Viết dựa theo cuộc đời và bài thơ "Bé" trong tập thơ "Đêm Tận Thất Thanh" của Phan Nhật Nam.
****
Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ lên đường tập kết.
Tôi hơn em sáu tuổi. Chín tuổi con nhà nghèo khôn
lắm, tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những tiếng thở dài
và những giọt nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín tuổi, tôi đã biết
mình là người nam độc nhất trong gia đình, đã biết ẵm bồng đút cơm cho
em và vỗ về em mỗi khi em khóc. Chín tuổi, tôi đã biết tắm rửa, thay áo
thay quần cho em, cõng em đi chơi và dỗ cho em ngủ. Mỗi ngày, trời sập
tối mẹ mới gánh hàng về, ba mẹ con ngồi ăn cơm bên ngọn đèn dầu, tôi và
em hỏi han, an ủi mẹ. Mẹ kể cho chúng tôi nghe chuyện chợ búa như đang
nói chuyện với người lớn, tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai gầy của mẹ, nhìn
mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô cùng.
Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để trông chừng em. Mẹ
có một sạp bán rau cải ở chợ Cồn. Gọi là sạp chứ thực ra chỉ là một ô
đất nhỏ, sáng mẹ ra đi thật sớm, lúc trời còn mờ sương, buổi trưa mẹ về
nhà lo cho chúng tôi ăn, nằm nghỉ ít phút rồi trở dậy sửa soạn cho
chuyến chợ chiều. Một tuần bảy ngày, mẹ đi đi về về trong nỗi cô đơn.
Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho em vào mẫu
giáo, tôi cũng trở lại trường, đám bạn cũ của tôi nay đã hơn tôi hai
lớp, ngồi xung quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi hai, ba
tuổi. Tôi là học trò lớn nhất và học khá nên được làm trưởng lớp. Gần
cuối năm học lớp nhì, tôi nói với mẹ lên xin thầy Hiệu Trưởng cho tôi
được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng lòng. Tôi cắm cúi học luyện thi và kết
qủa là tôi đã đổ được bằng tiểu học năm đó.
Vào lớp đệ thất trường Phan Châu Trinh, tôi tiếp
tục học ngày, học đêm, năm đệ ngũ tôi thi nhảy một lần nữa lấy bằng
Trung học. Đến niên học đệ tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn cũ, tôi hân
hoan nhập bầy chung với đám bạn ngày xưa. Đây là giai đoạn mà tôi cần
tiền để mua sách học và may thêm quần áo, thời tiểu học và trung học đệ
nhất cấp thì mặc sao cũng được, nhưng bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã
bắt đầu biết đỏ mặt khi nhìn những đứa con gái trường nữ, thỉnh thoảng
đã biết theo bạn tập uống cafe, phì phà điếu thuốc. Tiền mẹ cho không
đủ, tôi bắt đầu công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm tiền. Học trò của
tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghĩa là cũng chỉ thua tôi vài tuổi.
Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về căn nhà nhỏ, căn nhà vẫn không thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy mẹ con để ra đi.
Hết năm đệ tam, tôi nộp đơn thi Tú Tài phần nhất.
Tôi đậu bình thứ. Một lần nữa, mọi người ngạc nhiên, nhưng tôi biết sức
học của mình, tôi biết mẹ buôn bán tảo tần, tôi thấy những năm tháng gần
đây mẹ trở bệnh hoài, mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật sớm nấu cơm để dành
cho anh em tôi, rồi lặng lẽ mang đôi quang gánh lên vai, những tối ngồi
trầm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn anh em tôi học bài và những đêm khuya mẹ
trở mình húng hắng ho. Tôi thương mẹ và em đến ứa nước mắt, và càng
thương mẹ thương em, tôi càng học như điên, như cuồng. Tôi ước gì Bộ
Giáo dục cho tôi thi hai bằng tú tài cùng một lúc. Nhìn mái tóc mẹ đã
lớm chớm sợi bạc, nhìn lưng mẹ mỗi ngày mỗi như còng xuống, nhìn hai vai
gầy của mẹ mà lòng quặn đau, và cứ thế, tôi vùi đầu vào sách vở...
