Khi đất nước tôi thanh bình… Tôi sẽ đi thăm… Hà Nội vô Nam, Sài Gòn ra Trung… Khi đất nước tôi thành bình… Tôi sẽ đi thăm…”.
Thú thực là tôi không yêu con người chính trị cực kì hổ lốn của Trịnh
Công Sơn, nhưng tấm lòng của ông, ước mơ của ông và mối cảm hoài về quê
hương, đất nước của ông trải ra trên tác phẩm khiến cho không ít người
nghe, qua đó mà chiêm nghiệm, trở nên sâu sắc và biết suy tư về thân
phận chiến tranh, thân phận dân tộc và thân phận con người. Có lẽ, cũng
chính vì vậy mà hơn bao giờ hết, trong lúc này, khi mà thông tin cho
rằng rất có thể 39 người bị chết cóng trong container đông lạnh ở Anh là
người Việt. Tự dưng, tôi lại nhớ đến những câu này, và hoài nghi hai
chữ “thanh bình” trong ca khúc của ông. Đất nước đã có ngày nào thanh
bình chưa? Và đến bao giờ nước mắt thôi rơi?
Đất nước thống nhất hai miền, vĩ tuyến 17 trở thành kỉ niệm của một
thời, và người ta có thể ra Bắc, vào Nam mà không cần phải chờ “giờ nhân
ái” hay “giờ đình chiến” của bất kì chính thể đối lập nào. Người miền
Bắc có thể vào thăm Cà Mau, thăm Cần Thơ, thăm chợ nổi Cái Răng hay
xuống Đầm Dơi, Đất Mũi để hiểu rằng rừng ngập mặn Đất Mũi cũng có sú,
vẹt, đước giống rừng ngập mặn ở Ninh Bình nhưng ngoài ra, tôm sú và tôm
đất ở Cà Mau khác xa Ninh Bình và Cà Mau có nhiều thứ Ninh Bình không
có, cũng như Ninh Bình chưa biết rừng dừa nước hay rừng đước giống như
cà Mau.
Và có hàng ngàn câu chuyện để biết nhiều hơn, đi nhiều hơn giữa hai
đầu đất nước, hàng ngàn người trong Nam ra Bắc tham quan, thăm thú, để
biết thế nào là chùa Thầy hay lăng tẩm hoàng cung, cột cờ Hà Nội, hồ
Gươm, hồ Tây hay hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc… Và người đồng bào thiểu số miền
Nam cũng tìm về thăm đồng bào thiểu số miền Bắc, nơi mà rất lâu gia tộc
họ đã li tán vì một điều gì đó. Còn người có thể đi khắp mọi miền đất
nước và nhìn ra bao điều mới lạ, Còn người có thể đi khắp mọi miền đất nước và nhìn ra bao điều mới lạ,
nhưng có một điều, qua hai thời kỳ, qua bao đau thương, dường như không
hề thay đổi, đó là nước mắt, tiếng khóc quê hương vẫn còn chất nặng niềm
đau!
Người
Bắc có thể vào Nam đi tham quan, du lịch mà không cần xin phép qua cửa
khẩu nào, vĩ tuyến nào. Và người Bắc biết thêm được chợ nổi là gì, Đầm
Dơi là gì, Thất sơn là gì… hay dinh Độc Lập ở đâu, sao lại gọi Sài Gòn
là hòn ngọc viễn đông… Nhưng người Bắc cũng không thể không nhìn thấy
những cô gái trên bến Ninh Kiều, trên đường Huyền Trân Công Chúa hay
đường Bạch Đằng… và hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn cô gái
miền sông nước đang rải rác khắp đất nước với nghề phục vụ karaoke,
massage, gội đầu, tiếp thị bia…
Và, người miền Nam có cơ hội ra miền Bắc để thăm thú, lên tận những
bản làng xa xôi như Phiêng Đéng, Bắc Kạn, Hoàng Thu Phố, Simacai, Lào
Cai hay Hà Giang với những địa danh gần như chỉ biết trong sách vở như
cột cờ Lũng Cú, đèo Mã Pí Lèng, các bản làng nơi cao nguyên đá Đồng Văn
hay cột cờ Phai Vệ, cầu Kỳ Cùng, núi Mẫu Sơn, ải Chi Lăng, Lạng Sơn…
Những địa danh ấy, khi đi rồi mới hiểu đất nước dài, rộng và đẹp nhường
nào, người Việt làm lụng vất vả, yêu quê hương, yêu con người ra sao. Và
cũng chỉ khi đi rồi mới hiểu rằng nếu như các cô gái miền Tây Nam Bộ đổ
xô khắp ba miền đất nước để kiếm cơm thì các chàng trai, cô gái xứ Bắc
cũng lang thang khắp nơi, thậm chí bôn tẩu xứ người với thân phận chui
nhũi, bất hợp pháp để kiếm từng đồng trả nợ cho đường dây đưa người vượt
biên và nuôi hi vọng đổi đời.
