Con dân nước Việt luôn luôn
tin rằng: Nơi điạ ngục tù
đày của anh hùng
vô danh, hồn tổ quốc là
ngọn lửa thiêng
mãi mãi sống còn ở đó.
Người thất cơ quằn quại trong
chốn lao tù, nhưng họ vẫn ngẫng cao đầu, và chấp nhận uống đau thương vì
dân tộc. Uống đau thương là
uống: Chén
tân khổ nhấp ngon mùi
chính khí (Văn tế).
Thấm thía câu Văn tế này, lại càng thấm thía,
liên tưởng đến thơ Đằng
Phương. Chén tân khổ của cuộc đời hoạt động cách mạng của ông
làm cho thần khí
thơ ông mạnh mẽ.
Đốt lòng mình bằng ngọn lửa thiêng, khi thất cơ đành thịt nát
xương tan. Trước khi đầu rơi, và
ngay trong phút giây co giật của thân mình để trở về lòng Đất Mẹ, con Mẹ vẫn hô
to tên Mẹ Việt Nam.
Họ thản nhiên lần lượt bước lên
đài
Và dõng
dạc buông
tiếng hô
hùng dũng:
“Việt Nam muôn
năm!” Một đầu rơi rụng.
“Việt Nam muôn
năm!” Người kế tiến lên.
Và Tử thần kính
cẩn đứng ghi tên
Những liệt sĩ vào
bia người tuẫn quốc.
(Đằng Phương- Ngày
tang Yên Bái)
Thơ Đằng Phương là
thơ nói về tình
yêu và sự hy sinh đối với
Tổ quốc Dân tộc. Thơ nói về sự chiến đấu kiên cường dưới gót
giày xâm lược. Người đọc thấy
các trận đánh quân Tàu xâm lược đã rền vang suốt cả tập thơ Hồn
Việt.
Nhân loại, không ai mà không thương yêu đất nước mình.
Trước tình
yêu Tổ quốc, không
có quân xâm lược nào
chiến thắng nổi.
Hal, người Mỹ nói:
Tôi chỉ nuối tiếc một điều: tôi
chỉ có
một sinh mệnh hy
sinh vì tổ quốc.
Với tinh thần vô ngã vị tha. Quên mình
lo cho người, lo cho nước, đó
là đạo lý
của dân
tộc Việt. Và
khi công thành thì thân thối, khước từ lợi lộc vinh hoa. Vô danh
là trọn nghĩa của anh hùng.
Và đến lúc
nước nhà
vui thoát hiểm,
Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa,
Họ buông
gươm quay lại chốn quê
nhà
Để sống lại cuộc đời trong bóng
tối.
Tuy công
nghiệp không
ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng
bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu
lạc dưới trời quên
Không
ai đến khấn nguyền dâng
lễ vật.(*)
3.Kết.
Anh hùng Vô danh – Đuốc thiêng
cháy mãi.
Thomas
Jefferson vị Tổng thống thứ
III của Hoa Kỳ đã nói: “Chất kết dính Quốc gia là
máu trong trái tim của mỗi người dân.”
Máu anh
hùng vô danh trải qua bao thế kỷ
đã len vào mạch đất, hòa quyện vào
trong huyết thống của dân
tộc.
Nhưng máu họ đã
len vào mạch đất,
Thịt cùng
xương trộn lẫn với non sông
Và anh
hồn chung với tấm tình
trung
Đã hòa
hợp làm
linh hồn giống VIỆT (*)
Thi sĩ Đằng Phương – Nguyễn Ngọc Huy đã một đời hoạt động cách
mạng. Cuối đời trong nỗi nhục
nhằn lưu vong, cảm hoài nỗi lòng của kẻ mất quê
hương. Ông nhắc nhở con dân
nước Việt phải luôn
luôn ghi nhớ Di chúc
của Vua Trần Nhân
Tôn dặn:
-“Các người chớ quên,
chính nước lớn mới làm
những điều bậy bạ,
trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái
quyền nói
một đường làm
một nẻo. Cho nên
cái họa lâu
đời của ta là
họa Trung Hoa. Chớ
coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên
biên ải. Các
việc trên,
khiến ta nghĩ tới
chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không
tôn trọng biên
giới qui ước. Cứ luôn
luôn đặt ra những cái
cớ để tranh chấp.
Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất
đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái
tổ đại bàng
thành cái tổ chim chích.
Vậy nên
các người phải nhớ lời ta
dặn:”Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không
được để lọt vào
tay kẻ khác”.