Em đã bắt đầu tuổi lớn, đã bắt đầu tuổi mộng mơ con
gái, đã bắt đầu bước vào "tuổi ngọc", nhưng tội nghiệp, biết nhà mình
nghèo, biết mẹ mình buôn thúng bán bưng, biết anh mình vẫn chiều chiều
đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và cặm cụi học đốt giai đoạn cho chóng thành
tài. Biết thế nên em ít khi nào xin mẹ, xin anh tiền may áo mới, hai
chiếc áo dài trắng đủ cho em thay đổi. Em lớn lên thiếu tình của bố, nên
tôi "quyền huynh thế phụ". Nhiều lúc nhìn mẹ, nhìn em, tôi vẫn không
hiểu tại sao bố lại đành đoạn dứt áo ra đi.
Tôi thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế
học Đại học Văn khoa. Mẹ ở một mình với em ở Đà Nẵng. Mỗi cuối tuần, tôi
theo xe đò về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường. Ở Huế,
tôi tiếp tục công việc kèm trẻ tư gia. Với số tiền nhỏ nhoi kiếm được,
tôi phụ mẹ nuôi em.
Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy tháng, một chiều mẹ
bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ, mẹ sai em cạo gió
và nấu cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói mê,
sáng hôm sau em nghỉ học chở mẹ vào nhà thương và nhờ người nhắn tin ra
cho tôi ở Huế.
Lật đật trở vào Đà Nẵng bằng chuyến xe đò chót.
Trời tối đã lâu, không kịp ăn uống, từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh
viện. Trong căn phòng nhỏ, dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp
trên giường bệnh, còn em đang ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Đứng yên
lặng nhìn mẹ xanh xao bất động, và khuôn mặt thơ dại của em, trong giấc
ngủ hai khóe mắt vẫn còn long lanh giọt lệ, tôi nghe lòng mình quặn
thắt.
Đánh thức em dậy, em ngơ ngác dụi mắt vài giây.
Nhận ra tôi, em nhào tới ôm chầm và òa lên khóc, em cho hay là từ lúc
đưa mẹ vào đây, mẹ chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau
đó mẹ hôn mê trở lại. Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện.
Cô y tá trực cho hay mẹ bị đứt một tĩnh mạch ở đầu. Tôi bàng hoàng như
bị ai nện một nhát búa vào ngực. Cô y tá bùi ngùi nhìn em, đôi mắt xót
xa.
Tối đó, anh em tôi cùng ở lại với mẹ, em mệt mỏi,
nên chỉ một thoáng là đã ngủ say. Trong giấc ngủ mệt nhọc, thỉnh thoảng
em ú ớ mẹ ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như dao cắt trong
lòng. Suốt đêm không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên chân mẹ
em ngủ chập chờn. Tôi tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc....
nhưng sao nước mắt vẫn cứ trào ra, một tay ve vuốt bàn tay xanh xao của
mẹ, một tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của em, tôi để mặc cho hai dòng nước
mắt chảy nhạt nhòa trên má.
Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ sáng, mẹ không
tỉnh lại để trăn trối với hai con một lời gì. Mẹ đi trong yên lặng. Tôi
nắm bàn tay mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy. Hai anh em
hôn lên trán mẹ giã từ. Em vuốt mắt mẹ. Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm chặt hai
tay mẹ, ủ vào lòng mình miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi... Em khóc
lặng lẽ, áp mình vào ngực mẹ nước mắt em tuôn ràn rụa làm ướt đẫm cả vạt
áo me bạc màu. Những tiếng kêu nghẹn ngào của em như những viên đạn bắn
thẳng vào tim, tôi ngồi bất động nhìn mẹ, nhìn em, lòng đau như muối
xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em tôi. Em mới mười ba tuổi...
Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn lòng dạ nào mà học nửa. Nhưng em thì phải trở lại trường.
Bán đi căn nhà nhỏ xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn
liếng của mẹ để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ của Minh, một người bạn
thân tôi. Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi, cùng lớp với em. Tôi gửi em
đến đó ở và đi học với Hân, cũng may, bố mẹ Minh coi anh em tôi như con.
Tôi dặn dò em đủ điều. Số tiền tôi gởi cho mẹ Minh đủ để trả tiền ăn ở
của em trong hai ba năm. Tôi còn đưa thêm cho em một ít để em mua sách
vở, may áo quần, tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa với lòng, hứa với vong hồn
mẹ là sẽ lo lắng, sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời.
Tôi vào trường Võ Bị Đà Lạt năm 20 tuổi, lương sinh
viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài nhiều, để dành gởi về
cho em mỗi tháng. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể cho tôi nghe chuyện
học hành. Tôi bắt em hứa là không bao giờ dấu tôi một điều gì dù nhỏ bé.
Em ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi năm tôi được về phép một lần, hai anh em
quấn quýt không rời. Tôi đưa em đi thăm mẹ. Chúng tôi lặng yên cầm tay
nhau quỳ bên mộ mẹ, nước mắt lưng tròng.
Em lớn lên và ngày càng giống mẹ. Cũng khuôn mặt và
cái nhìn nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt. Bình thường em
rất ít nói, có lẽ không cha, mồ côi mẹ quá sớm và anh lại ở xa đã làm em
rụt rè. Cũng may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khóa của tôi, em
và Hân cùng lên tham dự, lúc này, em đã thi đổ vào trường Sư Phạm Qui
Nhơn, hai năm nửa em sẽ trở thành cô giáo, tôi hãnh diện giới thiệu em
và Hân với các bạn mình. Nhìn dáng em thẹn thùng e ấp, tôi thấy lòng
mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi mẹ, mẹ ơi, hai con của mẹ đã trưởng
thành và đã nên người.
Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy dù, có lẽ cũng
chỉ vì tôi thích màu mũ đỏ. Em vào học và ở nội trú trong trường sư
phạm. Tôi thấy mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một
nửa tiền lương lính của mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con
gái cần nhiều thứ hơn con trai, như áo quần, son phấn... Em vẫn viết thư
cho tôi mỗi tuần như em đã làm trong mấy năm qua. Em kể chuyện học
hành, chuyện bạn bè, em lo sợ là tôi đi tác chiến nhỡ có ngày bố con gặp
nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra nhau, em không nói thêm, nhưng tôi
cũng hiểu, tên đạn vô tình, nếu nhỡ.
Hai năm em học Sư Phạm trôi qua thật nhanh. Em bây
giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một trường tiểu học
gần thị xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo khác. Mỗi ngày
ba cô giáo ngồi xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng quây quần nấu
nướng. Em viết thư cho tôi và khoe có quen với Tuấn, một Sĩ quan Hải
quân đồn trú ở Phan rang. Em khen Tuấn hiền lành, ít nói. Em kể thêm là
Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ già.
Chiến tranh ngày thêm khốc liệt, đơn vị tôi hành
quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới được về hậu cứ một lần. Tôi
bị thương hai lần trong cùng một năm. Tôi dấu em, không cho em biết sợ
em lo lắng. Trong những tuần lễ nằm bệnh viện và ở hậu cứ dưỡng thương,
tôi bắt đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những trận
đụng độ kinh hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những "kỳ
tích " của bạn tôi, của Mễ, của Lô....