Câu chuyện gần đây nhất, mới vài hôm trở lại đây, nói về thân phận 39
người bị chết cóng trong thùng đông lạnh trên đường vượt biên vào Anh
để làm thuê (theo đồn đoán là họ trồng cần sa thuê) lại nhắc biết bao
nhiêu chuyện khác xoay quanh vấn đề vượt biên ở miền Bắc. Có một điều
đặc biệt mà ít ai nhắc tới là người miền Bắc vượt biên nhiều hơn người
miền Nam. Trừ các thuyền nhân đã vượt biển có dính đến chính thể Việt
Nam Cộng Hòa kể từ mốc 30 tháng 4 năm 1975, thì hầu hết người vượt biên
tìm chân trời mới không phải vì nguyên nhân lý lịch ở miền Nam sẽ rất ít
so với miền Bắc. Bắt đầu từ Bắc vĩ tuyến 17 ra đến Quảng Bình, Hà Tĩnh,
Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nội, đặc biệt là các tỉnh Đông Bắc và
Tây Bắc, số lượng người vượt biên có thể lên đến hàng chục triệu. Và
hầu hết họ vượt biên sang các nước châu Âu, trong đó nước Anh là chính.
Vì họ vượt biên theo con đường lao động chui, đường làm thuê và không có
giấy tờ nên họ tuyệt nhiên không có cơ hội thành Việt Kiều và cũng rất
khó để thống kê về họ.
Nhưng nhà cầm quyền địa phương biết họ vượt biên, vì chính sách quản
lý người của chính quyền Cộng sản từ cấp địa phương đến cấp tỉnh rất gắt
gao, con muỗi cũng khó lọt. Nhưng vì cái “chung”, cái “vĩ mô” những
người vượt biên này mang về quê hương một lượng tiền không hề nhỏ, thậm
chí rất lớn, nó giúp cho kinh tế địa phương thay đổi đáng kể và đó cũng
là cơ hội để giới chức địa phương gây khó dễ, vòi vĩnh kiếm ăn. Chính vì
vậy số lượng người vượt biên sang Anh ở Lệ Thủy, Quảng Bình và ở các
huyện ven biển Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa là nhiều vô kể. Đi vào bất kì
khu dân cư nào, thấy nhà cửa xây cất bề thế, cửa ngõ khóa cẩn thận và
trong làng chỉ có người già thì đích thị đó là khu “vượt biên”. Mà số
lượng những khu “vượt biên” này thì nhiều vô kể!
Đó là chuyện đã diễn ra gần hai chục năm nay, còn chuyện mới đây, kể
từ khi biến cố biển nhiễm độc do Formosa xả thải thì cấp độ vượt biên
của người Bắc miền Trung còn kinh khủng và tội nghiệp hơn nữa. Nghĩa là
trước đây còn mơ tưởng chuyện sang Anh và các nước châu Âu, tệ một chút
thì sang Trung Quốc, Đài Loan để lao động chui. Còn hiện tại, sau khi
biển chết, sau khi rừng bị tàn phá và thiên nhiên đổi màu, lại có thêm
hàng ngàn gia đình ở Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh tìm cách sang
Lào, thậm chí nhiều trẻ em bỏ học trốn sang Lào theo các đường dây lao
động chui để kiếm sống. Có thể nói rằng số lượng người vượt biên ở miền
Bắc vượt rất xa so với miền Nam. Và đáng thương, đáng tội hơn cho họ là
họ cũng có chung ước mơ đổi đời, có ước mơ tìm đến xứ sở tự do để sinh
sống giống như hàng triệu người miền Nam nhưng họ lại mang lý lịch trái
ngược với người miền Nam nên cơ hội làm công dân xứ sở tự do của họ là
hoàn toàn không có. Người miền Nam có lý do tị nạn, để qua đó, có thể
được các tổ chức nhân đạo cứu giúp, người vượt biên miền Bắc không có lý
do nào để được các tồ chức này cứu giúp.