Ta cũng để lời nhắn nhủ đó
như một lời di chúc
cho muôn đời con cháu.”
Ngày 28
tháng 7 năm 1990, Thi sĩ Đằng Phương đã hoà hợp làm linh
hồn giống Việt, và
đã qua đời tại Paris, Pháp
Quốc. Qua đời là
ra đi, là trở về gặp lại những
hiền tài của Dân tộc. Về gặp lại các anh hùng vì dân tộc đã
hy sinh, tuẫn tiết vì
sự nghiệp dựng xây
đất nước. Gặp lại các
bậc sinh vi tướng tử vi thần,
như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Nguyễn Tri
Phương, Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản, Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám. Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… Về gặp lại các tướng lãnh
miền Nam Tự do đã
tuẫn tiết vì
bảo vệ Tự do cho nước Việt.
Như bao anh linh của dân tộc, Đằng Phương- Nguyễn Ngọc Huy đã
trở về với nguyên
khí Quốc gia. Sự ra đi
của ông làm cho những tấm lòng cao
cả trên
thế giới phải tiếc thương và
ngưỡng mộ. Tổng thống Hoa Kỳ
George H.W. Bush đã gửi thư chia buồn, kể về ông:
“…để lại phía
sau một cuộc đời phục vụ tận tụy
cho dân tộc Việt Nam…xứng đáng làm gương cho các thế hệ mai sau.”
Xuân về, lòng xót xa trong nỗi lưu vong, nhưng vẫn rộn ràng
với bao niềm hy vọng về tương
lai Tổ quốc, rộn ràng và biết ơn các thế hệ trẻ vì
tự do, vì
tương lai rạng ngời của dân
tộc, họ đang tiếp bước của
những anh hùng dân tộc. Họ vẫn ngẫng cao đầu chiến đấu, chẳng sợ lao tù.
Và đang :
đốt lên
bằng ánh
lửa thiêng,
ánh lửa nung lòng
dân tộc.(*)
Và dân tộc Việt vẫn luôn luôn vững niềm tin, cho dẫu :
Trong lúc
sương rơi lạnh trắng đồng,
Đêm đông
dày đặc phủ non sông.
Ta cùng
mong đợi ngày
xuân sáng
Rọi ánh
bình minh vạn ánh
hồng.
(Đằng Phương- Nguyễn Ngọc Huy)
Xuân Tha Hương lại trở về. Như ước nguyện của Thi sĩ Đằng Phương, trong niềm tin ánh
bình minh chiếu rọi, chúng
ta vẫn mong đợi ngày
Xuân sang, mỗi người Việt lưu
vong là một Cánh Thiệp Đầu Xuân mới.
Với Cánh Thiệp Đầu Xuân và trái tim chân thành, chúng ta
cùng Nhạc sĩ Minh Kỳ hát
lên trong ước nguyện, cùng
chúc nhau thanh bình và vinh quang:
Tôi
chúc muôn người mọi điều ước
muốn
Non nước vinh quang trong tia nắng thanh bình
Để người anh yêu
dấu quay về gia đình
tìm vui bên lửa ấm
Tôi chúc
yên lành người người khắp chốn
Mong gió đưa
duyên cho cô gái Xuân thì ước nguyện sao chóng thành rượu hồng xe duyên
Kính
chúc bạn đọc thân
yêu An lành trong muà Xuân mới.
Nguyễn Văn Nhớ.
Chú thích: (*) Thơ Đằng Phương
Nguyên tác bài thơ
Anh Hùng Vô Danh
Đằng Phương – Nguyễn Ngọc Huy
Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước
Họ là kẻ muôn nghìn năm thuở trước
Đã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một giải sơn hà gấm vóc
Họ là kẻ không nài đường hiểm hóc,
Không ngại xa, hăng hái vượt trường sơn
Để âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn
Cuộc Nam tiến mở giang sơn lớn rộng
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
Đã xông vào khói lửa quyết liều thân
Để bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc
Trong chiến đấu, không nài muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan,
Người thất cơ thành thịt nát xương tan
Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển.
Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm
Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa.
Họ buông gươm quay lại chốn quê nhà
Để sống lại cuộc đời trong bóng tối.
Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi
Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình
Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch.
Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách,
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên,
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật,
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất,
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và anh hồn chung với tấm tình trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống VIỆT.
Bài hay lắm!
ReplyDeleteMong được nhiều bài của nhà biên khảo từ thời
VNCh Dường như trước Ông là Giáo sư tại trường Mỹ thuật Gia Định
Thân Quý