Sau một lần bị thương nhẹ ở tay, tôi lấy mấy ngày
phép ra Phan Rang thăm em. Em mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy cánh
tay băng bột em xót xa bật khóc. Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị
thương này tôi sẽ được về làm việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn
đến thăm. Thoạt nhìn, tôi đã có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn
trông rất hiền lành. Trong suốt tuần lễ ở Phan rang, em vẫn phải đi
dạy, nhưng may là có Tuấn, mỗi ngày Tuấn tới chở tôi đi ăn sáng, trưa
Tuấn và tôi lang thang ra chợ bạ gì ăn đó đợi giờ ba cô giáo đi dạy học
về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi lại nói chuyện với tôi cho tới
khuya. Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện của mình. Những hình ảnh
yêu dấu, xót xa như một cuộn phim củ quay chầm chậm. Tôi rưng rưng kể
lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm tối, tôi thấy mắt Tuấn
long lanh...
Bảy ngày phép cũng trôi nhanh. Tôi trở về Saigòn,
lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi tin Tuấn sẽ
không làm khổ em. Ba tuần sau, tôi nhận được thư Tuấn, trong thư Tuấn kể
về gia đình (mặc dù tôi đã nghe em kể trong các lá thư). Tuấn muốn tiến
tới với em. Tuấn xin phép được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi. Tuấn hứa là sẽ
săn sóc và thương yêu em. Đọc thư Tuấn tôi ứa nước mắt vì mừng. Mừng cho
em may mắn không gặp những trắc trở trên đường tình ái, mừng cho em gặp
được một người chồng hiền hậu. Tôi viết thư cho em và Tuấn, bảo hai em
lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm sao cho giản đơn vì cả hai đứa cùng
nghèo.
Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám cưới, nhà gái
ngoài tôi còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng, thầy
cô giáo và rất đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh
chị họ còn thêm một số bạn bè Hải quân cùng đơn vị. Nhìn em xúng xính
trong bộ đồ cưới, tươi cười đứng bên cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi, mẹ
ơi, về đây dự đám cưới của em.
Tôi theo đơn vị lội thêm hai năm nửa ở vùng giới
tuyến, thì "tai nạn" xảy ra. Trong một lúc nóng giận vì thấy ông xếp của
mình sao ngu và bẩn quá, tôi không giữ được lời và đã xúc phạm đến ông,
kết qủa là tôi bị đưa ra hội đồng kỷ luật và tống ra khỏi binh chủng
nhảy dù.
Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi đổi về cục
Tâm lý Chiến, thời gian này tôi đã khá nổi tiếng, những bút ký chiến
trường về Tết Mậu Thân, Bình Long. An Lộc... đã làm vinh danh binh chủng
củ của tôi. Tôi được giải thưởng văn học với bút ký "Mùa Hè Đỏ Lửa".
Tiền thưởng và tiền bán sách tôi gửi hết cho em. Tuấn và em dùng tiền
này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Phan rang, gần trường em dạy.
Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp bên vai Tuấn mà
bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rảnh rỗi, tôi lại ra Phan rang ở chơi với
em, với cháu. Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính, hít vào phổi mùi
thơm của trẻ thơ mà thấy lòng mình dịu lại, những cay đắng, cực nhọc
của đời theo tiếng cười lanh lảnh giòn tan của cháu mà bay xa, bay xa.
Tôi nhìn hai vợ chồng em, nhìn bầy cháu nhỏ lẫm chẫm quây quần bên chân
mẹ mà lòng vừa vui mừng vừa hãnh diện. Tôi ao ước mẹ tôi nhìn thấy được
cảnh này.
Biến cố tháng 4 /75 tới như một định mệnh oan
nghiệt, cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo. Em ở lại một mình
với một bầy con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và đứa nhỏ nhất còn
nằm trong bụng mẹ. Trong trại, tôi cứ đứt ruột nghĩ về em và bầy cháu
nhỏ. Mẹ của Tuấn đã quá già, làm sao lo phụ với em đây. Rồi em còn phải
lo lắng về số phận chồng, số phận anh. Tôi quay quắt như ngồi trên đống
lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn mẹ hôm nào mà lòng đau như xé,
con đã thất hứa với mẹ, mẹ ơi, con đang ở đây tù tội thì làm sao lo được
cho em...
Năm 76 tôi bị đưa ra Bắc. Tôi mất liên lạc với em
và Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết tôi ở đâu mà thư từ thăm gửi.