Có chăng, những người được cứu giúp ở miền Bắc là người bị lừa bán
sang Trung Quốc (các bạn hãy thử lên các bản làng Tây Bắc, Đông Bắc tìm
hiểu, có thể khẳng định rằng Không có bản làng nào là không có người bị
lừa bán sang Trung Quốc!) và cơ hội được cứu của nạn nhân là gần như
không có. Thế mới hay rằng ước mơ đất nước thanh bình, không còn chiến
tranh, để người người được vô Nam hay ra Bắc dường như mãi mãi là một
giấc mơ dang dở. Bởi sau chiến tranh mấy mươi năm vẫn chưa thấy thanh
bình hay no ấm.
Bởi mới đó, tưởng như thanh bình, thống nhất thì có hàng vạn người
phải vào trại cải tạo, sống chết với rừng thiêng nước độc, hàng triệu
con người bỏ mạng trên biển, đau đớn trên đường đi tìm tự do, tìm sự
sống. Hàng triệu gia đình bị xua ra khỏi nhà và mất trắng mọi thứ, thời
kì của nhòm ngó, theo dõi, đấu tố, trừng phạt, trả thù, tịch thu… Thời
kì của ba lát sắn cõng một hạt gạo, nói chuyện với nhau chỉ nghe toàn
tiếng ợ và mùi sắn khô, mùi hạt kê, hạt bắp đã di chuyển từ kho làng tới
kho xã, kho huyện, kho trung ương rồi phân phối quay ngược trở về các
kho. Bụng người, thân phận người, suy nghĩ người cũng vòng vèo như chính
đường đi của hạt bắp, lát sắn hay hạt kê…!
Và con đường vòng vèo với hạt gạo, hạt lúa, miếng ăn ấy cứ kéo dài
mãi cho đến nay, niềm đau kèm theo cũng vòng vèo và lớn dần theo năm
tháng, chưa bao giờ nguôi! Nước mắt của những gia đình có con bỏ mạng
nơi xứ người bây giờ không phải là riêng nước mắt của người mẹ miền Nam
khóc con bỏ mình trên biển, không phải là riêng nước mắt của người mẹ
miền Nam khóc con bỏ mạng nơi trại giam… mà là nước mắt của cả người mẹ
miền Bắc, của nhiều người mẹ miền Bắc khóc con bỏ mình nơi xứ người vì
chén cơm manh áo, vì ước mơ vượt thoát cái nghèo hay đổi đời, nhìn thấy
thiên đường. Hay nói khác đi là cái ước mơ mà trước đây hơn nửa thế kỉ,
những người mẹ miền Bắc cũng đã từng khóc hết nước mắt, thậm chí quị ngã
vì nghe tin con mình không trở về, đã bỏ mạng nơi chiến trường miền
Nam, cho công cuộc “cách mạng thần thánh”. Để rồi sau bao nhiêu năm, sau
cuộc cách mạng thần thánh ấy, nước mắt lại chảy thêm lần nữa vì những
đứa con bỏ mình cho cuộc cách mạng áo cơm, đổi đời!
Đất nước này chưa bao giờ được thanh bình dù đã im tiếng súng. Nhưng
tiếng súng nơi lòng người vẫn cứ nổ hằng đêm, và những viên đạn vô hình
ấy đang giết dần sinh mệnh, nhân phẩm, lòng yêu thương, tự do và cả
tương lai của một dân tộc có số phận vốn dĩ rất buồn!
No comments:
Post a Comment