Không biết em có biết Tuấn ở đâu không, trại tù mọc lên như nấm từ Nam
ra Bắc. Hồi còn ở trong Nam, từ Trảng lớn, qua Suối máu, đâu đâu tôi
cũng cố dò hỏi tin Tuấn nhưng vô hiệu. Tù nhân đông quá...
Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho viết thư về gia
đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em. Thư em đến tay tôi vào
giữa năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ của em. Run run
bóc thư, mắt tôi cay nồng, nhạt nhòa. Em cho hay là Tuấn đang cải tạo ở
Long Thành, Tuấn có thư về và cho biết vẫn bình an, mẹ Tuấn dạo này yếu
lắm vì cụ đã quá già, em vẫn đi dạy, hai cháu nhỏ ở nhà với bà nội, hai
cháu lớn theo mẹ vào trường, em cho hay đứa con gái út em đặt tên Tâm,
Trần thị Minh Tâm, cháu sinh ngày 12 tháng 9 năm 75, gần 4 tháng sau
ngày bố cháu và bác cháu vào tù.
Gần cuối thư, em báo tin là bố còn sống và hồi đầu
năm 76 có tìm đến gặp em, làm sao bố tìm ra địa chỉ thì em không biết,
nhưng hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu tên mình. Em ngỡ ngàng, ngày bố ra
đi em mới tròn ba tuổi, hơn hai mươi năm sau gặp lại làm sao em nhận
được, bố xoa đầu đám cháu ngoại đang trố mắt nhìn người đàn ông lạ, bố
hỏi về anh, về Tuấn, khi em hỏi lại bố là làm sao để biết anh và Tuấn
đang bị giam giữ ở trại cải tạo nào, bố lắc đầu không nói gì. Bố cho hay
là bố đang có gia đình ở Bắc, ngoài ấy bố có thêm hai trai và hai gái.
Đứa trai lớn nhất thua em bốn tuổi.
Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo và một chục cam.
Bố ở chơi một ngày rồi trở về Hà nội. Lúc bố về em có tặng bố cái
radio-cassette của anh cho ngày nào. Bố thích lắm, bố hứa sẽ đến thăm
anh trong trại tù. Từ hồi trở ra Bắc dến giờ bố chưa liên lạc lại với
em, và em cũng không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy.
Tôi đọc thư lòng thấy phân vân, tôi cũng như em,
không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mũi ra sao, hai mươi mấy
năm, tôi tưởng bố tôi đã chết.
Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn La, bố đến thăm tôi.
Đứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một
người đàn ông trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần
dân sự khá thẳng thớm, và sự lễ phép của tên đại úy trưởng trại tiết lộ
về địa vị không nhỏ của người này. Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay
qua nói nhỏ một câu gì đó rồi bước ra ngoài. Tôi im lặng đứng nhìn người
đàn ông xa lạ.
Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên mình, bố gọi tôi
bằng anh, bố kể là đã gặp em ở Phan rang, bố hỏi tôi học tập thế nào, bố
không hề nhắc đến mẹ, có lẽ ông đã biết về cái chết của mẹ. Bố nói là
có đọc văn tôi. Tôi ngồi yên nghe bố nói, sau cùng, bố đứng dậy, móc
trong xách ra một gói nhỏ bảo đó là đường và thuốc lá, trao cho tôi,
khuyên tôi cố gắng học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt
bố, lòng thấy dửng dưng. Tôi bắt tay bố rồi về lại lán mình.
Đó, cuộc hội ngộ của bố con tôi sau hơn hai mươi
năm là thế đấy. Chắc cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt như thế.
Có cái gì đó ngăn cách, có cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không
hiểu và không diễn tả được. Bây giờ tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng
đến thế mà em lại chỉ đề cập một cách ngắn ngủi ở cuối thư.
Lần đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi gặp bố trong suốt 13 năm lang thang trong các trại tù biệt giam miền Bắc.
Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm
được hai lá thư của em, trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78.
Em cho hay tình trạng rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ
già và bốn con thơ, em đã bán lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả
những đồ vật trong nhà. Em vẫn chưa đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào.
Không thể để bốn cháu nhỏ ở nhà cho bà nội vì cụ bây giờ đã quá yếu,
mỗi buổi ăn, Uyên, cháu lớn phải đút cho bà. Ngoài ra, mỗi tối, từ lúc
chạng vạng em và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu ngõ, ngồi bán bắp nướng
đến khuya để kiếm thêm tiền đong gạo. Em than là dạo này mất ngủ, sức
khỏe yếu lắm, em sợ nhỡ có mệnh hệ nào...
Tôi thẫn thờ cả buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi
chỉ lo cho có mỗi mình em, còn bây giờ em phải lo cho bốn đứa con thơ và
một mẹ già, kể luôn người chồng và ông anh đang tù tội là bảy, bảy cây
thập giá đời đang đè nặng lên đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết
thư về an ủi, khuyên em cố gắng, tôi vỗ về em là có thể Tuấn sẽ được tha
về sớm với em, với cháu, vì Tuấn đi hải quân và lon còn thấp, không có
tội với cách mạng nhiều. Rồi tôi viết thêm cho em hai ba lá thư nửa mà
vẫn không thấy hồi âm. Lòng tôi cồn cào, nóng như lửa đốt, những ngày
dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái khổ của mình mà chỉ nghĩ đến
em và mấy cháu, không biết giờ này, em và bốn cháu thơ dại đang có gì
ăn?
Tháng 6/79, một sáng trên đường lên rừng đốn nứa,
tôi nghe loáng thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe từ các bà vợ
đi thăm nuôi kể lại, rằng ở Phan Rang có một chị có chồng đang đi cải
tạo, chị chết đi, để lại bốn con thơ, đứa bé nhất mới lên ba, còn đứa
lớn nhất chưa đầy chín tuổi. Tội nghiệp, họ hàng nội ngoại không có một
ai. Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống lưng, lại gần hỏi thêm thì
người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô giáo, có chồng sĩ
quan hải quân đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Người chồng, trung
úy hải quân trước cũng đóng ở Phan Rang. Trần Nguyên Tuấn, hải quân
trung úy Trần nguyên Tuấn.
Tôi thấy đất trời đảo lộn, tôi thấy mặt trời nổ
tung trong óc, tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi
rừng Yên Bái, bên cạnh tôi tiếng người nói lao xao. Tôi không nghe gì
hết, tai tôi lùng bùng, mắt tôi mờ đi, tôi đang nhìn thấy xác em nằm co
quắp trên manh chiếu, bốn đứa cháu của tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba
tuổi đang lấy tay lay lay xác mẹ, cháu lớn Thu Uyên chưa đủ chín tuổi
đang ôm chân mẹ khóc lóc ủ ê, hai đứa kia, Hoàng và Châu ngơ ngác đứng
nhìn. Trời tháng 6 mùa hè Yên bái mà sao tôi thấy thân mình lạnh buốt.
Tôi tê dại, tôi hóa đá, tôi không còn cảm xúc, tôi muốn hét lên cho tan
vỡ cả vũ trụ này. Trong lung linh màu nắng vàng buổi trưa Yên Bái, tôi
thấy bóng em nhập nhòa, chập chờn. Em của tôi, đứa em côi cút của tôi...
Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc
cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa
lộ. Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào
dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng
du...
Phan Nhật Nam
Tôi đọc và nhiều đoạn ứa nước mắt... Xin cám ơn anh Phan Nhật Nam.
ReplyDeleteXin phép cho tôi đăng lại bài này ở trang nhà của tôi: https://nuocnha.blogspot.com
ReplyDeleteXin cảm ơn trước
nguyenvanloc@yahoo.com
Deletemuon dang tren trang nha nguyenvanloc@yahoo.com
DeleteOK.
DeleteNPN
nguyenvanloc@yahoo.com
Delete